Đề tài Các chính sách cơ bản của chính phủ để phát triển nông nghiệp - Nông thôn Việt nam trong giai đoạn hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NÓI CHUNG VÀ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN NÓI RIÊNG 2

I-/ VAI TRÒ VÀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT CỦA CHÍNH PHỦ

TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: 2

1-/ Vai trò của chính phủ trong hoạt động điều tiết

nền kinh tế: 2

2-/ Các công cụ điều tiết nền kinh tế quốc dân của

chính phủ: 3

II-/ VAI TRÒ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN: 4

1-/ Vai trò của phát triển nông nghệp- nông thôn

với phát triển kinh tế xã hội ở việt nam. 4

2-/ Vai trò của các chính sách trong phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta: 4

III-/ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ NÔNG NGHIỆP- NÔNG THÔN Ở CÁC NƯỚC

TRONG KHU VỰC: 5

PHẦN II: CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP -

NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 6

I-/ CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐƯỢC ÁP DỤNG CHO NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN

HIỆN NAY: 6

1-/ Chính sách ruộng đất ( Được ban hành và sửa đổi tháng 7-1993 ). 6

2-/ Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

và tạo vốn cho kinh tế nông thôn Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay. 7

3-/ Vấn đề về tổ chức và chính sách phát triển

thị trường nông thôn cho kinh tế nông thôn. 8

4-/ Chính sách xã hội: 10

5-/ Các chính sách khác. 11

II-/ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI VỚI

SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 12

1-/ Tác động đến sự tăng trưởng và chuyển dịch

cơ cấu kinh tế: 12

2-/ Tác động của chính sách kinh tế đến thu nhập,

việc làm và đời sống đân cư. 17

PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN NƯỚC TA TRONG

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 21

I-/ NHỮNG MẶT CÒN HẠN CHẾ TRONG CHÍNH SÁCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 21

1-/ Chính sách ruộng đất: 21

2-/ Về chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn

cho kinh tế nông thôn. 21

3-/ Về chính sách tổ chức và chính sách phát triển

thị trường cho kinh tế nông thôn. 22

4-/ Về chính sách xoá đói giảm nghèo. 23

5-/ Về các chính sách khác: 23

II-/ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP- NÔNG THÔN TRONG

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 23

1-/ Chính sách ruộng đất: 23

2-/ Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn

cho kinh tế nông thôn. 24

3-/ Vấn đề tổ chức và phát triển thị trường cho

kinh tế nông thôn. 25

4-/ Về chính sách xoá đói giảm nghèo. 25

5-/ Các chính sách khác: 26

KẾT LUẬN 27

TÀI LIỆU THAM KHẢO 28

MỤC LỤC 29

 

doc30 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các chính sách cơ bản của chính phủ để phát triển nông nghiệp - Nông thôn Việt nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khích mở mang các chợ nông thôn, tạo điều kiện cho giao lưu hàng hoá nhỏ và phân tán phát triển. 3. 2. Về chính sách phát triển hàng nông-lâm-thuỷ sản. Trong nhưng năm qua hoạt động sản xuất hàng nông lâm-thuỷ sản đã gia tăng đáng kể và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường. Tình hình gia tăng gía cả các mặt hàng nông sản như: giá gạo, giá cà phê, giá cao su..., nó đã tạo lợi thế cho các mặt hàng này của Việt nam tham gia ngày càng có uy tín và vị trí trên thị trường thế giới. Song rất nhiều lợi thế đã không được phát huy do trình độ sản xuất, chế biến của Việt nam còn quá thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng vệ sinh còn kém. Vì vậy chính sách xuất khẩu nông lâm-thuỷ sản đã được nhà nước ta quy định như sau: Một là: Cần phải nghiên cứu tỉ mỉ, chi tiết về khả năng tiêu thụ của từng loại mặt hàng với các tiêu chuản như mẫu mã, chất lượng cụ thể mà từng thị trường trên thế giới yêu cầu đáp ứng. Hai là: Có quy định cụ thể mức thu thuế xuất nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng. Ba là: Thị trường chủ yếu của mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản của nước ta là thị trường truyền thống như: Nga, Trung Quốc và thị trường các nước Đông Âu. 3.3. Chính sách về thị trường vốn và tư liệu sản xuất cho kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Trong thời gian qua chúng ta đã thực thi nhiều biện pháp nhằm ổn định giá cả của hàng hoá và giá cả của tiền tệ nhằm huy động nguồn vốn cho nông thôn. Nhà nước ta quy định cụ thể cho từng loại như sau: Một là: nhà nước quy hoạch taọ mặt bằng nhiều nơi ở nông thôn để cho các thành phần kinh tê có điều kiện về vốn và hiểu biết về hoạt động kinh doanhcacs mặt hàng tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp và các hoạt động sản xuất khác phát triển. Hai là: Tăng cường chức năng giám sát của cơ quan quản lý thị trường tư liệu sản xuất nông thôn để kiểm tra và xử lý kịp thời các vụ buôn bán hàng giả gây thiệt hại cho sản xuất; đồng thời là trung tâm tư vấn về tư liệu sản xuất mới cho nông thôn 3. 4. Chính sách về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn. Đối với các chính sách ruộng đất và chính sách thị trường đầu ra cho sản xuất nông nghiệp-nông thôn thì chính về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn cũng như các chính sách về công nghệ nó là tiền đề tác động trực tiếp đến sự phát triển của các chính sách đó. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các chính sách cơ bản sau để giải quyết vấn đề về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn như sau: Một là: Mở rộng hoạt động hướng nghiệp và tư vấn về nghề nghiệp của các trung tâm hướng nghiệp trung ương từ thành thị chuyển về nông thôn. Hai là: Triển khai các hoạt động nghiên cứu về nhu cầu việc làm đối với từng đối tượng lao động để từ đó tạo ra chính sách phù hợp. Ba là: Nghiên cứu sự di chuyển lao động giữa các vùng nông thôn để đề ra giải pháp hợp lý các quá trình di chuyển và khuyến nghị phát triển việc làm ở từng vùng, mở rộng các làng nghề truyền thống. 4-/ Chính sách xã hội: Trong thời gian qua cùng với việc ban hành và sửa đổi các chính sách kinh tế. Đảng và Nhà nước ta cũng tập trung vào việc ban hanh và sửa đổi các chính sách xã hội bởi các vấn đề về xã hội nó có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước nhà. Trong các chính sách đó thì chính sách xoá đói giảm nghèo là một trong những được chính phủ ta đặt lên hàng đầu. Theo số liệu thống kê trong sáu năm từ 1992-1998 cả nước đã đầu tư 10927 tỷ đòng cho trương trình xoá đói giảm nghèo và đã mang lại kết quả: hàng năm số hộ đói nghèo đã giảm xuống chừng 1, 8 đến hai phần trăm. Đến tháng 7/1998 còn 17, 4% hộ đói nghèo (theo tính toán của chính phủ Việt nam). Nhưng theo tính toán của ngân hàng thế giới chúng ta có khoảng 50% số hộ nghèo đói. Để giải quyết vấn đề này trong thời gian qua chúng ta đã có các biện pháp: Một là: Về chính sách ruộng đất Nhà nước đã đề ra các chính sách: Nhà nước đã trả lại phần ruộng đất của hộ nông dân đói nghèo, nợ sản phẩm cũ đã bị rút bớt ruộng để các hộ nông dân này canh tác tự đảm bảo cục sống, giảm nghèo đói cho gia đình họ. Hợp tác xã và các cấp chính quyền xác định đúng sổ nợ cũ khó trả của số hộ nông dân nghèo đói bị nợ sản phẩm của hợp tác xã, của ngân hàng và có giải pháp xoá một phần hoặc xoá cả số nợ sản phẩm và khoanh nợ ngân hàng cho các chủ nông hộ đang trong hoàn cảnh nghèo đói. Nhà nước đã có các chính sách trợ cấp và miễn giảm thuế đối với các hộ nghèo. Hai là: Về chính sách vốn đầu tư cho các hộ nông đân đói nghèo: Trên cơ sở xác định đúng tiêu chuẩn hộ đói, nghèo và hướng dẫn lập kế hoạch làm ăn, Nhà nước cho vay không lãi, không thế chấp và chuyển thẳng tiền mặt trực tiếp theo đơn xin vay của hộ đói( khoảng 3 triệu đồng) và hộ nghèo( khoảng 2 triệu đồng). Nhà nước cho phép các tổ chức tham gia vào chương trình này bằng các ngồn vốn khác nhau. Ngoài ra chính phủ còn có các chương trình trợ cấp cho các hộ nông dân vùng núi, vùng sâu, vùng xa tiến hành trợ giá nông sản cho các vùng đó. Các chương trình đó đã đạt được kết quả rất cao làm cho bộ mặt nông thôn ngay càng được phát triển. Cùng với các chính sách cơ bản ở trên Đảng và Nhà nước ta còn thực hiện những chính sách khác, để cùng hỗ trợ cho các chính sách cơ bản ở trên giải quyết một cách tốt nhất vấn đề phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta. 5-/ Các chính sách khác. 5. 1. Chính sách tỉ giá: Năm 1986 chính sách phá gí đồng tiền của Đảng và Nhà nước ta đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy trong những năm gần đây chính phủ ta luôn thực thi chính sách ổn định tỉ giá của đồng tiền trong nước, bởi sự gia tăng đột ngột của tỉ gia thông qua biện pháp chủ động phá giá đồng tiền nội tại một cách chủ quan không dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ đều sẽ đưa nền kinh tế đi đến khủng hoảng, ảnh hưởng xấu đến nông nghiệp nông thôn, phá vỡ cơ cấu kinh tế nông thôn. 5.2. Chính sách điều tiết nông dân và kinh tế nông thôn: Nó thể hiện sự tổng hợp mối quan hệ giữa Nhà nước đối với nông thôn và nông dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, quan điểm của Nhà nước ta về chính sách điều tiết là làm giảm nhẹ các khoản chi phí của nông dân, đồng thời hỗ trợ các mặt để nông dân nông thôn vươn lên vượt qua đói nghèo. 5.3. Chính sách phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nông thôn: Xuất phát từ thực tiễn khách quan cảu tình hình kinh tế trong nước và trong khu vực Đảng ta đã đề ra các chính sách phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nông thôn hư sau: Một là: Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt quy hoạch phát triển khu công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Trong quá trình quy hoạch phải coi trọng việc gắn nó với quy hoạch xây dựng các tụ điểm dân cư theo hướng đô thị hoá và hiện đại hoá kinh tế nông thôn. Hai là: Gắn chính sách phát triển các nghành công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn trong thể chiến lược công nghiệp hoá đất nước. Định hướng phát triển ông nghiệp ở nông thôn được xác định ngay từ đầu. Định hướng phát triển các nghành công nghiệp lớn cần hướng vào phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Ba là: Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thốnh cung cấp điện cho nông thôn. Trước hết tập trung cho các xã các vùng đông dân cư và vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng khó khăn, vùng thưa dân, chưa đủ khả năng đi sâu vào sản xuất hàng hoá. 5.4. Chính sách đào tạo cán bộ cho nông nghiệp và nông thôn. Cũng như các chính sách khác chính sách đào tạo cán bộ cũng được chinhs phủ ta quan tâm, coi nó như là cái gốc tạo nên sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Thứ nhất là: Thường xuyên tiến hành công tác nâng cao trình độ quản lý chô đội ngũ lãnh đạo, thông qua các khoá học ngắn hạn và trao đổi kinh nghiệm. Thứ hai là: Có chính sách đãi ngộ với đội cán bộ có năng lực và trình độ. Với các chính sách cơ bản của mình, Đảng và nhà nước ta đã phần nào tạo ra sự đổi khác cho bộ mặt kinh tế nông nghiệp- nông thôn ở nước ta trong thời gian vừa qua. Điều này, nó được thể hiện rõ nhất thông qua những kết quả sau đây: II-/ Những ảnh hưởng của chính sách kinh tế đối với sự phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói công cuộc đổi mới kinh tế giai đoạn đầu của việt nam là sự gặp gỡ giữa tìm tòi sáng tạo của quần chúng, cán bộ ở cơ sở địa phương- Những người hàng giờ hàng ngày gắn bó với thực tế với lợi ích của người lao động, với sự đổi mới tư duy của các cấp lãnh đạo. Sự gặp gỡ đó thể hiện sự gắn bó của người lãnh đạo với cuộc sống hàng ngày của người nông dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân đó là đặc trưng quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta. Với những kết quả và kinh nghiệm đã đạt được trong giai đoạn 1981- 1985 Đảng cộng sản việt nam đẫ kịp thời rút ra thực tiễn và kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công để đi đến quyết định đổi mới một cách toàn diện nền kinh tế. Trong đó có đổi mới cơ chế chính sách nông nghiệp- nông thôn. 1-/ Tác động đến sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 1.1. Vị trí của nông - lâm- ngư nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Trong 3 năm 1996- 1998 cơ cấu kinh tế nông thôn đã chịu sự tác động tích cực của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Giá trị công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng trong cơ cấu GDP tiếp tục tăng cả về số tuyệt đối và số tỷ trọng, nông nghiệp tuy vẫn tăng số tuyệt đối nhưng tỷ trọng giảm dần do tốc độ tâng trưởng của nó tăng chậm hơn so với công ngiệp và dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng của công ngiệp năm 1996 là 13. 87%, năm 1997 là 13% và năm 1998 là 12%. Trong khi tốc độ tăng trưởng tương ứng của nông nghiệp là 4. 4%, 4. 2%, và 2%. Khu vực kinh tế nông thôn từ năm 1996-1998 liên tục được mùa, sản lượng thực tăng bình quân là 1. 2 triệu tấn/ năm. công nghiệp nông thôn và các nghành dịch vụ tiếp tục phát triển và mở rộng, nhất là các vùng nông thôn ngoại ô thành phố, thị xẫ, khu công nghiệp, khu chế xuất nên tốc độ tăng trưởng cao hơn nông nghiệp. Công nghiệp xây dựng tăng từ 6%-7%, dịch vụ tăng 5%. Tốc đọ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ cao hơn nông nghiệp nó làm cho nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã hình thành nghành sản xuất quan trọng gắn với các hoạt động chế biến vận chuyển, bảo quản nông –lâm- thuỷ sản và sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Sự chuyển dịch của lao động sang các nghành khác là không đáng kể. Bởi vì nông nghiệp đã phần nào tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Mặt khác việc thay đổi nghành nghề và lĩnh vực hoạt động nó diễn ra một cách không dễ dàng. Nó cần phải có những tiền đề và điều kiện lao động nhất định liên quan đến vốn đầu tư, khoa học công nghệ. Về mặt xuất khẩu sản phẩm nông – lâm- ngư nghiệp tuy tỷ trọng có giảm nhưng nó vẫn chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. 1.2. Cơ cấu kinh tế nội bộ nông- lâm- ngư nghiệp. Cơ cấu nội bộ của nghành nay giảm(1996- 1998)dần về mặt tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của nghành thuỷ sản, ổn định tỷ trọng của nghành lâm nghiệp, nhưng tốc độ tăng trưởng của mỗi nghành vẫn tăng dần với nhịp độ khác nhau: nông nghiệp tăng từ:4-4. 5%, lâm nghiệp 1%, thuỷ sản 5- 6%. Nông nghiệp có tỷ trọng lớn trong nghành nông lâm thuỷ sản nhưng có xu hướng giảm dần tỷ trọng. Bình quân giai đoạn (1996- 2000) tỷ trọng nông nghiệp giảm 0. 1%/ năm. Lâm nghiệp vừa chiếm tỷ trọng nhỏ lại phát triển không ổn định, vốn rừng suy giảm, nhất là rừng tự nhiên buộc nhà nước phải đóng cửa rừng. Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi: Nó có sự tiến bộ hơn so với thời kỳ 1991- 1995. Tỷ trọng chăn nuôi năm 1998 chỉ đạt 21% và dự báo đến năm 2000 cũng chỉ đạt ở mức 24%. Tác động đén cơ cấu vùng nông thôn và nông- lâm- ngư nghiệp trong giai đoạn hiện nay. 1.3. Tình hình chung: a. Một là về diện tích đất tự nhiên: Đất đai tập trung nhiều ở vùng miền núi, trung du ( chiếm 31. 7% so với diện tích cuả nước), tiếp theo là vùng tây nguyên chiếm 16. 9%, khuiV cũ 15. 5%, duyên hải miền trung 13. 8%, Đồng bằng sông cửu long 11. 9%, Đông nam bộ 7. 0%, và đồng bằng sông hồng là 3, 8%. b. Về lao động: Lao động việt nam phân bố không đều, lao động tập trung chủ yếu ở hai vùng châu thổ: Đồng bằng sông cửu long (29. 1%), Đồng bằng sông hồng (19. 1%), và miền núi trung du (18. 8%) trong tổng số lao động dân cư của cả nước. c. Về dân số: Dân cư phân bố không đều, dân cư sống chủ yếu ở hai vùng châu thổ là đồng bằng sông cửu long (22. 2%), Đồng bằng sông hồng là: (20, 1%), và miền núi trung du là: 4. 1% 1.4. Bố trí sản xuất: a. Nghành trồng trọt: Thứ nhất về cây lương thực chủ yếu tập trung ở hai đồng bằng châu thổ sông hồng và đồng bằng sông cửu long. Thứ hai về sản lượng thóc: Miền nam chiếm 61. 1% (đồng bằng sông cửu long chiếm 50.5%), miền bắc chiếm30, 9% (đồng bằng sông hồng chiếm18. 5%). Thứ ba: Cây công nghiệp ngắn ngày thì nó tập trung chủ yếu ở miền nam. Thứ tư về cây công nghiệp dài ngày: Cây chè chủ yếu nó được trồng ở miền bắc ( chiếm 75. 8% diện tích, 67. 8% sản lượng ), còn cây cao su, cà phê thì tập trung chủ yếu ở miền nam, tỷ lệ diện tích và sản lượng tương ứng của cà phê là: 97. 9% và 99. 1%, cao su 96, 6% và 95, 8%. Thứ năm là về các loại rau quả: Phát triển nhiều ở miền bắc (diện tích 58, 7% và sản lượng là 58, 9%) và chủ yếu ở đồng bằng sông hồng (25, 4% và31, 8%). Như vậy sự phát triển các yếu tố nguồn lực sản xuất trồng trọt ở các vùng sinh thái ở nước ta phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, trình độ dân trí và kỹ năng sản xuất của lực lượng lao động. b. Nghành chăn nuôi: Về sản xuất chăn nuôi trong các ngàng cũng có sự phân bố khác nhau: Thứ nhất là: Trong các nhóm gia súc thì lợn được nuôi nhiều ở miền bắc và nó chiếm tới 70% tổng số đàn lợn của cả nước và trâu chiếm tới 82, 9% tổng số đàn trâu của cả nước. Riêng bò thì dược nuôi ở miền nam đông bộ, nó chiếm tới 52, 6 tổng đàn bò của cả nước. Thứ hai về gia cầm: nhóm gia cầm thì phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng sông hồng, nó chiếm tới hơn 50% tổng số đàn gia cầm của cả nước. Thứ ba là về trình độ sản xuất của ngành các ngành trong các vùng sinh thái thì trình độ ở vùng đồng bằng sông hồng và đồng bằng sông cửu long cao hơn hẳn các vùng khác. Điều này nó được thể hiện qua tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế như sản lượng thịt hơi xuất chuồng, số lượng đàn gia súc- gia cầm. Cơ cấu các thành phần kinh tế ở nông thôn. Thực hiện đường nối của đẩng là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự thay đổi của cơ cấu kinh tế thì cơ cấu các thành phần kinh tế cũng có nhiều sự thay đổi rất căn bản đó là: Về kinh tế quốc doanh trong nông - lâm- ngư nghiệp. Trung bình trong giai đoạn 1994- 1995 kinh tế nông - lâm- ngư nghiệp tạo ra được khoảng 2, 5% GDP, chiếm 1, 6% lao động, 3, 7% diện tích gieo trồng, 0, 9% sản lượng quy ra thóc. Về cây công nghiệp lâu năm, khu vực quốc doanh chiếm 39, 6% diện tích, về sản lượng lương thực thì khu vực quốc doanh tạo ra 0. 9% sản lượng. Tính đến tháng 7/1994 quốc doanh nông – lâm- ngư nghiệp sử dụng 7637 nghìn ha đất. Như vậy trong quá trình đổi mới, tỷ trọng của các ngành kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân, cũng như trong các thành phần kinh tế nói riêng. Về kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong sản xuất nghiệp. Trong hơn 10 năm đổi mới cả kinh tế quốc doanh lẫn kinh tế tập thể và trong các chính sách phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay nói riêng, cả ở điều kiện khách quan và chủ quan. các hợp tác xã nông nghiệp và trong các đoàn trong sản xuất đã xây dựng trước đây đã bộc lộ nhiều sai lầm yếu kém và nó trở nên không còn phù hợp vơí cơ chế mới. Đó là sự làm ăn kém hiệu quả, nợ nần tăng lên, xã viên giảm lòng tin và dần dẫn đến sự mất tin tưởng, và tất yếu dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ, hàng loạt các hợp tác xã bị phá sản. Từ tình hình đó nhiều hợp tác xã đã tìm tòi cho mình hưóng đi mới. Từ đó dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các hợp tác xã cổ phần, xí nghiệp tậ thể, các loại hình hợp tác xã tự giúp đỡ nhau vượt qua khó khẳn trong sản xuất và đời sống ở nông thôn, còn các hợp tác xã không theo kịp tiến trình đổi mới thì ngày càng có nguy cơ phá sản và suy giảm dần tỷ trọng như là: Thứ nhất là về số tập đoàn sản xuất nông nghiệp năm 1990 là 36352 người thì đến năm 1994 cơ bản đã tan rã hết Thứ hai về số hợp tác xã nông nghiệp đã giảm sút từ 17022 hợp tác xã xuống còn chưa đầy 400 hợp tác xã. Trong những năm tiếp theo còn có nhiều hợp tác xã bị phá sản (nếu như họ không có những cải tiến kịp thời). Từ đó đã có 56% số hợp tác xã dược sử dụngvà chuyển theo hướng tự do, qua đó nâng số hộ hợp tác xã kiểu mới lên 18. 453 hợp tác xã. Như vậy thông qua các chính sách của Đảng phạm vi hoạt động của các hợp tác xã không bị bó hẹp lại như trước đây. Không chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh bị bó hẹp như giới hạn về hoạt sản xuất kinh doanh, địa giới hành chính, mà cáchợp tác xã có thể tổ chức các hoạt động dịch vụ kinh doanh cho các xã viên. Có thể hoạt động sản xuất kinh doanh tập trung hoặc vừa sản xuất kinh doanh tập trung vừa tổ chức các hoạt động dịch vụ cho xã viên theo quyết định của đại hội xã viên, không giới hạn theo phạm vi hành chính và hộ xã viên vẫn là hộ kinh tế tự chủ. Kinh tế hộ gia đình: Sự tồn tại của kinh tế gia đình là một thực tế đáp ứng được yêu cầu của các quy luật khách quan của sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp nói chung ở các quốc gia trên thế giới, song ở việt nam vào thời kỳ quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, kinh tế hộ gia đình đã không được xác định đúng vị trí vốn có của nó. Kinh tế hộ gia đình chỉ được coi là thành phần phụ với các thành phần kinh tế khác (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể). Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về công tác khoán sản phẩm cuối cùng đến các hộ và nhóm hộ rồi nghị quyết trung ương 6- khoá VI năm 1986 đã khẳng định vị trí của kinh tế hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ và phát triển theo khả năng tiềm tàng sẵn có của nó. Điều đó được khẳng định thông qua: Một là: Trong hơn 10 năm đổi mới số hộ nông dân đã tăng từ 8431 nghìn hộ (1986) lên 95561 nghìn hộ (1991) và 9575, 7 nghìn hộ vào năm 1994 và trong các năm vừa qua tiếp tục có sự tăng lên, so với năm 1986 tăng lên 13, 6% tương ứng với gia tăng lao động nông nhiệp từ 19718 nghìn người lên 23700 nghìn người lao động (tăng 20%) bằng 78, 4% tổng nguồn lao động của xã hội. Hai là: Khi kinh tế hộ gia đình được xác định đúng vị trí nó giải phóng sức lao động dồi dào vốn có của nó, nó đã tạo ra động lực mới thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, đó là mặt tích cực trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước. Song khi tham gia vào nền kinh tế thị trường thì kinh tế hộ gia đình phải đối diện trực tiếp với sự biến động của thị trường nó vượt quá khả năng của các hộ kinh tế tư nhân. Mặt khác sư cắt giảm các khoản bao cấp của nhà nước và sự chậm chạp trong chức năng hoạt động và tổ chức lại các hợp tác xã kiểu cũ đã gây không ít khó khăn cho kinh tế hộ gia đình và nó đã bộc lộ rõ sự phân hoá giàu nghèo trong khu vực kinh tế nông thôn. Đa số các hộ nông dân có mức thu nhập trung bình nó chiếm khoảng 60% số hộ kinh tế nông nghiệp ở nông thôn. Một bộ phận nhỏ có vốn, kỹ thuật, trí tuệ đã vươn lên khá giỏi và giàu có nó chiếm khoảng 18%- 20%, còn lại thuộc diện nghèo khó. Kinh tế tư nhân: Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý sản xuất vừa qua, chủ trương khuyến khích hộ gia đình vươn lên làm giàu bằng sản xuất nông - lâm- ngư nghiệp kết hợp đã hình thành một bộ phận sản xuất giàu nhanh chóng. Trong đó có một bộ phận không nhỏ khoảng 15%- 20% số hộ nông daan bước đầu đã vượt ra khỏi giới hạn đói nghèo đi vào sản xuất kinh tế hàng hoá. Như vậy hiện nay kinh tế nông nghiệp- nông thôn đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển kinh tế xã hội và vai trò của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân trong khu vực này chiếm vị trí chủ yếu trong sự thành công đó. Khoảng 80% nông sản hàng hoá do kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân sản xuất chủ yếu ở đồng bừng sông cửu long, tây nghuyên, đông nam bộ. Kinh tế nhà nước và kinh tế quốc doanh chỉ đóng vai trò dịch vụ cho kinh tế hộ. Tuy nhiên, kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức về sự phát triển của các cấp các ngành ở các địa phương còn nhiều hạn chế, chưa thống nhất. 2-/ Tác động của chính sách kinh tế đến thu nhập, việc làm và đời sống đân cư. Nhờ áp dụng chính sách kinh tế một cách hợp lý làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ngày một cao, đặc biệt là sản lượng lương thực tăng đều và mạnh từ 17. 5 triệu tấn của đầu năm 1987 đã tăng bình quân mỗi năm lên 1 triệu tấn. Đưa nước ta vượt qua ranh giới giữa đó và nghèo, nếu như ranh giới giữa đói và nghèo của thế giới là 300 kg lương thự/năm cho một người thì đến năm 1995 chúng ta đã đạt 360 kg lương thực/năm cho một người (với mức sản lượng 27. 4 triệu tấn, và đến năm 1998 đạt 31. 8 triệu tấn, tăng 1. 2 triệu tấn tức là tăng 4% so với năm 1997). Cùng với sự tăng lên của lương thực, thực phẩm và các sản phẩm khác thì các điều kiện về cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội ở nông thôn cũng tăng lên đáng kể. Đã có 5381 xã trên tổng số 8930 xã có điểm chiếm 60. 2% và trên 50% số hộ nông dân cả nước được dùng điện, trên 80% số xã có đường giao thông đến trung tâm, 91% số xã có trạm xá, 98% số xã có trường cấp 1 và 76% số xã có trường cấp 2, 37% số xã có trạm truyền thanh và 57% số hộ nông dân có nhà bán kiên cố. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự tác động sơ qua qua các con số và sự kiện đã được thống kê. Nó còn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội nông thôn, đó là: 2.1. Tác động đến lao động và việc làm: Hiện nay nước ta có tới 79. 1% số đân của cả nước sống ở vùng nông thôn và hơn 70% dân cư sống bằng nghề nông nghiệp. Trong số dân cư sống ở nông thôn (57. 325. 000 người thì trong đó có 45. 467. 000 người thuộc nhân khẩu nông nghiệp, chiếm 79. 3% dân cư nông thôn với tổng số gần 10 triệu hộ). Tỷ lệ lao động nông nghiệp là 71. 6% năm 1990 đẫ tăng lên 72. 4% vào năm 1993 đưa tổng số lao động nông nghiệp lên 23. 6 triệu người. Tỷ lệ lao động nông nghiệp thất nghiệp hầu như không giảm đi, lao động phi nông nghiệp vẫn chiến tỷ lệ rất thấp là 8. 3%. Như vậy xu hướng chung cho thấy nông dân chưa có thệm cơ hội tìm công ăn việc làm phi nông nghiệp tại chỗ và vẫn lấy sản xuất nông nghiệp là chỗ dựa chính và tình trạng này đã hạn chế mức tăng thu nhập của hộ nông dân vì ruộng đất không đủ đáp ứng được nhu cầu của các hộ nông dân. Về việc sử dụng lao động của các hộ gia đình nông thôn trong các vùng cũng rất thấp, ruộng đất chỉ thu hút được 45% thời gian lao động, các hợt động sản xuất khác thu hút 30% thời gian lao động, còn lại 25% thời gian là không có việc làm. Vì vậy việc di chuyển lao động nông dân từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trở nên phổ biến, nhất là đối với các hộ nghèo ở nông thôn. Các nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy quá trình di chuyển này là: Do thiếu việc làm, thu nhập ở nông thôn quá thấp (Chiếm 40%) không đảm bảo cho cuộc sống của gia đình. Vì vậy, phải tăng cường công tác giáo dục và giúp đỡ các hộ nghèo tìm thêm việc làm tại chỗ để cho họ có thể cải thiện được cuộc sống của mình. 2.2. Tác động của đầu tư và tín dụng cho nông thôn. Thứ nhất là: Có hơn 28% số hộ nông dân đi vay mượn vì mục đích sản xuất hoặc vì đời sống. Trong số các hộ giàu thì chỉ có 26% đi vay mượn. Ngược lại, các hộ nghèo có tới 37% số hộ đi vay mượn. Mức vay của các hộ nghèo bình quân là 142nghìn/hộ cao hơn mức vay của các nhóm hộ khác. Trong các hộ nghèo vay nợ thì 83% vay của tư nhân, 17% vay của các tổ chức tín dụng (trong khi đó tỷ lệ này ở các hộ giàu có là 30%, hộ trung bình là 60%). Và tình trạng này trong một vài năm trở lại đây không có nhiều sự biến động. Thứ hai là nhu cầu vay vốn của các hộ nông dân là khá lớn, gần 55% số hộ nông dân có nhu cầu vay vốn tức là vào khoảng 5 triệu hộ. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nông dân Chính phủ đã chi gần 700 tỷ đồng (1994) bằng 46, 6% tổng vốn xây dựng cơ bản dành cho phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn năm 1994, năm 1998 là 800 tỷ đồng và dự kiến đến năm 2000 là 1100 tỷ đồng từ nghân sách nhà nước cho duy tu sửa chữa thường xuyên cho các công trình như giao thông, thuỷ lợi, trường học, bệnh xá và kết quả đạt được là: Trồng mới được gần 50. 000 ha rừng và 28. 000 ha cây ăn quả cây công nghiệp. Phát triển thêm được 25 nghìn con gia súc ở các tỉnh miền núi, đặc biệt là đã làm nhà định cư được cho 136 nghìn hộ nông dân nghèo ở miền núi, làm 289 giếng nước sạch khai hoang thêm gần 1720 ha diện tích đất canh tác, làm mới 360 km đường miền núi. Thứ ba là: Luật đầu tư nước ngoài tại việt nam năm 1987 đã thu được một lượng vốn đáng kể từ các công ty, tổ chức đầu tư nước ngoài vào việt nam nói chung và nông thôn việt nam nói riêng, góp phần vào phát triển tình hình kinh tế xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm nghèo khó cho dân nghèo ở vùng nông thôn, cụ thể là: năm 1998 có 10 dự án đầu tư nước ngoài vào việt nam với tổng số vốn đầu tư khoảng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0056.doc
Tài liệu liên quan