Đề tài Các chính sách phát triển ngoại thương nhằm thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: VIỆT NAM VỚI XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 2

I-/ VIỆT NAM - ASEAN (THE ASSOCIATION OF SOUTHEST ASIAN NATION -

HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á) 2

1. Việt Nam - ASEAN: Quá trình hội nhập và ý nghĩa của việc Việt Nam

tham gia ASEAN. 2

2. Thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập ASEAN 5

3. Thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam tham gia AFTA 6

4. AFTA với thương mại và sản xuất trong nước của Việt Nam 10

II-/ VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP WTO 12

1. Đàm phán và Việt Nam gia nhập WTO. 12

2. WTO - cơ chế mang lại sự tin cậy của quốc tế vào chính sách của mỗi quốc gia. 13

3. Một số chính sách cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. 14

PHẦN II: CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM TRONG

TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP 15

I-/ VAI NÉT VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM NHỮNG NĂM QUA. 15

1. Cơ cấu kinh tế. 15

2. Thực trạng cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm gần đây. 16

II. ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2001 - 2005 17

1. Vai trò ngoại thương trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng công nghiệp hoá. 17

2. Định hướng cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005. 21

PHẦN III: CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG

XU THẾ HỘI NHẬP 24

I-/ CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY. 24

1. Giai đoạn Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương. 24

2. Giai đoạn chuyển từ chiến lược thay thế hàng nhập khẩu sang

chiến lược khuyến khích xuất khẩu. 25

II-/ ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG

VIỆT NAM 2001 - 2005. 26

1. Định hướng phát triển ngoại thương. 26

2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện mục tiêu định hướng

phát triển ngoại thương Việt Nam đến năm 2005. 29

3. Những kiến nghị với Chính phủ về việc cải tiến cơ chế quản lý

xuất, nhập khẩu. 38

KẾT LUẬN 41

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc43 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các chính sách phát triển ngoại thương nhằm thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm gần đây. Cơ cấu GDP theo ba nhóm ngành Đơn vị: % Năm Nhóm ngành 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1999 2000 - Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100 - Công nghiệp 23.8 27.3 28.9 29.6 30.1 30.7 31.2 34.4 38.39 - Nông nghiệp 40.5 33.9 33.9 29.9 28.7 27.5 27.2 25.5 20.21 - Dịch vụ 37.5 38.8 41.2 41.7 42.4 42.1 42.6 40.5 40.41 Nguồn: - Tổng cục thống kê. Trích chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong xu thế hội nhập - Lê Du Phong - NXB Chính trị Quốc gia - 2000 - Kế hoạch <Dự thảo kế hoạch 5 năm 2001 - 2005) Như vậy, theo bảng trên chúng ta có thể thấy rằng, xu hướng và thực tế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của chúng ta hoàn toàn tích cực, có được như vậy là do những năm qua Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp để thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Có được sự thành công này là do sự tiến bộ của một số ngành rất rõ rệt trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng bình quân của nhóm ngành lớn của nền kinh tế cũng khác nhau, tăng trưởng nhanh nhất thuộc về nhóm ngành công nghiệp, sau đến dịch vụ và tiếp đến là nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 năm từ 1991 - 1997 đạt 3,4%, trong khi công nghiệp 13,5% và dịch vụ là 9,3%. Đặc biệt nước ta kể từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á, chúng ta vẫn luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP khá cao: Năm 1998 là 5,8% trong đó có sự đóng góp của công nghiệp 10,5%, nông nghiệp 2,7% và dịch vụ là 4,2%. Đến năm 1999, trong khi các nước Đông Nam á vẫn cố gắng khắc phục mức tăng trưởng âm của nền kinh tế thì chúng ta vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 4,8% (Công nghiệp 7,7%, nông nghiệp 5,2% và dịch vụ 2,3%). Trong sự phát triển đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành ngoại thương Việt Nam. Năm 1998 với kim ngạch xuất khẩu 8,9 tỉ USD, tưởng rằng con số 10 tỉ USD đối với ta năm 1999 là hoàn toàn khó khăn song chúng ta vẫn đạt được với con số 11,5 tỉ USD tăng 23% so với năm 1998, đặc biệt trong sự tăng trưởng này các sản phẩm nông sản tăng mạnh: gạo tăng hơn 20%, cao su 38%, cà phê 27%, hồ tiên tăng 2,3 lần, chè 13% và dầu thô tăng trên 20%. Cũng trong năm nay, nhập siêu tăng 5,2% mức nhập siêu năm 1998 - bội chi ngân sách thấp hơn 5%. Đó là biểu hiện hoàn toàn sáng sủa đối với nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển của chúng ta trong tương lai (Thời báo kinh tế Việt Nam - Số 15, 16, 17, 18 - 04/02/2000 - 11/02/2000) Xu thế biến đổi cơ cấu kinh tế của chúng ta là hoàn toàn phù hợp với xu thế chuyển dịch của thế giới trong điều kiện hội nhập trên con đường vươn lên một nước công nghiệp hùng mạnh trong tương lai. II. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001 - 2005 1. Vai trò ngoại thương trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Thực chất của vấn đề ngoại thương đó là quan hệ trao đổi buôn bán trong nội bộ vùng đất nước, khu vực và mối quan hệ đối ngoại với thế giới bên ngoài. Khai thác và sử dụng triệt để mối quan hệ bên ngoài nhằm phát huy lợi thế của vùng - quốc gia đó là mong muốn của các nhà lãnh đạo, xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế so sánh để tăng tích cực hiệu quả của nền kinh tế. Tham gia vấn đề chuyển giao công nghệ với khu vực - thế giới đó là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế. Nâng cao năng suất lao động, sử dụng có hiệu quả các nhân tố sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm nâng cao tính cơ động của vốn đầu tư. Từng bước thực hiện công nghiệp hoá trong các vùng kinh tế - ngành kinh tế, công nghiệp hoá trong công nghiệp - công nghiệp hoá trong nông nghiệp và cả trong lĩnh vực dịch vụ nhằm tạo môi trường thông thoáng trong sản xuất. Việc hiện đại hoá công nghệ trong công nghiệp làm tiền đề thúc đẩy sản xuất trong các lĩnh vực khác: nông, lâm, ngư nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ,... Ngoại thương phát triển từ đó tạo môi trường thông thoáng cho việc tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra, cơ hội và thời cơ cho sản xuất từ đó cũng được mở rộng, vấn đề tiêu thụ và thu hồi vốn nhanh hơn thúc đẩy một chu trình sản xuất ngắn hạn từ đó tạo đà cho phát triển sản phẩm. Vì vậy vấn đề phát triển ngoại thương thực tế là công nghiệp hoá trong sản xuất. Công nghiệp phát triển, từ đó thúc đẩy các ngành sản xuất khác: nông, lâm, ngư nghiệp,... tạo ra nhiều loại sản phẩm, hàng hoá khác nhau, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và thị trường xuất khẩu. Nói riêng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp năm 1997 là 134.076 tỉ đồng (giá so sánh năm 1994), đến năm 1998 mặc dù ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á, song giá trị sản xuất công nghiệp vẫn tăng 10.5% với tổng giá trị 148.154 tỉ đồng và đến năm 1999 giá trị đó vẫn tiếp tục tăng với 159.562 tỉ VNĐ (tăng 7,7%). Kim ngạch hàng xuất khẩu công nghiệp nói riêng cũng tăng lên tương ứng và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu. Một dấu hiệu đáng mừng là đến năm 1999 giá trị hàng xuất khẩu qua chế biến của Việt Nam tăng lên 18% góp phần đưa tỉ trọng của nhóm hàng này từ 53% tổng giá trị xuất khẩu lên 59% năm 1999 (con số - sự kiện bước đột phá trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 1999. Đức Trung số 1, 2/2000). Một số mặt hàng công nghiệp nước ta đã dần chiếm vị trí và đứng vững trên thị trường thế giới: Dầu thô, thiếc, hàng may mặc, hàng dệt kim (năm 1997 chúng ta xuất 9.416 nghìn tấn dầu thô - đến năm 1999 mức xuất dầu thô của ta đã đạt 14.742 nghìn tấn; 1.349 triệu USD của hàng may mặc năm 1997 - đến 1999 con số này là 1.682 triệu USD. Và đặc biệt, nhằm mục tiêu khuyến khích xuất khẩu trong ngành dệt may, năm 1999 vừa qua Tổng công ty dệt may đã chi 4,6 tỉ VNĐ để thưởng cho các công ty dệt may về những thành tựu đạt được. Tỉ trọng 4 nhóm hàng: dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử trong kim ngạch xuất khẩu tăng từ 27,8% lên 31% trong 2 năm 97 và 98. Nhóm nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế chủ lực bao gồm dầu thô, gạo, thuỷ sản, cà phê, cao su và điều nhân chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu năm 1998 và đến năm 1999, 5 mặt hàng chủ lực: dầu thô, dệt may, gạo, thuỷ sản và than đá đã chiếm tới 64,5% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. (Thời báo Kinh tế số 86 - 27/10/1999 - Con số và sự kiện, số 1,2/2000). Đứng trước xu thế cùng hợp tác phát triển và chính sách kinh tế mở, cùng với những thành tựu của khoa học, kỹ thuật đã tác động tích cực đến xu thế quốc tế hoá, đó là xu thế phân công lao động, hợp tác phát triển theo chiều sâu, phân chia thị trường quốc tế Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN 5/1997 và là thành viên của APEC tháng 11/1998 và trong tương lai sẽ là thành viên của WTO, một thị trường rộng lớn sẽ đón chào những sản phẩm của Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh hoàn toàn tự do với mức lãi suất ưu đãi liệu chúng ta có khai thác được những lợi thế này, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào mỗi doanh nghiệp vào chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước. Nhất thiết trong điều kiện hội nhập này, Nhà nước ta phải có chiến lược công nghiệp hoá thích hợp (xin lưu ý, đối với các tổ chức sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan chỉ bao hàm những sản phẩm công nghiệp chế biến và một số sản phẩm nông sản, nước ta sản phẩm xuất khẩu là hàng nông sản là chủ yếu). Nói một cách tổng quát, là chúng ta lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá nào cho phù hợp: chiến lược hướng ngoại hay hướng nội? Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là tận dụng lợi thế so sánh của nước ta so với các nước khác. Tranh thủ sức mua trên thị trường thế giới để tích luỹ vốn nhằm nhanh chóng mở rộng qui mô sản xuất, tạo khả năng nhập vật tư thiết bị, sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có giá trị lớn hơn, chất lượng cao hơn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Không chỉ dừng ở đó, chiến lược xuất khẩu sẽ tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho các tầng lớp dân cư. Đứng trước thực tế xuất khẩu của ta hiện nay, chúng ta thực sự lo lắng và phải chịu nhiều thiệt thòi trong việc xuất khẩu sản phẩm thô. Thực tế xu thế thế giới hiện nay, giá trị của sản phẩm đã qua chế biến thường cao hơn rất nhiều so với giá của sản phẩm thô. Lấy ví dụ hiện nay, giá một thùng dầu thô là 117 USD/thùng thì giá cũng một lít dầu qua chế biến khoảng 0,28 USD/lít. Sự thiệt hại này là vô cùng to lớn cho các nước đang phát triển trong việc xuất khẩu sản phẩm thô. Đối với nước ta hiện nay, với 77 triệu dân, nước lớn thứ hai ở Đông Nam á (sau Indonexia) thì thị trường nội địa cũng không thể bỏ qua, bởi lẽ các nước khác: Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc,... cả Mỹ và EU cũng đang có những tham vọng xâm chiếm thị trường này. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng, công nghiệp hoá hướng nội là yêu cầu khách quan, chúng ta có lợi thế hơn họ trên thị trường này là chúng ta nắm rõ sở thích, thói quen, sự đòi hỏi thị hiếu của người tiêu dùng. Dân số 77 triệu, tốc độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây tăng liên tục (Năm 98: 5,8%, năm 1999 là 4,8% và dự kiến năm 2000 này khoảng 6,8%) và trong tương lai những năm tới còn cao hơn nữa. Vì vậy nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là rất lớn (Thời báo Kinh tế - số 15,18 - 2/2000). Ngoại thương, góp phần vào việc hoạch định các chiến lược nhập khẩu phù hợp với sản xuất trong từng thời kỳ, đồng thời tìm kiếm những nguồn hàng mới với chất lượng cao hơn và rẻ hơn, chính điều đó giúp công nghiệp nước ta phát triển, sản xuất ra các hàng hoá thay thế được hàng hoá nhập khẩu. Kinh nghiệm của các nước NICs cho thấy, chiến lược phát triển công nghiệp được chia ra làm nhiều giai đoạn: Thời kỳ đầu thập kỷ 60 tập chung vào công nghiệp sử dụng nhiều lao động, thập kỷ 70 là phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn tạo sức bật cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao: Điện tử, vi tính,... phần mềm,... Và bài học với Việt Nam là trong giai đoạn đầu chúng ta có thể đi theo con đường của các nước NICs và một số nước ASEAN đã đi. Chúng ta có thể sử dụng số lượng lao động dồi dào, giá rẻ để sản xuất ra nhiều loại hàng hoá xuất khẩu. Tăng cường phát triển các ngành công nghiệp chế biến để thay đổi cán cân thương mại, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Trong những giai đoạn tiếp theo, với ưu thế của những nước đi sau, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến, phải chăng chúng ta nên đi thẳng vào lĩnh vực công nghệ, tận dụng tối đa sự phát triển của công nghệ, óc tinh hoa sáng tạo của người Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên, mà trong năm 1997 vừa qua kim ngạch xuất khẩu phần mềm của Việt Nam đạt 2,5 triệu USD và kế hoạch đặt ra trong năm 2000 là 3,5 triệu USD (Báo Hà Tây - Tìm hiểu vấn đề phát triển công nghệ thông tin 14 - 11 - 2000). Điều đó đã chứng tỏ sự thành công trên con đường phát triển của nền công nghiệp Việt Nam nói riêng và ngoại thương Việt Nam nói chung. Trong những năm qua, chúng ta đã thấm nhuần quan điểm, sản xuất là gốc, sản xuất quyết định phân phối lưu thông. Chuyển sang nền kinh tế thị trường yếu tố quyết định sản xuất của các đơn vị - doanh nghiệp là sức mua. Chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng bị rút ngắn, tác động của khoa học kỹ thuật làm thay đổi cả về mẫu mã và chất lượng sản phẩm hàng hoá rất mau lẹ. Điều này đã kìm hãm sự phát triển sản xuất của nước ta, nếu chúng ta vẫn quyết định chiến lược xuất khẩu và lấy việc khai thác sản phẩm thô và các sản phẩm mang tính chất truyền thống là chủ chốt. Nhất thiết phát huy vai trò ngoại thương trong việc chuyển dịch cơ cấu từ thuần nông sang cơ cấu nông - công nghiệp và dịch vụ với sản phẩm đa dạng cho phép lựa chọn sản phẩm với chất lượng cao. Đứng trước khó khăn thực tế, kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp còn mang nặng tính độc canh lao động chủ yếu tập chung trong nông nghiệp (71% lao động nông thôn). Sản xuất của người nông dân chưa trực tiếp đối mặt với thị trường. Chính vì những yếu tố này, mà các cơ quan thương nghiệp của ta cần phải hỗ trợ người sản xuất, định hướng tổ chức lại thị trường, định hướng sản phẩm và cách tiêu thụ sản phẩm làm ra. Kinh nghiệm thực tế khi áp dụng tại một số địa phương cho thấy, khi chuyển hướng cơ cấu kinh tế, việc chuyển hướng không thoát ly khỏi bối cảnh thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chuyển hướng cơ cấu kinh tế cũng không tách rời việc tổ chức lại mạng lưới thương mại và dịch vụ của Nhà nước, để nó đóng vai trò nòng cốt trong việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân làm ra. Chỉ có những tổ chức thương mại lớn mới có khả năng hỗ trợ người sản xuất cạnh tranh trên thị trường. Phát huy vai trò thương mại đối với các ngành sản xuất để hình thành chiến lược sản phẩm, phát huy lợi thế so sánh chứ không phải chỉ đơn thuần dựa vào sản xuất là điều kiện cốt yếu và vô cùng cần thiết trong tiến trình hội nhập. Căn cứ vào mặt hàng sản xuất, điều kiện tự nhiên của từng vùng để có kế sách hợp lý trong sản xuất, tránh tình trạng nơi có nguyên liệu thì không có người sản xuất và nơi sản xuất lại thiếu thốn nguyên vật liệu, giảm tối đa chi phí giao dịch, từ đó giảm giá thành sản xuất. Không phải ngẫu nhiên, chúng ta đứng thứ 3 thế giới về kim ngạch xuất khẩu gạo (liên tục tăng trong những năm gần đây: năm 1997: 3,553 triệu tấn - năm 1998 là 3,8 triệu tấn và năm 1999 vừa qua là 4 triệu tấn (Thời báo kinh tế Việt Nam - Kinh tế 1999 - 2000), song giá gạo của chúng ta vẫn thấp hơn giá gạo của các nước trong khu vực: Thái Lan, Indonexia,...). Điều đó là do chất lượng gạo của chúng ta còn thấp hơn so với chất lượng gạo của họ. Điều này đặt ra vấn đề cho chúng ta là phải tìm cách tăng chất lượng gạo lên bằng cách chuyên canh vùng trồng lúa và tìm giống lúa gạo mới có chất lượng cao hơn. Thiết nghĩ chỉ có bằng cách đó chúng ta mới có lợi thế về giá gạo xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, áp dụng những thành quả của công nghệ sinh học nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi, tập chung được số lượng lớn để xuất khẩu. Quản lý chặt chẽ việc khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên rừng và biển, hình thành những tổ chức khai thác có kế hoạch và đúng yêu cầu đảm bảo môi trường sinh thái bền vững, tránh tình trạng khai thác bừa bãi, vô tổ chức, và phân tán. Nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn tài nguyên rừng và biển. Đó là vai trò của ngoại thương trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập. Ngày càng xa rời cơ cấu thuần nông nghiệp mà nước ta đã mang suốt 55 năm qua. 2. Định hướng cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005. Trước khi xem xét và vạch ra con đường cho cơ cấu kinh tế trong tương lai, chúng ta phải xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc định hướng. 2.1. Quan điểm chuyển dịch trong điều kiện hội nhập. * Thực hiện bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với tốc độ nhanh theo xu thế công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tăng đáng kể tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu ngành, đồng thời giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp. Chủ trương tăng ngành công nghiệp sử dụng hàm lượng vốn cao. * Chuyển dịch cơ cấu ngành theo xu thế hội nhập quốc tế, thực hiện các bước chuyển dịch theo các điều khoản cam kết với các tổ chức quốc tế: AFTA, APEC, WTO,... đến năm 2006 và 2010, đồng thời tìm ra hướng đi và tiến hành phân ngành kinh tế. * Đảm bảo xu thế phát triển bền vững bằng cách gắn liền với các ngành có lợi thế về nguồn lực. Không trú trọng, tập chung vào những ngành “không chân” - ngành do nước ngoài đầu tư. Từ đó xác định các ngành đầu tư kéo theo (Tức các ngành bổ trợ). * Chuyển dịch cơ cấu ngành theo quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội. Đó chính là vấn đề về giải quyết lao động dư thừa. 2.2. Con số chỉ tiêu trong định hướng chuyển dịch. Trên cơ sở những quan điểm chuyển dịch trên, chúng ta vạch ra dạng cơ cấu ngành, xác định cơ cấu trong điều kiện trước mắt là: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Từ đó tạo đà cho cơ cấu: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong tương lai. Trong thời gian đầu 2001 - 2005, Đảng và Nhà nước đã đặt ra chỉ tiêu: Cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001 - 2005 Đơn vị: % Ngành Tỉ trọng Tốc độ Tỉ trọng lao động Công nghiệp 38-39 12 22 Nông nghiệp 20-21 4 55 Dịch vụ 40-41 7 23 Tổng số 100 Tốc độ chung: 7 Tổng số: 100 Nguồn: Dự thảo chiến lược 2001 - 2005 - Bộ KH - ĐT 2.3. Biện pháp thực hiện cơ cấu kinh tế. Từ những chỉ tiêu đặt ra trong bản dự thảo chiến lược, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã nêu ra biện pháp tổ chức thực hiện đối với từng nhóm ngành trong ba ngành kinh tế lớn. + Nhóm ngành có khả năng cạnh tranh hiện tại: Đây chủ yếu là những ngành có lợi thế về tài nguyên và lao động. Bao gồm: Khoáng sản, nông sản, thuỷ sản, các loại cây công nghiệp và dệt may. Chúng ta nhận định hiện nay các ngành này còn nhiều song giá trị gia tăng thấp do chi phí cao, đồng thời các ngành này có biểu hiện về việc giảm lợi thế. Giải pháp: 1. Xoá bỏ dần các chính sách bảo hộ, khuyến khích nhập khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh. 2. Giảm chi phí trong giá thành sản phẩm của các sản phẩm trong ngành này bằng cách tăng cường các hoạt động đầu tư theo chiều sâu. 3. Tạo môi trường thông thoáng trong xuất - nhập khẩu hàng hoá. 4. Đề ra chiến lược qui hoạch về thị trường xuất khẩu. Thành lập các trung tâm xúc tiến tìm thị trường từ đó có cơ sở lựa chọn việc giao dịch. + Nhóm ngành có khả năng cạnh tranh trong tương lai trong điều kiện có sự tác động tích cực từ Chính phủ (Các ngành non trẻ). Bao gồm: - Ngành chế biến nông - thuỷ sản. - Cơ khí chế tạo. - Điện - điện tử và dịch vụ. Giải pháp: 1. Bảo hộ phát triển bằng các chính sách thuế và hạn ngạch. 2. Tăng cường mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài tích cực tham gia chuyển giao công nghệ. 3. Mở rộng các phương thức đầu tư phát triển bằng cách hoàn thiện và hiện đại các thành phần, loại hình tham gia đầu tư. + Nhóm ngành không có khả năng cạnh tranh. Bao gồm: - Những ngành đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao, nhiều vốn. - Những ngành không gắn liền với các yếu tố tài nguyên và lao động. Giải pháp: 1. Không tiếp tục duy trì bảo hộ, mở rộng các hình thức đầu tư nước ngoài khuyến khích họ đầu tư vào những ngành này. 2. Tích cực tham gia chuyển giao công nghệ để chọn những mặt hàng phù hợp với điều kiện Việt Nam. 3. Tích cực đào tạo lao động theo đường lối dài hạn, tạo nguồn lao động có tay nghề cao. Phần III Chính sách ngoại thương Việt Nam trong xu thế hội nhập I-/ Chính sách ngoại thương Việt Nam từ 1975 đến nay. 1. Giai đoạn Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1975 đến cuối thập niên 80 với nguyên tắc chi phối hoạt động ngoại thương “Nhà nước giữ độc quyền tuyệt đối về ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác”. Tiêu biểu và nổi bật của ngoại thương Việt Nam giai đoạn này nổi lên một số vấn đề sau: - Xuất hiện độc quyền ngoại thương trong các doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu, song đồng thời cũng phải gánh chịu nợ tồn đọng rất nặng nề do các doanh nghiệp khác uỷ thác. Bởi lẽ, có tình trạng này là do quyền xuất nhập khẩu tập chung trong tay các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó chỉ có một số ít công ty được phép tham gia xuất - nhập khẩu trực tiếp, tất cả các doanh nghiệp khác có nhu cầu xuất - nhập khẩu hàng hoá đều phải uỷ thác qua các đơn vị xuất - nhập khẩu trực tiếp. - Tính chất ngoại thương mang đậm tính Nhà nước với khu vực thị trường hẹp (Trong giai đoạn này là chủ yếu quan hệ với khối SEV): mọi điều khoản liên quan đến việc xuất - nhập khẩu hàng hoá đều do Nhà nước quyết định, Nhà nước là chủ thể đàm phán ký kết hiệp ước thương mại và nghị định thư trao đổi hàng hoá hàng năm, giá cả được thoả thuận theo sự sắp xếp và thương lượng giữa các Chính phủ. Đồng tiền được sử dụng trong quan hệ trao đổi là đồng Rúp chuyển nhượng - tỉ giá hối đoái được áp dụng theo cơ chế tỉ giá cố định, trong điều kiện lạm phát cao. - Mọi hoạt động xuất - nhập khẩu được chỉ huy thống nhất từ Trung ương thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh mang tính “giao nộp - cấp phát” với chủ trương “Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý công tác ngoại thương”. Trong giai đoạn này, chúng ta chưa có ranh giới rõ ràng giữa hai khái niệm: quản lý Nhà nước về ngoại thương và quản lý kinh doanh ngoại thương, bởi vậy Nhà nước thường can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với cơ chế và chủ trương như trên đã không thúc đẩy được sự sáng tạo của đơn vị kinh doanh, hiệu quả sử dụng nguồn lực kinh tế trong xuất - nhập khẩu không cao. Chính vì vậy, trong giai đoạn này cán cân thương mại của ta luôn mất cân đối nặng (nhập siêu), nhịp độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu thấp (6%-7%/năm). Chính điều này, Nhà nước đã phải chuyển chiến lược thay thế nhập khẩu sang chiến lược khuyến khích xuất khẩu từ đó tạo ra động lực mới cho hoạt động ngoại thương. 2. Giai đoạn chuyển từ chiến lược thay thế hàng nhập khẩu sang chiến lược khuyến khích xuất khẩu. Giai đoạn này kéo dài từ cuối thập niên 80 đến nay nhằm phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế trong những hoàn cảnh mới. Đảng và Nhà nước đã chủ động đưa ra một số văn bản đánh dấu những bước phát triển này: Nghị định 64/HDBT ngày 10/6/1989 về chế độ tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghị định 114/HDBT ngày 07/4/1992 về chế độ và tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng tự do hoá, mở rộng quyền kinh doanh xuất - nhập khẩu cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Gần đây nhất là Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định về Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu - gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài,... cơ chế quản lý “Nhà nước độc quyền ngoại thương” đã thay đổi căn bản, chúng ta tập chung và chú trọng nhiều vào điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu bằng cách mở rộng các chính sách và hình thức đầu tư, tạo điều kiện trong các qui định hành chính và cơ sở luật pháp. Phải nói rằng trong những năm gần đây chúng ta đã và đang tiến hành đổi mới nhiều mặt trong quá trình hội nhập mà nổi bật lên là một số mặt sau: - Về thuế quan: Chúng ta chỉ áp dụng thuế chủ yếu trên hàng nhập khẩu, còn đối với hàng xuất khẩu chúng ta ưu đãi trong vấn đề thuế quan với mức thuế suất không đáng kể. Từng bước chuyển đổi mức thuế suất - nhập khẩu sao cho phù hợp với yêu cầu của CEPT sau khi Việt Nam ra nhập AFTA. - Về cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu: Phải nói rằng trong thời gian gần đây cơ chế của ta có phần cởi mở hơn, không còn gò bó, luẩn quẩn trong việc “độc quyền” xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp Nhà nước nữa, mà chúng ta cho phép mọi thành phần kinh tế hợp pháp được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề trong giấy phép kinh doanh. Vươn tới việc thống nhất hoạt động thương mại, không phân biệt nội thương và ngoại thương nữa. - Về nguyên tắc: Mọi chủ thể kinh tế có quyền xuất - nhập khẩu mọi chủng loại hàng hoá, ngoại trừ các loại hàng cấm xuất - nhập khẩu và một số loại hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện theo qui định của một số văn bản pháp qui (Nghị định 57). - Thay đổi nhiều trong việc phân bổ Quota xuất khẩu: Đối với gạo Chính phủ cấp hạn ngạch qua Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành có thừa gạo để phân bổ lại cho các đầu mối xuất khẩu gạo tại địa phương. Đối với hàng dệt may tiến hành phương thức đấu thầu. - Thủ tục quản lý xuất - nhập khẩu: Được đơn giản hoá nhiều tránh gây tình trạng phiền hà, phức tạp cho người tham gia xuất - nhập khẩu, tạo môi trường thông thoáng trong hoạt động này. Giảm tối đa thời hạn quản lý hàng xuất nhập khẩu tại hải quan bằng cách phân luồng theo thứ tự ưu tiên (luồng xanh: giải quyết song thủ tục trong vòng 4 giờ, luồng vàng: trong 8 giờ, luồng đỏ: hơn 8 giờ nhưng không quá 72 giờ). - Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu: Chính phủ quyết định thành lập quĩ thưởng xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc xuất khẩu các sản phẩm mới, chất lượng cao, mở rộng thị trường và thâm nhập thị trường mới (theo Quyết định 764/QĐ-TTg - 24/8/1998). Sự thành công trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của nước ta từ năm 1998 đến nay, đó là thành quả của gần 10 năm phấn đấu không mệt mỏi của toàn Đảng, toàn dân ta vì một nước Việt Nam vững mạnh và vì một thế giới hoà bình, ổn định. Chúng ta từng bước hoàn thiện thêm chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu đi đôi với việc bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bằng văn bản pháp qui cụ thể (Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII). Tất cả những điều đó nhằm nâng cao cạnh tranh của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên chính thị trường nội địa, khu vực và thế giới. Tránh quan liêu, bao cấp trong quá trình quản lý xuất nhập khẩu, thủ tục rườm rà trong khâu vận chuyển, xét cấp giấy phép xuất - nhập khẩu,... đó là những điều, những lý do khiến chúng ta cần phải xem xét và tiếp tục quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. II-/ Định hướng và kiến nghị phát triển ngoại thương Việt Nam 2001 - 2005. 1. Định hướng phát triển ngoại thương. Nhằm mục tiêu phát triển ngoại thương phù hợp với quan điểm phát triển ngoại thương đã nêu trên, có thể đưa ra một số hướng phát triển cơ bản cho ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới: 1.1. Định hướng cơ bản cho nhịp độ tăng xuất nhập khẩu. Như trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam cho đến những năm 2003 chúng ta đã coi “Ngoại thương là hạt nhân của bài toán tăng trưởng, nhịp độ tăng nhanh của hoạt động xuất nhập khẩu sẽ kéo theo nhịp độ tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng nhanh lên tương ứng”. Bài học của các quốc gia đi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0144.doc
Tài liệu liên quan