Đề tài Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ

PHẦN I 3

VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẦN QUAN TÂM KHI XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 3

I –Vai trò của hoạt động xuất khẩu 3

1-Đối với các doanh nghiệp 3

2- Đối với nhà nước: 3

II- Một số đặc điểm về thị trường Mỹ 4

1- Vai trò kinh tế của Mỹ trên trường quốc tế: 4

2 –Vài nét về chính sách thương mại Mỹ: 5

2.1- Đặc điểm của chính sách thương mại Mỹ 5

2.2 – Các công cụ chính sách thương mại: 5

2.3 – Những qui định hải quan Mỹ để xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Mỹ: 6

PHẦN II 8

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 8

I - Tiềm năng thuỷ sản và tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua. 8

1 - Tiềm năng thuỷ sản của Việt Nam: 8

2 – Khai thác và nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu : 8

3 - Tình hình xuất khẩu thuỷ sản từ năm 1995 trở lại đây: 10

II - Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ: 13

1- Quan hệ thương mại Việt–Mỹ kể từ khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam : 13

2 - Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ từ năm 1994 trở lại đây. 15

2.1 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 16

2.2 Cơ cấu và chất lượng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ: 17

3 – Hình thức xuất khẩu 18

4. Sức cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam trên thị trường. 19

4.1. Các lợi thế. 20

4.2. Các bất lợi: 20

III. Đánh giá về hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. 21

1. Những thành tựu đạt được. 21

1.1. Kim ngạch xuất khẩu. 21

1.2. Hoạt động tìm kiếm thị trường: 21

1.3. Đầu tư cho công nghệ chế biến: 22

2. Hạn chế. 23

2.1. Về thị phần: 23

2.2. Về chất lượng: 23

2.3. Về vốn đầu tư. 23

2.4. Khả năng cạnh tranh: 24

 

doc34 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trồng thuỷ sản là một lĩnh vực quan trọng trong khi sản lượng khai thác hải sản biển đã gần đến giới hạn cho phép thì diện tích nuôi trồng còn có khả năng mở rộng về diện tích và khả năng thâm canh. Nuôi trồng có thể chủ động trong vụ mùa, cơ cấu sản phẩm để khâu chế biến chủ động tìm nguồm tiêu thụ. Nuôi trồng thuỷ sản tạo ra nguồn nguyên liệu xuất khẩu lớn và ổn định cho ngành chế biến thuỷ sản xuất khảu, chủ động chọn lựa những sản phẩm có nhu cầu lớn để đầu tư nuôi như tôm, cá ba ba, cá bống tượng, cá chép... Diện tích nuôi trồng thuỷ sản hiện nay mới chỉ khai thác được hơn 1/3 diện tích mặt nước có thể nuôi trồng. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản qua một số năm: Năm 1990: 491723 ha Năm 1995: 575000 ha Năm 1999: 640000 ha Nguồn:TBKTVN số75năm1999 và số122 năm2000. Với diện tích nuôi trồng ngày càng được mở rộng, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản ngày càng tăng. Sản lượng nuôi trồng năm 1999 đã đạt 600 nghìn tấn tăng 30,4 % so với năm 1998 với chủng loại nuôi trồng cũng rất đa dạng từ cá nước ngọt, cá biển, tôm, nhuyễn thể.Trong đó nghề nuôi tôm đã trở thành nghề sản xuất chính đem lại thu nhập cao cho nông, ngư dân ven biển và là nguồn xuất khẩu thu ngoại tệ lớn. Năm 1997 tỷ trọng nuôi tôm xuất khẩu đã chiếm 62% sản lượng và 68% giá trị xuất khẩu của ngành. Tuy nhiên, việc tăng sản lượng chủ yếu là nhờ tăng diện tích, năng xuất nuôi trồng còn thấp được phát triển tự phát, thiếu qui hoạch đã dẫn đến nguy cơ huỷ hoại môi trường tự nhiên. Do đó Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng năng xuất cao và bền vững nhằm tạo nguyên liệu chủ yếu và ổn định cho xuất khẩu. Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kì 1999-2010 đã được chính phủ phê duyệt với tổng vốn đầu tư là 40.204 tỷ đồng. Theo đó sẽ đẩy mạnh và qui hoạch lại nuôi trồng thuỷ sản gắn với bảo vệ môi trường, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, phòng chống dịch bệnh. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nuôi trồng thuỷ sản trên cơ sở đảm bảo cung cấp giống đủ về số lượng, chất lượng đảm bảo thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng, nâng cấp các nhà máy chế biến và xuất khẩu để giải quyết thị trường tiêu thụ sản phẩm. 3 - Tình hình xuất khẩu thuỷ sản từ năm 1995 trở lại đây: Trong những năm gần đây xuất khẩu thuỷ sản đã có sự phát triển mạnh mẽ đóng vai trò đòn bẩy thúc đẩy ngành thuỷ sản phát triển giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng lên từ 550 triệu USD lên 979 triệu USD năm 1999, đóng góp đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thời kì 1995 – 1999. Đơn vị: triệu USD Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Kim ngạch XK-TS 550 670 776 850 979 Tổng kim ngạch XK 5448.9 7255.9 9185 9362 11540 Tỉ trọng 10.09% 9.2% 8.4% 9.5% 8.4% Nguồn: Bộ thuỷ sản Với kim ngạch 979 triệu USD năm 1999 thuỷ sản đã vươn lên đứng thứ năm trong số các mặt hàng xuất khẩu cuả Việt Nam, đứng sau dầu thô 2017 triệu USD, dệt may 1682 triệu USD, giày dép 1406 triệu USD, gạo 1035 triệu USD. Theo thống kê của FAO hiện nay Việt Nam là 1 trong số 20 nước có sản lượng đánh bắt thuỷ sản lớn và đứng trong hàng ngũ 25 nước xuất khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới. Trong khu vực Việt Nam đứng thứ tư về sản lựơng sau Thái Lan, Inđônêxia, Malayxia và cũng đứng thứ tư về giá trị xuất khẩu sau Thái Lan, Inđonêxia và Singapo. Sự nỗ lực trong tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng nay. Theo báo cáo của Bộ thuỷ sản thì Việt Nam từ chỗ chỉ xuất khẩu qua 2 thị trường trung gian là Hồng Kông và Singapo thì hiện nay đã xuất khẩu sang 49 nước với 5 thị trường chính là Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc và khu vực Đông Nam á. Thị trường Nhật Bản trong những năm đầu của thập kỉ 90 chiếm từ 65- 75 % tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản song do sự biến động trong khu vực và đồng yên mất giá nên thị trường này đã giảm xuống mặc dầu vậy cho đến năm 1999 đay vẫn là thị trường lớn nhất chiếm 40,7 %, với kim ngạch xuất khẩu 381.3 triệu USD. Đứng sau Nhật Bản là Mỹ thị trường này đang được cải thiện từ 5,9% năm 1997 lên 13,2 % năm 1999 đạt giá trị 130 triệu USD. Tiếp đến là thị trường EU chiếm tỷ trọng 10 % và 9,65% tương ứng với năm 1998, 1999 ngoài ra, ta còn có các thị trường khác như Trung Quốc, Hồng Kông, H àn Quốc … Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh còn nhờ vào tăng khối lượng, chủng loại hàng hoá và tăng tỷ lệ hàng chế biến. Ban đầu chủ yếu là xuất khẩu tôm dưới dạng tươi, ướp đá trong lồ, xuất khẩu sang mạn tầu. Sau đó chuyển sang xuất khẩu dưới dạng đông lạnh với khoảng 5-7 chủng loại. Hiện nay đã có trên 100 mặt hàng thuỷ đặc sản với cơ cấu khoảng 70% khối lượng xuất khẩu dưới dạng thô, sơ chế, 30% thuỷ sản chế biến sâu, riêng thuỷ sản đông lạnh có 80 chủng loại hàng khác nhau. Nhờ hoạt động chế biến sâu bước đầu một số loại thuỷ sản Việt Nam như tôm sú hấp, tôm hùm luộc mực file… đã bán trực tiếp tới siêu thị nước ngoài (thường mang nhãn hiệu nươc ngoài). Tỷ lệ sản lượng nuôi trồng tham gia xuất khẩu so với sản lượng đánh bắt đã tăng dần hàng năm. trước đây xuất khẩu chủ yếu là thuỷ sản đánh bắt thì đến nay nó đã chiếm hơn 51% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản . Bảng 2: Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính . Đơn vị tính: % STT Năm Mặt hàng 1998 1999 1 Hàng khô 7 5 2 Cá đông lạnh 10 8 3 Tôm đông lạnh 59 35 4 Nhuyễn thể đông lạnh 11 9 5 Các loại khác 13 43 Tổng số 100 100 Nguồn: Bộ thuỷ sản. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam còn chưa ổn định, chủng loại sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu còn nghèo nàn chủ yếu là tôm, mực đông lạnh sơ chế, tỉ lệ sản phẩm có giá trị cao còn ít, chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu của các nước nhập khẩu lớn. Do đó, mặc dù giá sản phẩm thấp chỉ bằng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Indonexia nhưng vẫn không đủ sức cạnh tranh. Thêm vào đó chúng ta lại chưa đẩy mạnh được xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường chính mà chủ yếu vẫn phải tái xuất qua trung gian môi giới và các trung tâm tái xuất như Singapo, Hongkong, chưa đủ khả năng bán hàng theo giá CIF, chưa sử dụng được hình thức đại lý bán hàng thuỷ sản ở các nước tiêu thụ lớn như Nhật Bản, EU… cho đến nay chúng ta vẫn thiếu một kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến bán hàng thuỷ sản Việt Nam ở nước ngoài. Mặc dù có tiến hành một số hoạt động xúc tiến như: tham gia các hội chợ thương mại, cử các đoàn cán bộ đi khảo sát ở nước ngoài nhưng nhìn chung những hoạt động này còn mang tính tự phát và chưa có thể coi là hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực sự nên xét về mặt mục tiêu lên kế hoạch, áp dụng các hoạt động xúc tiến và đánh giá kết quả của hoạt động này. II - Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ: 1- Quan hệ thương mại Việt–Mỹ kể từ khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam : Ngay sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ( 3/2/1994) kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đã tăng lên 222,4 triệu USD vào năm 95, năm 96 tổng giá trị hàng hoá trao đổi giữa hai nước chiếm gần 1% trong tổng số hơn 100 tỷ USD kim ngạch buôn bán giữa ASIAN và Mỹ. Như vậy sau 2 năm bỏ cấm vận tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Mỹ đã tăng lên gần 4 lần, là điều chưa từng có trong lịch sử quan hệ giữa hai nước. Năm 1997 – 1998 ghi nhận bước tiến quan trọng giữa hai nước đại sứ Việt Nam và đại sứ Mỹ nhận chức tại thủ đô mỗi nước ngày 7/3/1997 hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao song phương, tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ việc áp dụng điều luật bổ xung Sacksonvanik đối với Việt Nam ngày 10/3/1998, góp phần thúc đẩy bình thường hoá quan hệ thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên kết quả buôn bán song phương trong 2 năm 97-98 vẫn dừng lại ở con số khiêm tốn 630 và 789 triệu USD. Năm 1999 trao đổi buôn bán Việt Nam Mỹ có gia tăng hơn so với 2 năm trước đạt 879 triệu USD nhưng vẫn chưa vượt qua mức 924 triệu của năm 96. Năm 1999 ghi nhận dấu ấn đặc biệt trong quan hệ thương mại Việt Mỹ với việc chính phủ 2 nước ký thoả thuận sơ bộ về hiệp định thương mại. Chính phủ Mỹ tuyên bố dừng áp dụng chính sách Sacksonvanik đối với Việt Nam. Về phía Việt Nam, chính phủ đã tuyên bố giành cho Mỹ quy chế tối huệ quốc(MFN), trong buôn bán được gia hạn hàng năm. Động thái trên đã khích lệ các nhà kinh doanh vững tin vào triển vọng bình thường hoá quan hệ kinh tế Việt Nam Mỹ. Nhờ vậy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu giữa hai nước từ đầu năm 2000 đã có nhiều diễn tiến tích cực. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ ngay trong quí I năm 2000 đã tăng 240.41% so với quí I năm 99. Trong khi nhập khẩu tăng 132,39% đưa kim ngạch buôn bán song phương 6 tháng đầu năm lên 665 triệu USD. Ngày 13/7/2000 theo giờ Mỹ hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ đã được ký kết và hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Với sự kiện này theo dự đoán của các chuyên gia bộ thương mại Việt Nam thì năm 2000 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Mỹ có khả năng đạt 2 tỷ USD tăng 2 lần so với năm 1999 Số liệu cụ thể về kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ được thể hiện trong bảng sau Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Mỹ. Đơn vị tính: Triệu USD Năm 94 95 96 97 98 99 6 tháng đầu năm 2000 Xuất khẩu 50.4 200 308 372 319.5 661.9 _ Nhập khẩu 172.0 252 616 287 269.5 277.3 _ Tổng 222.4 452 924 659 789 875.2 665 Nguồn: Bộ thương mại Do sự khác biệt giữa hai nên kinh tế đã giúp Việt Nam tìm được chỗ đứng cho các hàng hoá giá trị thấp, chất lượng vừa phải trên thị trường Mỹ. Các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là nông lâm và thuỷ sản chế biến, hàng dệt may đồ dệt giày da. Trong những năm 94-95 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ là hàng thuộc nhóm nông lâm sản (76%) trong nhóm này cafe chiếm phần lớn với kim ngạch 29,969 triệu USD năm 94 và 145,74 triệu USD năm 95. Năm 95 hàng công nghiệp nhẹ của Việt Nam cũng bước đầu đặt chân vào thị trường Mỹ với kim ngạch 24,4 triệu USD trong đó dệt may chiếm chủ yếu. Bảng 4: Cơ cấu xuất nhập khẩu Việt Nam sang Mỹ: Đơn vị tính: triệu USD Năm 1994 1995 1996 Tổng giá trị hàng hoá 50.4 200 132.2 Nông nghiệp 38.3 151.6 132.8 Phi nông nghiệp 12.1 48.3 173.8 Nguồn:Số liệu thống kê của phòng thương mại Mỹ Năm 98-99 tuy có sự biến động đôi chút về tỷ lệ các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Mỹ nhưng nhìn chung những mặt hàng chính như cà phê, giày dép, thuỷ sản dầu mỏ tiếp tục khẳng định vị chí của mình trên thị trường Mỹ. Trong đó mặt hàng cà phê xuất khẩu sang Mỹ đã đạt kỷ lục vào năm 1998 với 142 triệu USD đưa Mỹ trở thành nước tiêu thụ cà phê hàng đầu của Việt Nam. Năm 1998 xuất khẩu giày dép sang Mỹ đã lần đầu vượt ngưỡng 100 triệu USD đạt 114 triệu USD và tăng lên 145,7 triệuUSD năm 99. Cùng với cà phê và giày dép năm 1999 thuỷ sản cũng có giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD. Bảng 5: Các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ Đơn vị tính: Triệu USD STT Mặt hàng 1995 1996 1997 1998 1 Cà phê, chè,gia vị. 144 110 108 147 2 Giày dép và phụ kiện 33 39 98 115 3 Nhiên liệu, dầu mỡ 0.015 80 37 107 4 Thuỷ sản 19 34 46 80 5 Dệt may và phụ kiện 16 23 23 28 6 Hoa quả, quả có vỏ 0.9 8 16 23 7 Rau quả, hạt, thựcphẩm # 0.2 2 3 3 8 Ngũ cốc, bột mì, sữa 0.9 1 2 3 Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thương mại Mỹ tại HN 2 - Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ từ năm 1994 trở lại đây. Nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản có xu hướng tăng mạnh ở tất cả các quốc gia đặc biệt là những nước phát triển bình quân tăng 3% năm. Thị trường thuỷ sản thế giới bị chi phối chủ yếu vẫn là các quốc gia có khả năng khai thác chế biến và tiêu thụ thủy sản với khối lượng lớn như các nước châu á Nhật Bản, Thái Lan, ấn Độ, các nước Bắc Mỹ và EU. Tuy vậy sự chi phối chủ yếu vẫn là thị trường tiệu thụ lớn hoặc tái chế xuất khẩu là Mỹ, Nhật và EU (tập trung vào Tây Ban Nha và Italia). Mỹ là một trong những quốc gia lớn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Từ một nước nông nghiệp, Mỹ đã trở thành một nước công nghiệp vượt xa các nước khác, đứng đầu thế giới về qui mô xuất nhập khẩu hàng hoá, chiếm gần 14% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới. Đối với mặt hàng thuỷ sản, Mỹ là một trong 3 thị trường lớn nhất thế giới, hàng năm nhập khẩu khoảng 5,6 – 6,2 tỷ USD (Chiếm 13-14% nhập khẩu thuỷ sản của thế giới, năm 1994 kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản là 7 tỷ USD) xuất khẩu trên 3,2 tỷ USD. Từ 1994 ngành thuỷ sản đã nhận thấy việc mở rộng thị trường xuất khẩu là rất quan trọng trong việc thúc đẩy tăng giá trị xuất khẩu trong mặt hàng này, đồng thời giảm bớt rủi ro nếu chỉ phụ thuộc vào thị trường Nhật Bản. ngành đã chủ trương mở rộng sang thị trường EU và Mỹ đặc biệt là thị trường Mỹ khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được bãi bỏ 3/2/1994.từ đó đến nay xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ đã cò bước tiến đáng kểthể hiện qua một số nội dung sau: 2.1 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ Ngay sau khi chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam thì hàng hoá của Việt Nam cũng bắt đầu thâm nhập vào thị trường rộng lớn này. Một trong các mặt hàng đầu tiên thâm nhập vào thị trường Mỹlà hàng thuỷ sản. Ngay trong năm 1994 giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ đạt trên 5.8 triệu USD chiếm 11.5% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Năm 1995giá trị thuỷ sản đã tăng 3.3 lấno với năm 1994 đạt 19.5 triệu USD. Từ năm 1994 đến 1999 bình quân tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào mỹ là 60.8% đến năm 1999 đạt 130 triệu USD tăng gấp 22 lần so vớinăm 1994. Dù Việt Nam chưa được hưởng qui chế tối hụê quốc hoặc chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) nhưng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam . Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ 1995-1999: Đơn vị tính triệu USD Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997 1998 1999 KNXKTS sang mỹ 5.8 19.5 33.9 46.3 80.2 130 Tổng KNXK sang Mỹ 50.4 200 308 372 319.5 661.9 Tỷ trọng(%) 11.5 9.75 11 12.4 25.1 19.6 Nguồn :Bộ thuỷ sản Trong 6 tháng đầu năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đã đạt 122.5 triệu USD tăng 210% so với cùng kì năm 1999. Cùng với sự tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỷtong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản cuả Việt Nam cũng có bước phát triển đáng kể đưa mỹ trở thành bạn hàng lớn thứ hai trong số các nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam . Bảng 7:Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỷ trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam : Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng KN XKTS Triệu USD 530 670 776 850 979 KN XKTS sang Mỹ Triệu USD 19.5 33.9 46.3 80.2 130 Tỷ trọng % 3.5 5.0 5.9 9.4 13.2 Nguồn:Số liệu thống kê của phòng thươnh mại Mỹ 2.2 Cơ cấu và chất lượng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ: Trong cơ cấu thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua thì tôm đông lạnh chiếm 67.2%, cá đông lạnh chiếm 10.8%, các sản phẩm thô chiếm 11.8 %, mực đông lạnh 5.6%, các sản phẩm khác là 4.6%. riêng thị trường Mỹ vốn rất ưa chuộng tôm đông lạnh( sức tiêu thụ ước tính tăng 5%/ năm). Sản phẩm tôm nhất là tôm hùm, tôm sú năm trong loaị hải sản được ưa chuộng nhất tại Mỹ với mức tiêu thụ đầu người khoảng 1,14 kg nên trong thời gian qua tỷ trọng tôm đông lạnh trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm trên 80%. Năm 1997 giá trị tôm đông lạnh xuất khẩu đạt gần 90 triệu USD chiếm 86% giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. Do trình độ khoa học và công nghệ chế biến thuỷ sản còn thấp nên thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu ở dạng đông lạnh, tỷ trọng hàng chế biến sâu như các sản phẩm dưới dạng đồ hộp còn ít. Hơn nữa hiện nay trong khoảng hơn 200 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu thì mới chỉ có khoảng 50 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Vì đây là thị trường đỏi hỏi chất lượng cao và các tiêu chuẩn an toàn về vệ sinh thực phẩm. Từ sau ngày 18/12/97 Mỹ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc nhập khẩu hàng thuỷ sản. theo qui định này hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã ứng dụng HACCP. Nội dung HACCP của Mỹ tập trung vào việc đảm bảo an toàn thực phẩm, các yếu tố chất lượng được gắn với hệ thống qui phạm sản xuất (GMD và các yếu tố vệ sinh(SSOP). Các mặt hàng thuỷ sản khi xuất vào thị trường Mỹ phải tuân theo qui định của các cơ quan thực phẩm và dược phẩm (FDA), qui chế tiêu thụ đặc biệt cho sản phẩm của ngành ngư nghiệp Mỹ, các qui định của bộ nông nghiệp Mỹ của cơ quan về thuỷ sản và đời sống động vật hoang dã. Ngoài ra việc đóng góp và ghi nhãn cũng phải tuân theo luật của Mỹ. 3 – Hình thức xuất khẩu Do Mỹ là một thị trường mới, sự am hiểu về môi trường kinh doanh còn hạn chế nên đa số các mặt hàng của Việt Nam khi vào thị trường Mỹ chủ yếu qua hình thức gián tiếp, thuỷ sản của Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Ngoài ra, còn một lượng lớn thuỷ sản được tiêu thụ tại thị trường Mỹ thông qua hoạt động tái xuất từ các nhà máy của Singapo, Hồng Kông, Đài Loan. Chúng ta cũng đã thiết lập được mối quan hệ trực tiếp với các nhà nhập khẩu người Mỹ nên hình thức xuất khẩu trực tiếp đang đựơc phát triển mạnh. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu thuỷ sản chưa sử dụng được hình thức đại lý bán hàng thuỷ sản, chưa xây dựng được một hệ thống cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng chưa thâm nhập sâu hơn vào hệ thống trên thị trường Mỹ vì vậy mà hiệu quả của hoạt động xuất khẩu đạt được vẫn chưa cao. Sơ đồ: Kênh phân phối thuỷ sản ở Mỹ. Nhà NK (Các công ty thuỷ sản và các công ty thương mại lớn) Nhà bán buôn Nhà bán buôn trung gian Nhà bán buôn chuyên doanh Nhà chế biến Siêu thị, cửa hàng bán lẻ Người tiêu dùng Các cửa hàng 4. Sức cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam trên thị trường. Vị trí của một mặt hàng Một sản phẩm xuất khẩu để có thể thâm nhập trên thị trường nước ngoài, thì nó phải vượt qua hàng rào thuế quan cũng như hàng rào phi thuế quan của nước đó. Sau khi đã thâm nhập, để có thể đứng vững trên thị trường đó thì nó phải có sức cạnh tranh đủ mạnh để không bị đánh bại. Hàng thuỷ sản của Việt Nam phần nào đã thực hiện được điều này, đã tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường Mỹ và những lợi thế đáng kể, tuy nhiên cũng còn không ít khó khăn bất lợi. 4.1. Các lợi thế. - Giá cả là lợi thế cạnh tranh lớn của thuỷ sản Việt Nam. Hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là tôm đông lạnh, do tận dụng được lao động thủ công, giá rẻ nên giá thành sản phẩm thấp. Giá tôm đông lạnh xuất của Việt Nam luôn thấp hơn so với Thái Lan từ 25% đến 30%. - Việt nam có nguồn lợi thuỷ sản thuận lợi hơn so với nhiều nước như so với Thái Lan thì diện tích vùng đặc quyền kinh tế của ta gấp 3 lần diện tích của Thái Lan diện tích nuôi tôm của Thái Lan chỉ khoảng 60.000 ha thấp hơn hẳn so với diện tích nuôi tôm của Việt Nam (khoảng 250.000 ha). Ngoài ra vùng biển Việt Nam là vùng có năng lực tái tạo sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới, môi trường biển còn tương đối sạch, nguồn lợi ven biển có khả năng phục hồi nhanh, nguốn lợi xa bờ có thể khai thác thêm khoảng 300-400 ngàn tấn mỗi năm. Do đó chúng ta có thể chủ động được nguồn nguyên liệu với số lượng lớn và ổn định cho xuất khẩu, chủ động kiểm soát được chất lượng vệ sinh của nguyên liệu từ ngành nuôi trồng. 4.2. Các bất lợi: - Sự hạn chế về chất lượng Hiện nay chúng ta mới chỉ xuất sang hàng chủ yếu là tôm đông lạnh sơ chế, vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế nên nó bị cạnh tranh rất mạnh của các sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Equado, Mehico, ấn độ. Hiện nay Thái lan nhà cung cấp lớn nhất về tôm cho thị trường Mỹ, sản phẩm của TL chất lượng cao, bao gói đẹp, phù hợp với các yêu cầu của thị trường Mỹ. - Mặc dù có lợi thế về tài nguyên thuỷ sản phong phú, điều kiện khí hậu thuận lợi, giá lao động rẻ hơn so với các nước khác nhưng trình độ khoa học và công nghệ còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam vì đây là loại hàng tươi sống, chất lượng hàng phụ thuộc phần lớn vào khâu bảo quản, chế biến. - Các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa có hệ thống bán hàng trực tiếp tại Mỹ cũng là một bất lợi cho việc nâng cao vị trí thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ. III. Đánh giá về hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. 1. Những thành tựu đạt được. 1.1. Kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, nếu như năm 1993 giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ mới là 5,8 triệu USD thì đến năm 99 nó đã tăng lên gấp 22 lần so với năm 94 đạt 130 triệu USD. Đây là bước phát triển đáng kể của ngành thuỷ sản Việt Nam. Chúng ta đã trở thành bạn hàng lớn của thị trường Mỹ nếu năm 1994 chúng ta mới xuất lộ hàng đầu tiên vào thì Mỹ vẫn chưa có vị trí gì đáng kể trong số các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ thì đến năm 99 thì chúng ta đã nằm trong số nước xuất khẩu thuỷ sản lớn vào thị trường Mỹ. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ cũng đang chiếm tỷ trọng càng lớn trong tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam từ 3,5% năm 1995 lên 13,2% năm 1999 đưa Mỹ trở thành bạn hàng lớn thứ 2 trong số các nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong những năm qua tốc độ tăng kim ngạch bình quân 60,8% đã góp phần đáng kể vào tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành 1995 -2000 là 17,2%. 1.2. Hoạt động tìm kiếm thị trường: Có thể nói sự nỗ lực hoạt động tìm kiếm thị trường, mở rộng thị trường xuất khẩu là một trong những nguyên nhân chính thức thúc đẩy tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản nói chung và thuỷ sản sang thị trường Mỹ nói riêng. Từ năm 1994 trở lại đây ngành đã có chủ trương mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm giảm sự lệ thuộc vào thị trường Nhật bản lên đã tìm cách mở rộng sang thị trường EU vào Mỹ. Cũng trong năm 1994 Mỹ đã bác bỏ lệnh ca ám vận chống Việt Nam lên thuỷ sản đã là một trong những mặt hàng tiên phong thâm nhập thị trường Mỹ. Dù ban đầu số lượng còn rất nhỏ bé nhưng qua các năm đã tăng lên gấp nhiều lần. Để đạt được giá trị xuất khẩu như ngày hôm nay không chỉ là sự cố gắng của chính phủ trong việc cải thiện quan hệ với Mỹ mà còn có nỗ lực rất nhiều của các doanh nghiệp thuộc ngành thuỷ sản. Từ năm 1995 lại đây, tất cả các hội chợ lớn ở Mỹ đều có các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam tham gia, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tìm hiểu thị trường Mỹ. Chính việc tìm hiểu thị trường Mỹ, nắm được các ưu đãi, cũng như các quy định đối với hàng nhập khẩu của thị trường này đã giúp các doanh nghiệp từng bước thâm nhập và có chỗ đứng trên thị trường Mỹ. Trong thời gian qua các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cũng đã tích cực mở rộng quan hệ với các công ty Mỹ nhằm tìm hiểu đối tác thích hợp. 1.3. Đầu tư cho công nghệ chế biến: Trong những năm qua, ngành thuỷ sản đã nỗ lực đầu tư vào trang thiết bị, đổi mới công nghệ, khuyến khích các áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP. Chính vì vậy mà hiện nay chúng ta đã có trên 50 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ. Bên cạnh công nghệ chế biến ngành cũng đã đẩy mạnh đầu tư công nghệ cho nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản như công nghệ nuôi tôm giống, công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp phục vụ cho nuôi theo hướng công nghiệp, công nghệ làm đã từ nước mặn ngay trên tàu… đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu, cũng như đảm bảo đủ nguyên liệu với số lượng lớn, ổn định phục vụ cho xuất khẩu. Để có được các thành công trên có nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chính sau: * Lợi thế về điều kiện tự nhiên: với bờ biển dài hơn ….., diện tích mặt biển lớn cộng với chế độ khí hậu và các điều kiện tự nhiên đa dạng là điều kiện phát triển thuận lợi cho nghề cá của Việt Nam phát triển không thua kém bất cứ quốc gia nào trên thế giới . * Lợi thế về nguồn nhân lực: với hơn 80 triệu dân trong đó có hơn 70% là sản xuất nông nghiệp vì vậy Việt Nam có nguồn lao dộng dồi dào, chi phí nhân công rẻ lên chi phí sản xuất thấp, tăng khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam về giá so với các nước khác. * Do chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, thực hiện chính sách kinh tế mới, muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, chủ động thúc đẩy quan hệ với Mỹ mở đường cho quan hệ thương mại giữa 2 nước phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế mở dựa trên những lợi thế đất nước. Nhờ đó nhiều ngành kinh tế đã có phát triển đáng kể, mở rộng thị trường trong đó có ngành thuỷ sản. * Do áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào nuôi trồng thuỷ sản, khai thác đánh bắt thuỷ sản xa bờ, đã nâng cao sản lượng của ngành thuỷ sản Việt Nam lên đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam á. 2. Hạn chế. 2.1. Về thị phần: Tuy kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ tăng nhanh nhưng vẫn chỉ chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn so với nhu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Cho đến hết năm 99 hàng thuỷ sản Việt Nam cũng chỉ chiếm 0,5% thị trường Mỹ. 2.2. Về chất lượng: Tuy đã có những bước phát triển đáng kể và đã được thị trường Mỹ nơi có hàng rào phi thuế quan rất khắt khe trong việc kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản, thừa nhận chất lượng c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0680.doc
Tài liệu liên quan