- Hiện nay, việc đăng ký tài sản đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực hiện chưa được triệt để và rộng khắp. Nguyên nhân của vấn đề này là do thực tế khách quan có rấtnhiều loại tài sản không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục và không có đầy đủ các giấy tờ cần thiết nên việc đăng ký chứng nhận quyền sở hữu là rất khó. Đặc biệt là các bất động sản tại khu vực nông thôn, rất nhiều hộ làm nhà tự phát mà không có bất kỳ một giấy tờ nào. Đối với những loại này, chỉ là những công cụ, phương tiện phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân mà rất khó biến thành tài sản đưa vào chu chuyển trong nền kinh tế.
Do hệ thống đăng ký tài sản hoạt động không hiệu quả nên hoạt động tín dụng ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Liệu ngân hàng có thể tin được khách hàng sẽ đảm bảo có đủ nguồn vốn "tự có" tham gia vào dự án như cam kết. Dù khách hàng có đưa ra các bằng chứng như sau thì độ tin cậy vẫn rất hạn chế:
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2015 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các vấn đề lớn nhất trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt Nam hiện nay và giải pháp cho các vấn đề này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng là cách mà một số doanh nghiệp có thể thực hiện để thay những khoản nợ quá hạn bằng những khoản nợ mới mà trong giới tài chính ngân hàng gọi là đảo nợ.
+Một hợp đồng có thể vay bao nhiêu ngân hàng?
NH 2’
Ngân hàng 1
Ngân hàng 1
Ngân hàng 1
Doanh nghiệp
hợp đồng A
DN thành viên
Hợp đồng phụ 1
DN thành viên 2
Hợp đồng phụ 2
NH 1’
NH n’
NH n'’
NH 1'’
NH 2'’
- Doanh nghiệp ABC trúng thầu xây dựng một công trình hạ tầng H. ABC ký hợp đồng phụ với các đơn vị thành viên của mình hoặc một số đơn vị khác làm B' cho mình. Các đơn vị này lại ký hợp đồng tiếp với các đơn vị khác nữa làm B''... Khi đó, tất cả các đơn vị có hợp đồng xây dựng công trình H đem đến các ngân hàng vay vốn. Do không có hệ thống thông tin kiểm tra một cách đầy đủ, khả năng tất cả các hợp đồng thi công nêu trên đều được vay vốn là có thể xảy. Những khoản tiền vay được vượt quá nhu cầu phục vụ cho việc thi công dự án H đã bị sử dụng sai mục đích. Vấn đề này có thể mô tả theo sơ đồ sau:
Tình trạng bất cân xứng thông tin trong hoạt động cho vay:
a, Thực trạng:
-Trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng Việt Nam, tình trạng bất cân xứng thông tin luôn hiện diện, ở đó ngân hàng luôn là người bất lợi hơn về mặt thông tin so với người đi vay. Đứng ở góc độ tổng thể người ta thừa nhận rằng lãi suất cao sẽ góp phần loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn tồi và những dự án kém hiệu quả. Tuy nhiên, thật khó để phân biệt được một dự án tốt một dự án xấu khi ngân hàng không có được thông tin đầy đủ về người đi vay.
- Dựa trên thông tin không đầy đủ, quyết định của ngân hàng là đưa ra một mức lãi suất nhất định trên cơ sở rủi ro kỳ vọng về khách hàng. Với mức lãi suất đã ấn định, những dự án có suất sinh lợi kỳ vọng thấp hơn sẽ không hiệu quả nên không đi vay, trong khi những dự án có suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn mới có khả năng vay. Suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn hàm ẩn mức độ rủi ro lớn hơn trong khi không đảm bảo một suất sinh lợi thực tế cao.
- Những người đã vay vốn thì có động cơ tìm kiếm những dự án rủi ro cao trong khi ngân hàng cũng không thể giám sát và ngăn ngừa hết mọi khả năng sử dụng vốn của bên đi vay được. Hiện tượng này được gọi là lựa chọn ngược hay lựa chọn bất lợi vốn dĩ tồn tại trong hầu hết các giao dịch có sự bất cân xứng thông tin giữa các bên. Nghịch lý này không chỉ phản ánh qua tình trạng méo mó lãi suất ở mức độ cao giữa các ngân hàng hiện nay mà hơn thế nó tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu và đe doạ tính bền vững của hệ thống ngân hàng
b, Nguyên nhân: Các cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết trong hoạt động tín dụng còn nhiều hạn chế
Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính:
- Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một cơ sở cực kỳ quan trọng giúp cho các bên có liên quan nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không được tổ chức tốt và không minh bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất khó có thể căn cứ để xem xét "sức khoẻ" của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay các DN vừa và nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế; báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.
- Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo cáo kế toán (thường là 3). Một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn thực tế). Một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo thường hơn thực tế). Một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào.
Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu:
Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng
- Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết sức quan trọng giúp cho việc thẩm định,xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
- Trên thực tế, các thông tin hiện có của CIC (Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ) có độ cập nhật không cao và các chỉ tiêu còn chung chung. Những thông tin cần thiết để xác định lịch sử, độ tin cậy của ban điều hành doanh nghiệp hầu như không có. Mặt khác, do chưa thực sự ý thức về tầm quan trọng của tính cập nhật và chính xác về thông tin nên các tổ chức tín dụng chưa có sự quan tâm đúng mức đến các thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho CIC. Khi thẩm định doanh nghiệp, rất ít ngân hàng lấy thông tin từ CIC.
Hệ thống thông tin nội bộ của từng tổ chức tín dụng:
- Hiện nay, bản thân trong một tổ chức tín dụng, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin cũng chưa hiệu quả và tính hệ thống gần như không có. Thậm chí việc kiểm soát tổng dự nợ của một khách hàng (kể cả các đơn vị trực thuộc hạch toán báo sổ) là một vấn đề rất khó khăn đối với các tổ chức tín dụng.
Hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án:
- Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án, phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống thông tín nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đàu ra của sản phẩm…
- Thực tế, hiện nay các tổ chức tín dụng thường sử dụng các thông lấy được trên mạng internet với tính hệ thống không cao. Việc truy cập, tìm kiếm những số liệu này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của các bộ tín dụng với yêu cầu phải có khả năng đọc tốt tiếng Anh. Do vấn đề về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các tổ chức tín dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả của dự án như giá nguyên vật liệu, giá bán, khả năng tiêu thụ …lại thiếu thông tin nhất trong quá trình thẩm định.
Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá:
Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng:
- Theo quy định đối với những người điều hành doanh nghiệp đồi hỏi phải có một số tiêu chuẩn nhất định nào đó (về bằng cấp). Nhưng thực tế những quy định này nặng về hình thức hơn. Những căn cứ, tiêu chuẩn để dựa vào đó đánh giá khả năng điều hành của một doanh nghiệp, một tổ chức gần như không có.
Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo tài chính:
- Hai điều kiện cơ bản nhất để phân tích báo cáo tài chính nhằm đưa ra các đánh giá, kết luận có độ tin cậy là phải có hệ thống thông tin báo cáo tài chính đủ độ tin cậy và có hệ thông các chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá. Phần thứ nhất đã được trình bày ở phần trên.
- Hiện nay chưa có các tiêu chuẩn, chuẩn mực được cho là hiệu quả để so sánh đánh giá một báo cáo tài chính của một khách hàng là tốt hay không tốt, đủ tiêu chuẩn hay chưa đủ tiêu chuẩn. Trên cơ sở những tiêu chí của Ngân hàng Nhà nước đưa ra, các tổ chức tín dụng cũng xây dựng hệ thống chỉ tiêu đấnh giá, xếo lọi khách hàng. Nhưng việc đánh giá dựa vào các tiêu chuẩn này đang ở trong quá trình thử nghiệm chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Các tiêu chuẩn thẩm đinh dự án đầu tư:
- Đây là những thông số, nhưng tiêu chuẩn vô cùng cần thiết như hệ số chiết khấu, mức độ rủi ro …Trong quá trình thẩm định một sự án, có rất nhiều tiêu chuẩn để đánh giá dự án, nhưng hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là dự vào giá trị hiện tại ròng (NPV) và suất thu hồi vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV dương hay suất thu hồi vốn nội bộ lớn hơn một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định đầu tư hoặc cấp tín dụng cho dự án đó. Vấn đề khó khăn đầu tiên đối với các tổ chức tín dụng khi tính NPV hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn IRR thì suất chiết khấu nào được sử dụng ở đây. Cơ thể sử dụng mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)5 hoặc các mô hình khác để xác định giá trị này. Điều này là bất khả thi vì các hệ số gần như không thể xác định được hoặc nếu có xác định được thì chúng không có ý nghĩa xác thực để lấy đó làm căn cứ.
- Thực tế tại các tổ chức đang làm là lấy lãi suất cho vay trung dài hạn của chính tổ chức tín dụng đó cộng (+) thêm một tỷ lệ nữa để có được suất chiết khấu. Với phương thức này có thể tạm chấp nhận được vì dù sao cũng có cơ sở. Nhưng cở sở này là rất cảm tính.
Các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án:
- Hiện nay ở Việt Nam, các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án tiên tiến chưa được áp dụng và phổ biến rộng rãi tại Việt nam do điều kiện về công nghệ và những người am hiểu về nó còn rất hạn chế. Vì vậy việc áp dụng đại trà gặp rất nhiều khó khăn.
Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập:
- Hiện tại ở Việt nam đã có Trung tâm tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước và một số đơn vị khác như các công ty chứng khoán đã làm công tác xếp loại khách hàng. Tuy nhiên để đảm bảo độ tin cậy, tổ chức này cần phải có các điều kiện sau: Tính khách quan, Tính độc lập, Tính tin cậy, Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch….
- Nếu căn cứ vào các tiêu chuẩn nêu trên, rõ ràng hiện nay ở Việt Nam chưa có tổ chức nào đủ điều kiện và có khả năng xếp hạng tín dụng một cách độc lập. Tuy nhiên, với những lợi thế của mình, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là một tổ chức có thể có khả năng đáp ứng các điều kiện này tại sao. Khả năng trong thời gian tới, khi CIC phát triển có thể trở thành một cơ quan cung cấp thông tin và xếp hạng tín dụng khách hàng tin cậy là nền tảng cho một hạ tầng thông tin tốt phục vụ cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra với mô hình Trung tâm xếp hạng tín nhiệm thuộc VASC cũng có khả năng trở thành một tổ chức xếp hạng tín nhiệm tin cậy.
Hệ thống đăng ký tài sản:
- Hiện nay, việc đăng ký tài sản đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực hiện chưa được triệt để và rộng khắp. Nguyên nhân của vấn đề này là do thực tế khách quan có rấtnhiều loại tài sản không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục và không có đầy đủ các giấy tờ cần thiết nên việc đăng ký chứng nhận quyền sở hữu là rất khó. Đặc biệt là các bất động sản tại khu vực nông thôn, rất nhiều hộ làm nhà tự phát mà không có bất kỳ một giấy tờ nào. Đối với những loại này, chỉ là những công cụ, phương tiện phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân mà rất khó biến thành tài sản đưa vào chu chuyển trong nền kinh tế.
Do hệ thống đăng ký tài sản hoạt động không hiệu quả nên hoạt động tín dụng ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Liệu ngân hàng có thể tin được khách hàng sẽ đảm bảo có đủ nguồn vốn "tự có" tham gia vào dự án như cam kết. Dù khách hàng có đưa ra các bằng chứng như sau thì độ tin cậy vẫn rất hạn chế:
Xác nhận có tiền gửi ngân hàng:
- Liệu có ngân hàng có tin chắc rằng bên vay vốn không "vay nóng" ở đâu đó rồi gửi vào ngân hàng để nhờ xác nhận. Thậm chí, bên vay có bằngchứng khoản tiền gửi đó là 5 năm hay 20 năm thì ngân hàng cũng rất khó có thể tin đượcđó là tiền của bên vay vì hoạt động tài chính ngân hàng ở Việt Nam có một ngoại lệ là bất cứ loại tiền gửi nào khách hàng đều có quyền rút trước hạn. Do đó hôm nay mua một chứng chỉ tiền gửi 5 năm ngày mai rút lại là điều hoàn toàn có thể.
Chứng minh có lợi nhuận giữ lại:
- Đây cũng là vấn đề rất khó khăn đối với ngân hàng vì lợi nhuận của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các khoản phải thu, các loại chi phíchờ phân bổ … Với hệ thống sổ sách kế toán không đủ độ minh bạch, không có kiểmtoán thì rất khó có thể xác định được doanh nghiệp lãi thật hay lãi giả.
- Nói chung, khi thẩm định khả năng góp vốn tự có của khách hàng trong việc thực hiện dựán ngân hàng chủ yếu tín vào sự trung thực của khách hàng. rất khó khẳng định là kháchhàng có thực sự bỏ vốn vào thực hiện dự án hay toàn bộ là vốn vay. Một phương thức màcác doanh nghiệp có thể "qua mặt" các tổ chức tín dụng là sử dụng biện pháp nâng giátrong các hợp đồng.
- Với sự không minh bạch và khó xác định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trịcủa các loại tài sản đã gây rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyếtđịnh cấp tín dụng của mình.
Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo:
- Để tránh tình trạng khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn nhiều ngân hàng hoặc tạo điều kiện cho khách hàng có một tài sản có giá trị lớn có thể vay vốn nhiều tổ chức tín dụng, hiện nay có các cơ quan đăng ký Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực; Cục Hàng không dân dụng Việt Nam; Sở Địa chính hoặc Tài nguyên mô trường; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Mỗi cơ quan nêu trên thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo mỗi loại tài sản theo quy định.
Thiếu minh bạch trong niêm yết lãi suất và thẩm định cho vay của các Ngân hàng
a, Thiếu minh bạch trong niêm yết lãi suất:
- Theo quy định hiện hành, các ngân hàng phải ấn định lãi suất huy động tiền đồng (bao gồm cả khuyến mãi, thưởng) không quá 14% một năm. Trên thực tế,nhiều ngân hàng kể cả ngân hàng quy mô lớn, dùng nhiều “chiêu” để lách trần lãi suất huy động, đẩy lãi suất thực trả khách hàng lên sát 17% một năm. Hình thức “ủy thác vốn đầu tư” áp dụng cho khách hàng lớn hoặc khách hàng tổ chức là một ví dụ. Theo đó, khách hàng ký với ngân hàng hợp đồng “ủy thác vốn đầu tư”, hình thức này không giống như sổ gửi tiết kiệm nhưng bản chất lại giống hệt và muốn lãi suất bao nhiêu là do hai bên thỏa thuận.
- Một kiểu khác tinh vi hơn để áp dụng cho khách hàng cá nhân là ghi “khống” vào sổ tiết kiệm. Ví dụ, khách hàng gửi 100 triệu đồng, muốn nhận lãi suất 17%/năm thì ngân hàng có thể ghi vào “dư có” trên sổ tiết kiệm là 103 triệu đồng, còn lãi suất trên sổ vẫn là 14%/năm. Dĩ nhiên, hình thức này còn kèm theo thỏa thuận hai bên nếu khách hàng rút tiền trước hạn. Tất nhiên, các ngân hàng cũng rất cảnh giác để tránh “sập bẫy” thanh tra, nếu không phải người quen, hoặc được giới thiệu từ mối quen thì khách hàng không thể gửi được ở mức giá vốn như nói trên.
- Nhiều đơn vị khác áp dụng khuyến mãi, tặng quà cho khách dù đã trả lãi suất 14% một năm. Việc huy động lãi suất cao, đương nhiên ngân hàng cũng phải nâng lãi suất cho vay. Điều này gây ra làn sóng tăng lãi suất giữa các ngân hàng với nhau. Chính vì thế, lãi suất cho vay tại các ngân hàng đang được đẩy lên mức 20 - 22%/năm, thậm chí có ngân hàng chào lãi suất đến 26%/năm khiến cho DN và người dân “sợ” giao dịch vay với ngân hàng vì dù có vay được thì cũng không biết kinh doanh gì để sinh lợi trả lãi vay.
- Việc để mức lãi suất tái cấp vốn ở mức thấp, 11%, 12% rồi 13% , trong khi lãi suất cho vay của các Ngân hàng lên tới xấp xỉ 20% sẽ không ngăn chặn được vấn đề rủi ro đạo đức. Tức là, khi Ngân hàng cho rằng NHNN sẽ cho phép thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn với giá rẻ thì Ngân hàng sẽ ít thận trọng hơn với các quyết định kinh doanh có khả năng gây thiếu hụt thanh khoản. Giả sử lãi suất cho vay là 20%, thì cứ mỗi một hợp đồng tín dụng được chấp nhận qua cửa sổ tái cấp vốn, Ngân hàng sẽ có thêm khoảng 7 điểm phần trăm tiền lãi. Vì thế mà NH ít quan tâm tới những rủi ro làm thiếu hụt thanh khoản.
- Cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận hiện nay giúp tăng tính công khai, minh bạch về lãi suất của tổ chức tín dụng và chi phí vay vốn của khách hàng vay; khiến tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí kinh doanh, áp dụng lãi suất cho vay hợp lý phù hợp với chỉ đạo Chính phủ. Nhưng trong bối cảnh thị trường Việt Nam chưa thực sự cạnh tranh lành mạnh, còn cơ chế xin cho, đưa quan hệ vào công việc, cơ chế lãi suất thỏa thuận có thể biến tướng, dễ phát sinh tiêu cực.
- Công khai niêm yết lãi suất tại các ngân hàng giúp khách hàng và các cơ quan quản lý kiểm soát và tiếp cận thông tin lãi suất dễ dàng hơn. Chính vì thế, để tăng tính công khai minh bạch về niêm yết lãi suất tín dụng, (10/3/2011), NHNN ban hành Thông tư số 05, yêu cầu tổ chức tín dụng (TCTD) không được thu các loại phí liên quan đến khoản cho vay đối với khách hàng, trừ các khoản phí trả trong trường hợp khách hàng trả nợ trước hạn; phí thu xếp để thực hiện ký kết hợp đồng đồng tài trợ theo phương thức cho vay hợp vốn...Bên cạnh đó, NHNN yêu cầu cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố tiến hành kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thu phí liên quan đến khoản cho vay của tổ chức tín dụng. Cùng ngày, ngân hàng nhà nước cũng ban hành Thông tư số 04 quy định lãi suất áp dụng trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn tại tổ chức tín dụng. Theo đó, TCTD áp dụng lãi suất tối đa bằng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của tổ chức tín dụng trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn. Và tổ chức tín dụng phải niêm yết công khai lãi suất áp dụng trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn tại các địa điểm huy động vốn.
- Như vậy, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của NHNN của các Ngân hàng là điều rất thiết và là giải pháp hữu hiệu để tăng tính công khai, minh bạch trong niêm yết lãi suất.
b, Không rõ ràng, thiếu minh bạch trong thẩm định cho vay:
- Thẩm định được hiểu nom na như việc xem xét đề nghị vay vốn của khách hàng, đánh giá dự án của khách hàng nhằm xác định khả năng chắc chắn của việc thu nợ và lãi từ dòng tiền của dự án. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng cho vay không phụ thuộc vào cái mà khách hàng đưa mà lại phụ thuộc vào cái mình thẩm định. Trong khi đó, cán bộ tín dụng là người đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến quyết định cho vay của ngân hàng. Có thể nói rằng, chất lượng của các hợp đồng cho vay phụ thuộc khá nhiều vào trình độ, năng lực, đạo đức của cán bộ tín dụng. Vì thế, có một số vấn đề khó tránh khỏi:
Cán bộ tín thực hiện cho vay không hợp lý, bỏ qua ủy ban cho vay, chỉ dựa vào quan hệ giữa họ với khách hàng.
Đánh giá TSBĐ mang tính chủ quan, chủ yếu dựa vào quan hệ, đánh giá thế nào phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cán bộ tín dụng và doanh nghiệp.
Có nhiều doanh nghiệp thỏa thuận với cán bộ tín dụng để dẫn đến nợ quá hạn. Với ngân hàng cổ phần, ngân hàng được quyền quyết định khi mức rủi ro là cho phép. Vì vậy có một số cán bộ tín dụng rất nhởn nhơ khi họ có nợ quá hạn. Họ bảo họ làm đúng quy trình.
- Không minh bạch không chỉ nằm ở việc đánh giá của cán bộ tín dụng mà còn nằm ở cả những thông tin mà khách hàng cung cấp. Tài chính là do doanh nghiệp tự khai nên có thể nói độ minh bạch là không có. Theo luật, doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh rất dễ dàng. Chỉ cần ít vốn, vài ba người là đã có thể thành lập doanh nghiệp được rồi. Điều đó dẫn đến chuyện thành lập tràn lan, có doanh nghiệp ảo. Chủ sở hữu là ai: có nhiều chủ thực sự lại là các công chức nhà nước nhờ người khác đứng tên. Như vậy là không minh bạch về chủ sở hữu, làm cho việc thẩm tra và đánh giá của ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng luôn phải phân biệt chủ trên giấy tờ và chủ thực tế để xem ai thực sự quản lý, uy tín và năng lực đến đâu. Việc này mất thêm thời gian.
- Bên cạnh đó, tính minh bạch trong các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh luôn là vấn đề. Ví dụ: nhiều doanh nghiệp khai thấp lợi nhuận để trốn thuế. Nếu xét về tình hình tài chính của doanh nghiệp này thì có thể cho vay được nhưng lại không có cơ sở về mặt giấy tờ pháp lý để cho vay. Ngược lại, có doanh nghiệp không làm ăn ra gì khai khống thì không cho vay được. Có thể nói rằng hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đều có sự không minh bạch trong vấn đề tài chính. Kể cả khi họ minh bạch về tài chính thì vẫn còn yếu để cho vay, ví như không đủ tài sản đảm bảo, năng lực tài chính yếu. Chính vì thế mà các ngân hàng không có đầy đủ thông tin về phía khách hàng của mình mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định. Đây là một trong những nguyên nhâ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu ngày càng cao.
Lãi suất cho vay ở mức cao:
a,Thực trạng:
- Cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng cuối năm 2010 đã gác lại với mức lãi suất huy động tạm ổn định ở mức “đồng thuận” 14%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay – cái mà các doanh nghiệp vay vốn quan tâm – lại không có được hai chữ “đồng thuận” như vậy. “Trăm dâu đổ đầu tằm” là câu tục ngữ mô tả đúng tình cảnh mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang phải gánh chịu đối với những khoản vay ngân hàng.
- Với mức lãi suất cho vay hiện nay của hầu hết các ngân hàng từ 18% đến 20%/năm thì mức lãi gộp của ngân hàng đã lên đến 4 – 6% (thay vì chỉ 2% như thông điệp chính sách ở trên), là mức quá cao so với điều kiện bình thường cũng như so với các ngành sản xuất khác đang gặp nhiều khó khăn hiện nay. Trong điều kiện lạm phát càng cao, với một chỉ tiêu lợi nhuận nhất định, thì khe hở giữa lãi suất huy động – cho vay càng được ngân hàng đẩy lên càng lớn.
b, Nguyên nhân:
- Các chuyên gia tài chính cho rằng việc Ngân hàng Nhà nước siết chặt nguồn tín dụng để kiềm chế lạm phát đã gây ra hậu quả ngoài ý muốn. Đây là một trong những lý do khiến lãi suất ở Việt Nam hiện ở mức ‘cao nhất thế giới’. Việc NHNN thắt chặt tín dụng đã buôc các ngân hàng phải huy động lãi suất cao dẫn dến cho vay cao, từ đó tạo ra vòng luẩn quẩn không thoát ra được.
- Lãi suất gia tăng bắt nguồn từ cuộc đua huy động tiền gửi do các ngân hàng nhỏ khơi mào. Các ngân hàng này buộc phải dựa vào nguồn vốn từ thị trường tự do để tăng thanh khoản, họ đẩy lãi suất tiền gửi lên cao để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi của dân. Vì huy động tiền với giá cao, lãi suất cho vay cũng buộc phải đẩy lên theo. Điều này gây ra làn sóng tăng lãi suất giữa các ngân hàng với nhau.
- Mức lãi suất cao hiện nay không chỉ phản ánh tình trạng lạm phát của nền kinh tế, vốn có nguồn gốc sâu xa ở những bất cập về mặt cơ cấu kinh tế, về khía cạnh tài khoá, vấn đề đầu tư công và lĩnh vực tiền tệ mà còn là những yếu kém về năng lực quản trị ngân hàng cũng như sự khập khiễng trong cấu trúc của hệ thống tài chính.
7.Bất cập về năng lực và trình độ của các cán bộ tín dụng:
- Kết quả thẩm định doanh nghiệp, dự án, giám sát hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, việc đào tạo cán bộ tín dụng có nhiều điều phải bàn:
+Nặng về lý thuyết, ít cập nhật:
- Học viện Ngân hàng tại Hà Nội và Trường ĐH Ngân hàng tại TP.HCM là những nơi đào tạo nhân lực chủ yếu cho ngành ngân hàng. Để làm việc trong ngành ngân hàng, sinh viên còn có thể học tại một số khoa tương tự của Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Học viện Tài chính, ĐH Ngoại thương (Hà Nội), ĐH Kinh tế TP.HCM, ĐH Kinh tế Đà Nẵng, Học viện Chính trị quốc gia TP.HCM... Thế nhưng, tiến sĩ Đặng Ngọc Đức (ĐH Kinh tế quốc dân) cho biết nội dung đào tạo ở hầu hết các cơ sở này chủ yếu vẫn là lý thuyết. PGS-TS Nguyễn Thị Mùi (Học viện Tài chính) cho rằng có quá nhiều môn học cơ bản trong khi các môn chuyên ngành lại nặng về truyền đạt lý thuyết,thiếu các bài tập tình huống cũng như thực hành, giáo trình chậm được bổ sung cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn nước ta.
- TS Hà Quang Đào (ĐH Ngân hàng TP.HCM) bổ sung: "Các môn học quá rộng, dàn trải, trong khi lại thiếu các môn nghiệp vụ chuyên sâu, có tính cập nhật thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Phương pháp đào tạo vẫn mang tính nhồi nhét, ít khuyến khích tranh luận, nghiên cứu và sáng tạo của sinh viên". PGS-TS Ngô Hướng (Phó hiệu trưởng Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM) nhận xét: "Hoạt động ngân hàng mang tính quốc tế rất cao, đòi hỏi phải có sự tiếp cận các phương tiện giao dịch hiện đại. Vậy mà đội ngũ giảng viên của các trường hầu hết được đào tạo trong nước, nhiều người chưa một lần ra nước ngoài để tham quan, học tập, xem xét những nhân viên ngân hàng nước ngoài làm việc như thế nào. Sinh viên hiện phải học trên sách vở là chủ yếu vì lấy kinh phí đâu để mua các phần mềm kế toán và ngoại hối của nước ngoài có giá từ vài trăm nghìn đến cả triệu USD!".
- Vấn đề thực tập của sinh viên năm cuối: Nhiều ngân hàng thường không nhiệt tình trong việc tiếp nhận sinh viên đến thực tập. Không được thực hành nhiều, việc thực tập chỉ mang tính hình thức nên nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp rất bỡ ngỡ với công việc chuyên môn và những tình huống thực tế khi đi làm.
+ Vấn đề đạo đức nghề nghiệp:
- Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ cho vay yếu kém dẫn đến cán bộ cho vay không đánh giá chính xác về khách hàng và phương án vay vốn, từ đó làm phát sinh những hợp đồng cho vay kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ. Cùng với sự hạn chế về trình độ là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ cho vay. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng phải không những có trình độ mà cũng phải có đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ cho vay đã sa ngã, có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, móc ngoặc với khách hàng, ngây tổn thất to lớn với ngân hàng cho vay.
II. Giải pháp chung cho tất cả các vấn đề và giải pháp riêng cho từng vấn đề:
Giải pháp chung:
+ Điều chỉnh chính sách tín dụng: nhằm đạt được mục tiêu cân bằng giữa tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp tại ngân hàng tmcp dầu khí toàn cầu chi nhánh đà n.doc