Tiểu luận Khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến thị trường tài chính tiền tệ

MỤC LỤC

 

 

LỜI MỞ ĐẦU 5

PHẦN 1: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG 6

1.1. Nợ công 6

1.1.1. Định nghĩa 6

1.1.2. Phân loại nợ công 6

1.1.3. Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn nợ công 7

1.2. Khủng hoảng nợ công 9

1.2.1. Thế nào là khủng hoảng nợ công? 9

1.2.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công 9

1.3. Tác động của khủng hoảng nợ công đến tài chính tiền tệ 10

 

PHẦN 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN TÌNH HÌNH TCTT Ở 2 NƯỚC ĐIỂN HÌNH LÀ HY LẠP VÀ IRELAND 12

2.1. Khủng hoảng nợ công Hy Lạp và tác động đến tình hình TCTT 12

2.1.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Hy Lạp 12

2.1.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP 12

2.1.1.2. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP của Hy Lạp 13

2.1.1.3. Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp theo kỳ hạn 13

2.1.1.4. Tình trạng thâm hụt ngân sách 14

2.1.2. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công 14

2.1.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ 16

2.1.3.1. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng 16

2.1.3.2. Cắt giảm chi tiêu 17

2.1.3.3. Đầu tư trực tiếp FDI 17

2.1.3.4. Xếp hạng tín dụng 18

2.1.3.5. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm. 19

2.1.3.6. Thất nghiệp gia tăng 20

2.1.3.7. Lạm phát tăng. 21

2.2. Khủng hoảng nợ công Ireland và tác động đến tình hình TCTT 21

2.2.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Ireland 21

2.2.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP 21

2.2.1.2. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP của Ireland 22

2.2.1.3. Tình trạng thâm hụt ngân sách 22

2.2.2. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công 23

2.2.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ 24

2.2.3.1. Giá trái phiếu và lãi suất 24

2.2.3.2. Cắt giảm chi tiêu 25

2.2.3.3. Đầu tư trực tiếp FDI 26

2.2.3.4. Xếp hạng tín dụng bị hạ bậc 26

2.2.3.5. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm 27

2.2.3.6. Thất nghiệp và lạm phát 28

 

PHẦN 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP 30

3.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam 30

3.1.1. Nợ công tăng liên tục trong những năm qua, tiềm ẩn nhiều rủi ro 30

3.1.2. Việt nam sử dụng nợ công chưa thật sự hiệu quả 32

3.1.3. Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng dẫn đến tính bền vững của nợ công bị giảm sút 33

3.1.4. Nợ công của Việt Nam xếp top cuối về tính minh bạch 34

3.2. Các giải pháp để Việt Nam không rơi vào khủng hoảng nợ công 35

3.2.1. Tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế 35

3.2.1.1. Tăng năng suất lao động 35

3.2.1.2. Tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và môi trường đầu tư 35

3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến việc vay và sử dụng nợ công hiệu quả 36

3.2.2.1. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm hạn chế việc vay nợ 36

3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn vay 37

3.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến việc quản lý nợ công 38

3.2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các thể chế & xây dựng khung pháp lý 38

3.2.3.2. Đảm bảo an toàn, bền vững nợ 40

3.2.3.3. Công khai và minh bạch hóa thông tin về nợ công 41

KẾT LUẬN 41

TÀI LIỆU THAM KHẢO 42

PHẦN CÂU HỎI THẢO LUẬN 43

 

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10045 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến thị trường tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ương châu Âu và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đưa ra cảnh báo Hy Lạp cần cảnh giác trước nguy cơ lạm phát tăng cao và suy thoái lâu dài. Tỷ lệ lạm phát Hy Lạp tăng dần từ năm 2008 đến 2011, và tháng 1 năm 2011 là 5.2%. 2.2. Khủng hoảng nợ công Ireland và tác động đến tình hình TCTT: 2.2.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Ireland: Ireland là nước đảo, nằm trong biển Bắc Băng Dương, ở cực Tây-Bắc châu Âu, phía đông giáp biển nằm giữa Ireland và nước Anh, phía Tây Bắc Băng Dương. Diện tích: 70,280 km2. Dân số: 4.203.200 người (7/2009) Thế mạnh kinh tế: dược phẩm, hàng công nghệ cao và dịch vụ. Ireland được hưởng lợi từ một lực lượng lao động có trình độ cao và khả năng kết nối dễ dàng với các nền kinh tế khác trong EU. 2.2.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP: Theo số liệu được Ireland công bố những năm trước khi khủng hoảng như sau: Năm Công nợ/GDP (%) 2004 31.2 2005 31.2 2006 26.7 2007 22.8 2008 21.1 2009 64.8 2010 94.2 2.2.1.2. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP của Ireland: Năm Nợ nước ngoài (tỷ $) 2000 11 2001 11 2002 11 2003 11 2004 11 2005 11 2006 1049 2007 1392 2008 1841 2009 2312 2.2.1.3. Tình trạng thâm hụt ngân sách: Suốt 3 năm qua, người ta khó tìm thấy một ngày tươi sáng trên thị trường nhà đất tại Ireland. Giá nhà giảm 50-60% trong suốt giai đoạn này khiến cho tỷ lệ nợ xấu (đặc biệt là nợ của các công ty phát triển bất động sản) tăng đến mức báo động. Hệ thống ngân hàng, theo đó bị đặt trước nguy cơ đổ vỡ khiến Chính phủ phải ra tay can thiệp, cho dù cái giá phải trả là nợ công tăng cao. Được biết, Ireland là nước có thâm hụt cao nhất khu Eurozone. Vào hạ tuần tháng 9/2010, Ireland đã bơm gần 23 tỷ EUR vào Anglo Irish. Chính phủ Ireland đã bơm khoảng 50 tỷ euro cho hệ thống ngân hàng nhưng vẫn không “ăn thua” để cứu vãn tình hình và khiến thâm hụt ngân sách của nước này ở mức kỷ lục (chiếm tới 32% GDP trong năm nay). Với kế hoạch trên, Ireland hy vọng sẽ giảm mức thâm hụt ngân sách từ con số kỷ lục hiện nay 32% GDP "về đích" 3% GDP (theo Hiệp ước Tăng trưởng và Ổn định của châu Âu), phấn đấu đạt mức tăng trưởng trung bình 2,75% trong giai đoạn 2011-2014, đặc biệt giảm tỷ lệ thất nghiệp từ trên 13% hiện nay xuống dưới 10% vào năm 2014. 2.2.2. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công: Các ngân hàng nước này ngày càng phải gánh nhiều nợ xấu sau khi đã tăng cho vay quá mạnh trong thời kỳ kinh tế nước này tăng trưởng mạnh và bong bóng bất động sản phình to. Khi thị trường bất động sản nước này sụp đổ, nhiều phần trong các khoản cho vay bất động sản này trở thành nợ xấu và các ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ. Tương tự như trường hợp của Mỹ, Chính phủ Ireland buộc phải cứu hệ thống ngân hàng theo cách riêng của mình, đó là tạo ra một định chế tài chính mới gọi là NAMA (National Asset Management Agency) vào năm 2009 để nhận hầu hết tất cả các khoản nợ xấu của các ngân hàng lớn của Ireland. Các ngân hàng của Ireland sẽ “bán” lại các khoản nợ xấu này cho chính phủ để đổi lấy trái phiếu chính phủ. Như vậy, nói cách khác Chính phủ Ireland đã biến nợ xấu của các ngân hàng này, những khoản nợ tư nhân, thành “tài sản tệ hại” (toxic assets) mà chính phủ phải quản lý, nghĩa là trở thành tài sản công (nhưng đang liên tục mất giá) và lấy tiền của ngân sách để bù đắp cho các tổn thất của nó. NAMA có trách nhiệm quản lý các tài sản này và cố gắng đem lại lợi nhuận tốt nhất cho ngân sách. Điều này chỉ có thể xảy ra khi thị trường nhà hồi phục, nếu không, bản thân NAMA sẽ tiếp tục cần cứu giúp để có thể tồn tại và tiền cứu giúp lại sẽ phải đến từ ngân sách. Trước sau gì thì cách thức dùng tiền chính phủ để duy trì các tài sản ngày càng xuống giá trong nền kinh tế và bơm vốn để vực dậy khu vực ngân hàng của Ireland cũng sẽ buộc nước này phải liên tục đi vay mượn và chấp nhận thâm hụt ngân sách cho đến khi họ không còn khả năng chi trả nữa và phải đến cầu viện nước ngoài. Vì vậy, khủng hoảng nợ của Ireland thực tế là do chính phủ phải đi cứu trợ cho hệ thống ngân hàng nước này, khiến nợ xấu từ khu vực tư nhân tạo thành gánh nặng nợ nần của chính phủ và cuối cùng chính phủ không đủ tiền trả nợ phải đi cầu viện EU và IMF để có tiền tiếp tục cứu giúp hệ thống ngân hàng của mình. 2.2.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ: 2.2.3.1. Giá trái phiếu và lãi suất: Ngày 11/11, lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Ireland đã tăng lên 8,929% - Số liệu mới nhất lãi suất của tháng 2/2011 đạt mức kỷ lục 9.06% - mức cao nhất kể từ khi châu Âu đưa vào lưu hành đồng euro vào năm 1999, đặt các thị trường trái phiếu châu Âu vào tình trạng căng thẳng cực độ. Lãi suất trái phiếu của Ireland thời gian gần đây tăng cao là do giới đầu tư ngày càng lo ngại về tình trạng nợ công của nước này. Một nhà giao dịch trái phiếu tại một ngân hàng đầu tư của Mỹ thì cho biết, những nhà đầu tư mạnh tay gom mua trái phiếu của khu vực Eurozone trong tuần trước hiện đang ồ ạt bán ra trong tuần này. Gói cứu trợ trị giá khoảng 100 tỷ USD mà Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cam kết sẽ dành cho Ireland dường như không đủ sức phục hồi niềm tin cho thị trường. Với mức lãi suất hiện nay, Ireland gần như không thể phát hành trái phiếu mới. Chi phí bảo lãnh cho trái phiếu của các nước này cũng tăng vọt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS) kỳ hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Ireland đã lên tới mức 595 điểm phần trăm. Như vậy, cứ 10 triệu Euro nợ dài hạn của Ireland sẽ mất 595.000 Euro phí bảo lãnh (cao nhất so với các nước trong khu vực). Trái phiếu Ireland còn gặp khó vì một trong những trung tâm thanh toán lớn nhất châu Âu là LCH.Clearnet gần đây liên tục tăng phí đánh vào giao dịch trái phiếu của nước này, với lý do chi phí vay vốn của Ireland tăng. Điều này càng khiến các ngân hàng của Ireland, vốn sử dụng trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho hoạt động, càng phụ thuộc vào nguồn vốn từ Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Ireland hiện đang có kế hoạch phát hành 17,6 tỷ EUR trái phiếu trong năm 2011 và 4,9 tỷ EUR trái phiếu trong năm 2012. Quỹ ổn định tài chính châu Âu (EFSF) đã huy động thành công 5 tỷ USD từ việc phát hành trái phiếu kì hạn 5 năm, lãi suất 2,89% hồi cuối tháng trước. 2.2.3.2. Cắt giảm chi tiêu: Quốc hội Ireland tối 7/12 đã thông qua chính sách thắt lưng buộc bụng năm 2011 trong lúc chuẩn bị nhận viện trợ tài chính 85 tỉ euro từ EU và IMF. Quốc hội Ireland tối ngày 7/12 đã thông qua chính sách thắt lưng buộc bụng năm 2011 trong lúc chuẩn bị nhận viện trợ tài chính 85 tỉ euro từ Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Theo Bộ trưởng Tài chính Ireland, nước này sẽ tăng thuế với tất cả người lao động và cắt giảm phúc lợi xã hội, nhằm tiết kiệm khoảng 6 tỷ euro vào năm tới. Như vậy, một cặp vợ chồng ba đứa con có mức thu nhập trung bình 75.000 euro/năm đóng góp vào quỹ lương 4.500 euro/năm. Trong khi đó, trợ cấp cho trẻ em từ chính phủ sẽ giảm 40 euro/tháng, trợ cấp thất nghiệp giảm 8 euro/tuần. Những người nhận lương hưu trên 12.000 euro/năm sẽ bị cắt giảm. Thuế đánh trên xăng dầu tăng. Tuy nhiên, thuế đối với phí du lịch giảm nhằm thu hút du khách. Ngoài ra, viên chức công bị cắt giảm lương. Thủ tướng bị giảm 14.000 euro/năm, các bộ trưởng sẽ bị cắt 10.000 euro/năm. Tổng thống nước này cũng tự nguyện giảm lương trong năm 2011 xuống mức như người mới được bổ nhiệm, khoảng 250.000 euro/năm.   Ngân sách năm 2011 là ngân sách hạn hẹp nhất trong kế hoạch thắt lưng buộc bụng 4 năm tới của Ireland nhằm tiết kiệm 15 tỉ bảng Anh, gần 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của nước này, nhằm đưa thâm hụt ngân sách về giới hạn trần 3% GDP của EU vào năm 2014. 2.2.3.3. Đầu tư trực tiếp FDI: 2.2.3.4. Xếp hạng tín dụng bị hạ bậc: Kinh tế Ireland tiếp tục đón nhận những tin xấu khi công ty xếp hạng tín nhiệm Fitch ngày 6/10 đã hạ mức tín nhiệm của Ireland từ A+ xuống AA- và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng ở nước này tiếp tục giảm. Người tiêu dùng giảm sút lòng tin đối với đồng nội tệ hay chính sách công của chính phủ thì hành vi tiêu dùng, hành vi tiết kiệm hay hành vi đầu tư của họ cũng bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực. Theo Fitch, việc hạ cấp tín nhiệm phản ánh chi phí tài chính ở Ireland đã vượt quá dự kiến cùng với nỗ lực tái huy động vốn của chính phủ đối với các ngân hàng Ireland, đặc biệt là Ngân hàng Anglo Irish. Những đánh giá tiêu cực của Fitch được đưa ra một ngày sau khi hãng xếp hạng tín nhiệm Moody cho biết có thể cũng sẽ hạ cấp tín nhiệm của Ireland và nâng chi phí cho vay của nước này. Cơ quan xếp hạng tín nhiệm Moody's ngày 19/07 cắt giảm một bậc xếp hạng của Ireland từ Aa1 xuống Aa2 nhưng nhận định triển vọng vẫn còn ổn định. Đến tháng 11/2011, S&P hạ xếp hạng tín dụng dài hạn của Ireland 2 bậc từ mức A xuống AA-, triển vọng ngắn hạn bị điều chỉnh giảm xuống A-1 từ mức A-1+. 2.2.3.5. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm: Mặc dù mức tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người hàng năm của Ireland từ trước tới nay chỉ vào khoảng 3,5%, nhưng con số này đã vọt lên chừng 6% vào thập niên 1990. Trên thực tế, một phần lý do cho sự “đại nhảy vọt” này là việc Ireland có cơ sở xuất phát thấp, nhưng lịch sử thế giới - ngay cả ở nước Mỹ trong thời kỳ cách mạng công nghiệp hồi thế kỷ 19 - cho thấy, mức tăng như vậy là “độc nhất vô nhị” đối với một nền kinh tế phát triển. Thậm chí, có thời điểm, tăng trưởng GDP của Ireland còn đạt mức 10%. Tuy nhiên, vận đỏ của Ireland đã chuyển màu đen. Theo thời gian, mọi chi phí ở Ireland, từ tiền lương tới vật liệu đầu vào, cùng tăng. Cùng với đó, nền kinh tế này chuyển từ chỗ phát triển bùng nổ nhờ đầu tư nước ngoài và xuất khẩu sang phát triển bong bóng nhờ các giao dịch mua bán nhà đất và các dự án xây dựng. Các ngân hàng cho vay không kiểm soát trong thời kỳ thị trường nhà đất tăng chóng mặt, và tới năm 2009, thua lỗ từ những khoản nợ xấu bắt đầu chất cao như núi, buộc Dublin phải chi hàng chục tỷ Euro để cứu các ngân hàng. Trong quý đầu tiên trong năm 2009, GDP đã giảm 8,5% so với cùng năm trước , và GNP giảm 12%. Tỷ lệ thất nghiệp lên 8,75%  tới 11,4%.   Nền kinh tế đã thoát suy thoái trong quý III năm 2009, với GDP tăng trưởng 0,3% trong quý này, nhưng GNP tiếp tục hợp đồng, bằng 1,4%.  Tăng trưởng GDP thực tế của Ireland đã giảm mạnh, dự báo chỉ đạt 2,75% mỗi năm trong thời gian từ năm 2011-2014. 2.2.3.6. Thất nghiệp và lạm phát: Lạm phát Thất nghiệp: Các con số của những người đòi trợ cấp thất nghiệp ở Ireland đã tăng lên 326.000 vào tháng Giêng năm 2009, hàng tháng cao nhất kể từ năm 1967. PHẦN 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP 3.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam: 3.1.1. Nợ công tăng liên tục trong những năm qua, tiềm ẩn nhiều rủi ro: Nợ quốc gia hay còn gọi là nợ công, gần đây trở thành đề tài chú ý của dư luận khi cuộc khủng hoảng nợ công đang là “bóng ma” bao trùm nhiều quốc gia, nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên tiêu chí để đánh giá khi nào khoản nợ đó trở nên mất an toàn và khả năng trả nợ của một quốc gia nên căn cứ vào đâu còn chưa được làm rõ. Để dễ hình dung quy mô của nợ công, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu % so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên số liệu về nợ công/GDP hiện nay vẫn chưa được công bố một cách rõ ràng. Các số liệu sau nhóm 9 lấy từ Bộ phận phân tích thông tin kinh tế thuộc tạp chí The Economist. Bảng: Tỷ lệ nợ công/GDP từ năm 2001 đến năm 2010 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 %GDP 36 38.2 41.1 42.7 44 45.9 49.7 47.9 51 56.7 Nguồn: EIU Nhận xét: Theo bảng số liệu trên thì nợ công năm 2010 là 56.7%, và theo dự báo nợ công năm 2011 sẽ là 60% GDP. Như vậy có thể thấy rằng nợ công trong những năm qua ngày càng tăng cao. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng về lý thuyết mức nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng cho phép, nhưng Việt Nam phải tính tới phần chìm của tảng băng, tức là những khoản nợ ngầm bao gồm: các khoản nợ ngân hàng, tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo lãnh các khoản vay cho những người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ có thể không có khả năng thanh toán…. Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam, nếu Việt Nam lơ là. Việc đi vay nợ của chính phủ là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên khi tính toán nợ chính phủ thường không lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng đáng lẽ ra chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, khi tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị tài sản của chính phủ. Thực ra điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân. Khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên, khi tính toán theo phương pháp này thường gặp phải vấn đề là những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục… Việc tính toán nợ công ở Việt Nam chưa thực hiện nguyên tắc quản lý thống nhất: nợ nước ngoài, nợ trong nước, nợ nước ngoài do doanh nghiệp và các địa phương tự đi vay khiến công tác quản lý nợ phân tán, không thống nhất, chi phí giao dịch, chi phí vay cao, thiếu sự phối hợp trong điều hành vĩ mô. Mặt khác do Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước nghèo, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên các khoản vay ưu đãi ODA cũng giảm dần mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn. Đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những nước chúng ta vay vốn như: Nhật, EU… làm tăng thêm gánh nặng nợ công. Hậu quả: Nợ công tăng cao gây ra nhiều hậu quả: Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong nước giảm sút Nếu nợ trong nước lớn thì Chính phủ phải tăng thuế để trả nợ lãi vay gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Tăng thuế còn làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng. Lạm phát khó kiềm chế ở mức thấp. Nợ công tăng cao cũng làm cho nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. 3.1.2. Việt nam sử dụng nợ công chưa thật sự hiệu quả : Theo Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 – 2010 của bộ Kế hoạch và đầu tư: Cũng giống như một gia đình nghèo đông con, không vay nợ thì lấy gì chi tiêu. Trong nhiều năm nay, cho dù thu ngân sách đã tăng đáng kể nhưng ngân sách nhà nước vẫn chỉ đáp ứng “khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”, theo báo cáo về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 – 2010 của bộ Kế hoạch và đầu tư. Bộ này thừa nhận, ngoài mức thâm hụt ngân sách cao (từ 5 – 6,9% GDP trong những năm gần đây), còn có những khoản chi ngoài ngân sách mà nếu đưa hết vào chi ngân sách thì mức bội chi có thể lên đến trên 10%. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ trong tương lai”, bộ thừa nhận. Thâm hụt ngân sách gần đây được bù đắp bằng vay nợ trong và ngoài nước chủ yếu dưới hình thức phát hành trái phiếu, nhưng bộ này thừa nhận thực tế mà ít người dám nói ra: “Hiện nay vẫn chưa rõ nguồn kinh phí để chi trả khi các trái phiếu đến hạn thanh toán là gì”.???? Theo quy luật, có vay thì phải có trả. Để trả nợ gốc và lãi tính riêng cho các khoản vay ODA ưu đãi, ngân sách sẽ phải chi 70.250 tỉ đồng năm 2010, tăng cao so với 58.800 tỉ đồng năm 2009 và 51.200 tỉ đồng năm 2008, theo ủy ban Tài chính – ngân sách. Nguồn chi trả có thể sẽ không đáng lo, nếu những dự án đầu tư công được cấp vốn từ những nguồn vay nợ đó đạt hiệu quả, và sinh lời. Nhưng đây lại là một câu chuyện dài khác. Hệ số ICOR lên đến 8 trong năm 2009 là minh chứng rõ ràng nhất cho việc đầu tư công có hiệu quả như thế nào. Bổ sung cho hệ số ICOR cao là những khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, cảng biển,… đã quy hoạch hoặc đã khởi công nhưng còn dang dở và cần lượng vốn lớn nữa để hoàn thiện. Gần đây, khi được hỏi về việc có 5.000 dự án công ở Việt Nam bị chậm tiến độ theo công bố của bộ Tài chính, chuyên gia kinh tế trưởng của ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Martin Rama đã trả lời là ông “không hề ngạc nhiên”. Ông giải thích: “Ngay cả những dự án ODA do chúng tôi tài trợ cũng bị chậm… Đó là tình hình chung với các dự án ở Việt Nam”. Câu chuyện Vinashin là một ví dụ. Hàng trăm triệu USD vốn trái phiếu quốc tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn chưa hiệu quả, sự vỡ nợ của Vinashin đã đặt ra câu hỏi về lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế với môi trường kinh doanh Việt Nam. Cuối tháng 11 vừa qua, trang web của Bloomberg dẫn các nguồn tin từ công ty tư vấn tài chính Moody có trụ sở tại Mỹ cho biết, nợ xấu của Vinashin cũng ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng Việt Nam. Từ trường hợp đơn lẻ của Vinashin, chúng ta thấy được là chuyện quản trị nợ. Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến hai yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được dứt điểm vấn đề nợ. Những gì Hy Lạp, Ireland đang trải qua sẽ có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào. Chủ nợ rất dễ biến thành con nợ nếu không kịp thời điều chỉnh lối “ứng xử” với công nợ và tầm nhìn trong đầu tư. Với tình hình vay nợ và hiệu quả sử dụng như vậy, không có gì ngạc nhiên khi tại cuộc họp Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa rồi không ít đại biểu đã tỏ ra lo ngại về nợ công và an ninh tài chính của đất nước. 3.1.3. Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng dẫn đến tính bền vững của nợ công bị giảm sút: Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8%GDP (2001) GDP lên tới 7%GDP (2009) và 6.1%GDP (2010). Nguồn: Tổng cục thống kê Bội chi của Việt Nam đã luôn ở mức 5% GDP từ nhiều năm gần đây. Từ năm 2007 đến nay, do phải kích cầu đầu tư nên ngân sách nhà nước đã chi một lượng tiền lớn ra lưu thông nên tốc độ tăng bội chi ngân sách nhà nước tăng cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Năm 2008, sự diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam chỉ đạt 6,23%, thì tỷ lệ lạm phát lên tới 22,97%, tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 4,58% GDP. Đứng trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, từ đầu năm 2009 Chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP. Về cơ bản nó đã đạt được mục tiêu đề ra là ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế tuy nhiên nó cũng mang đến hệ lụy: thâm hụt ngân sách của Việt Nam lên đến 87,3 nghìn tỷ đồng (gần 7% so với GDP). Năm 2010, thâm hụt ngân sách bằng 6,1% GDP. Như vậy, trong khi nợ công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng báo động đỏ 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều năm tới. Cụ thể là, với tỉ lệ tiết kiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP thì Chính phủ sẽ phải tiếp tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tư nước ngoài) để bù đắp khoản thiếu hụt đầu tư. 3.1.4. Nợ công của Việt Nam xếp top cuối về tính minh bạch: Các con số về khoản nợ công của Việt Nam được công bố không đồng nhất giữa Quốc hội, Bộ Tài chính, đồng thời con số này cũng không giống với con số tính toán của thế giới. Điều này khiến các chuyên gia nhận định, hiện những thông tin về vấn đề nợ công của Việt Nam chưa thực sự minh bạch. Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã bước đầu có những thông tin công khai về nợ công trên website của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở nợ nước ngoài chứ chưa phải toàn bộ nợ công. Theo PGS.TS Đặng Văn Thanh – Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam thì việc không thống nhất và gắn kết trong cách hiểu, cách giải thích cũng như cách quản lý vấn đề về nợ công là một trong những rủi ro của nợ công Việt Nam. Cũng theo các chuyên gia, thống kê tài chính của Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung vào nợ Chính phủ, nên khó có thể thấy được toàn cảnh vấn đề tài chính công và nợ công vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và Chính phủ vẫn phải chịu trách nhiệm với khu vực này. Và đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến những sự việc như Vinashin. Để thực thi được tính minh bạch, GS-TS Vương Đình Huệ cho rằng cần trao trách nhiệm quản lý nợ công cho 1 đầu mối, có thể là Bộ Tài chính. Theo đó, Bộ này cần xây dựng một chiến lược về nợ công; xác định ngưỡng, tỷ trọng nợ công là bao nhiêu so với GDP cho từng giai đoạn, từng thời kỳ dựa vào “sức khỏe” của nền kinh tế quốc dân. 3.2. Các giải pháp để Việt Nam không rơi vào khủng hoảng nợ công: 3.2.1. Tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế: Có rất nhiều biện pháp để cải thiện và tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở lớn với định hướng xuất khẩu và phụ thuộc đáng kể vào FDI, mà các nhân tố chính tác động đến chất lượng xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam hiện nay là chất lượng sản phẩm; chi phí sản xuất; năng suất lao động; hàng rào thuế quan và phi thuế quan; việc tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm dịch 3.2.1.1. Tăng năng suất lao động: Cải thiện năng suất lao động trong xã hội cần được xem là mục tiêu quan trọng. Hiện tại, năng suất lao động của Việt Nam nhìn chung vẫn khá thấp, chỉ bằng 1/5 năng suất trung bình trong khu vực ASEAN và khoảng 1/10 mức năng suất của Singapore. Tăng cường khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường đối thoại xã hội, nâng cao năng lực và vai trò của đại diện công đoàn tại cấp cơ sở, phát huy được tiếng nói của mình trong các vụ tranh chấp, đình công của người lao động. Gần ¾ tổng số lao động ở nước ta vẫn có việc làm bấp bênh với tiền công và điều kiện lao động nghèo nàn, bảo trợ xã hội cũng như pháp lý còn hạn chế. Đây chính là nguyên nhân làm gia tăng các cuộc đình công, bãi công tại các doanh nghiệp, đặc biệt cao ở các doanh nghiệp FDI. Nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề cho người lao động để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo thống kê, gần ¼ lao động chưa tốt nghiệp trung học phổ thông, 65,3% chưa qua đào tạo. Các chuyên gia cảnh báo, với tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp như vậy sẽ gây cản trở không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế và mục tiêu tăng năng suất lao động lên 1,5 lần! 3.2.1.2. Tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và môi trường đầu tư: Để tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và môi trường đầu tư của Việt Nam chúng ta cần tuân thủ tốt các quy tắc, các tiêu chuẩn quốc tế của WTO, của EU…như chất lượng sản phẩm; hàng rào thuế quan và phi thuế quan; tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm dịch… 3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến việc vay và sử dụng nợ công hiệu quả: 3.2.2.1. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm hạn chế việc vay nợ: Việc giảm thâm hụt ngân sách không phải càng nhiều càng tốt, mà cần phải giảm đến một mức độ hợp lý và chấp nhận được. Tăng thu ngân sách nhà nước: Mặc dù có nhiều nguồn thu khác để tăng thu ngân sách nhà nước và việc tăng thuế không phải là giải pháp tốt nhất, nhưng Việt Nam đang là một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào thuế, thì việc làm này ít nhiều vẫn có cơ hội. Cần xác định được mức thuế suất hợp lý để đạt được mức thuế tối ưu. Vì biện pháp tăng thu bằng việc ấn định tăng thuế suất có tác động hai chiều, nếu tăng với mức độ hợp lý, sẽ làm tăng nguồn thu, nhưng khi vượt quá giới hạn của nền kinh tế thì sẽ làm giảm tổng nguồn thu thuế. Trong các loại thuế, có thể nói thuế VAT là một trong những loại thuế ít bị chi phối và chịu tác động của các cam kết hiệp định có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, nên chăng việc đầu tư nghiên cứu và phát triển loại thuế này để đạt được mức thuế thu cho ngân sách nhiều nhất. Nâng cao hiệu quả công tác thu thuế, đồng thời nhanh chóng hoàn thiện các luật thuế; bãi bỏ những khoản phí, lệ phí không còn phù hợp. Tăng thêm tuổi nghỉ hưu, qua đó sẽ tăng nguồn thu từ thuế (do người lao động làm việc trong thời gian dài). Giảm chi ngân sách nhà nước: Có thể nói việc cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt ngân sách là một biện pháp không được ủng hộ nhiều. Tuy nhiên, nếu phân biệt rõ việc tiết kiệm những khoản chi cho những hoạt động lãng phí với khoản chi nhằm kích thích hoạt động kinh tế, nhằm nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai, thì đây cũng là một trong những giải pháp cần được quan tâm tới. Bộ máy nhân sự khối hành chánh còn làm việc theo th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhủng hoảng nợ công và những tác động.doc
Tài liệu liên quan