MỤC LỤC
Lời mở đầu . . . .
Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ƯU ĐÃI THUẾ TNDN . . 1
1.1 Sự cần thiết khách quan của chế độ ưu đãi thuế . . 1
1.2 Tổng quan về thuế TNDN . . . 2
1.2.1 Sự tồn tại khách quan của thuế thu nhập . . 2
1.2.2 Khái niệm về thuế TNDN . . . 2
1.2.3 Khái quát về thuế TNDN ở Việt Nam. . . 3
1.3 Nội dung về ưu đãi thuế TNDN hiện nay ở Việt Nam . . 5
1.3.1 Điều kiện ưu đãi thuế TNDN . . . 5
1.3.2 Nguyên tắc thực hiện ưu đãi thuế TNDN . . 7
1.3.3 Thuế suất thuế TNDN ưu đãi và thời hạn áp dụng thuế thuế suất thuế TNDN
ưu đãi . . . . 9
1.3. 4 Mức và thời gian miễn, giảm thuế TNDN . . 9
1.3.5 Thủ tục thực hiện ưu đãi thuế TNDN . . 12
1.4 Chính sách ưu đãi thuế TNDN của một số nước trên thế giới . 13
1.4.1 Malaysia . . . . 13
1.4.2 Các nước khác . . . . 15
Chương 2 :TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NỘI DUNG ƯU ĐÃI THUẾ TNDN Ở VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA (2005 – 2007) . . . 16
2.1 Tình hình thực hiện nội dung ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam – nghiên cứu tình
huống quận Tân Bình . . . 16
2.1.1 Sơ lược tình hình KT- XH quận Tân Bình . . 16
2.1.1.1 Đặc điểm địa lý tự nhiên . . . 16
2.1.1.2 Đặc điểm cơ cấu kinh tế . . . 17
2.1.2 Tình hình thực hiện nội dung ưu đãi thuế TNDN ở Vịêt Nam nghiên cứu tình huống
quận Tân Bình . . . . 18
2.1.2.1 Khu vực ngoài KCN Tân Bình . . . 18
2.1.2.2 KCN Tân Bình . . . 24
2.2 Tác dụng của chính sách ưu đãi thuế TNDN đối với một số công ty tư nhân ở Việt
Nam - Kết quả nghiên cứu của khoa Kinh Tế trường Đại Học Quốc Gia TP.HCM 28
2.3 Đánh giá về tình hình thực hiện chính sách ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam trong
thời gian qua . 30
2.3.1 Ưu điểm . . . . 30
2.3.2 Nhược điểm . . . . 33
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI
THUẾ TNDN Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 . . 38
3.1. Định hướng về chính sách ưu đãi thuế TNDN đến năm 2020 . 38
3.1.1 Định hướng về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020 . 38
3.1.1.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế . . . 38
3.1.1.2 Phù hợp với tiến trình hội nhập . 39
3.1.2 Định hướng về chính sách ưu đãi thuế TNDN đến năm 2020 . 40
3.1.2.1 Chính sách ưu đãi thuế TNDN phải góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế . 40
3.1.2.2 Chính sách ưu đãi thuế TNDN phải phù hợp với các thông lệ, cam kết quốc
tế . . . . . 40
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam
đến năm 2020. .41
3.2.1 Hoàn thiện chính sách . . . 41
3.2.1.1 Nội dung ưu đãi thuế TNDN . . . 42
3.2.1.2 Luật đầu tư . . . 45
3.2.2 Về phía cơ quan quản lý thuế . . . 46
3.2.3 Về phía doanh nghiệp . . . 46
3.3 Các giải pháp hỗ trợ . . . 47
Kết luận . . . .
Phụ Lục . . . .
Danh mục tài liệu . . . .
90 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4842 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm công nghiệp cũng thuộc diện ưu đãi. Thực tế quản lý cho
thấy các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, tập trung chủ yếu vào các KCN,
KCX hoặc những địa bàn thuận lợi (TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình
Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Vĩnh Yên, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh). Rõ ràng là khi
chúng ta vừa áp dụng các ưu đãi theo địa bàn, lại vừa có ưu đãi thuế theo ngành nghề, lĩnh
vực thì các nhà đầu tư không dại gì đầu tư vào địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Đồng thời khoảng cách giữa các mức thuế kông lớn lằm vậy tội gì doanh nghiệp phải đầu
tư vào một vùng đặc biệt ưu đãi để hưởng mức thuế 10% mà lại rất khó khăn về cơ sở hạ
tầng như đường xá, nhà máy hay địa điểm không thuận lợi để vận chuyển, trong khi đó
doanh nghiệp hưởng 15 hay 20% mà cơ sở hạ tầng tốt, thuận tiện trong vấn đề vận chuyển,
tiết kiệm được nhiên liệu cũng như thời gian. Như vậy, trên giác độ phân bổ nguồn lực thì
việc sử dụng các ưu đãi thuế để phục vụ cho chính sách ưu đãi đầu tư đã không đạt được
mục tiêu đề ra do các nhà đầu tư đã lựa chọn tiêu chí ngành nghề để bỏ vốn đầu tư.
- Vẫn còn tồn tại một số điểm không phù hợp với các thông lệ quốc tế. Các vấn đề ưu
đãi của Luật thuế TNDN liên quan đến hoạt động xuất khẩu, trái với quy định của WTO
như các khoản ưu đãi mang tính chất trợ cấp xuất khẩu (ưu đãi bổ sung về thuế TNDN gắn
với thành tích xuất khẩu). Cụ thê là tuỳ vào lượng sản phẩm được xuất khẩu thì doanh
nghiệp sẽ được hưởng những ưu đãi khác nhau. Như những doanh nghiệp xuất khẩu từ 80
– 100% sản phẩm thì được hưởng mức thuế là 10%, 4 năm từ khi kinh doanh có lời sẽ
được miễn thuế TNDN và 4 năm tiếp theo sẽ được giảm 50% thuế TNDN. Còn với doanh
nghiệp xuất khẩu khoản từ 50 – 80% sản phẩm thì được hưởng mức thuế là 15%, được
miễn thuế TNDN 2 năm từ khi kinh doanh có lời và được giảm 50% thuế TNDN trong 2
năm tiếp theo.
- Trong những nguyên tắc thực hiện ưu đãi thuế TNDN có qui định doanh nghiệp tự
mình xác định trường hợp được ưu đãi khi cùng một lúc phát sinh nhiều trường hợp. Đây là
một thuận lợi nhằm tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp nhưng cũng là một khó khăn
khiến doanh nghiệp phải đau đầu. Ví dụ như trong trường hợp một doanh nghiệp mới ra
sản xuất kinh doanh với ba nhà máy sản xuất như vậy doanh nghiệp sẽ được hưởng ưu đãi
thuế TNDN là miễn thuế 2 năm đầu từ khi phát sinh doanh thu, sau đó giảm 50% số thuế
phải nộp trong 2 năm tiếp theo. Nhưng đến năm thứ 2 sau khi phát sinh doanh thu, doanh
nghiệp quyết định đầu tư nâng cấp một nhà máy, như vậy theo luật thì nhà máy này sẽ
được miễn 1 năm và được giảm 50% thuế thu nhập trong hai năm tiếp theo. Mà theo luật
thì doanh nghiệp có qui định “ Trong cùng một kỳ tính thuế nếu có một khoản thu nhập
thuộc diện áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi và miễn thuế, giảm thuế theo nhiều trường
hợp khác nhau thì cơ sở kinh doanh tự lựa chọn một trong những trường hợp ưu đãi thuế
TNDN có lợi nhất theo chế độ quy định ” như vậy doanh nghiệp phải tự mình xác định
xem tính theo trường hợp nào là có lợi nhất cho mình. Đây không phải là một việc dễ dàng
vì nhà máy mới xây dựng lại doanh nghiệp chưa thể biết doanh thu có cao hơn so với
doanh thu của 3 nhà máy cũ hay không, và tính theo trường hợp nào thì số thuế được giảm
sẽ lớn hơn. Nếu doanh nghiệp tính sai sẽ có hai trương hợp xẩy ra: 1) nếu số thuế được ưu
đãi thấp hơn so với thực tế doanh nghiệp được hưởng thì doanh nghiệp sẽ bị thiệt một
khoản. 2) nếu trường hợp doanh nghiệp tự khai là mình hưởng ưu đãi theo trường hợp đã
chọn cao hơn so với tính toán của cơ quan thuế thì doanh nghiệp sẽ bị phạt. Điều đó gây
cho doanh nghiệp một tâm lý lo sợ, nếu xác định sai thì hoặc mình bị thiệt hoặc mình sẽ
vào sổ đen của cở quan thuế vì tội nộp sai thuế.
- Sự lo sợ của doanh nghiệp khi làm việc với cơ quan thuế đã cản trở doanh nghiệp
yêu cầu quyền lợi của mình. Khi doanh nghiệp yêu cầu cơ quan thuế cho mình hưởng chế
độ ưu đãi thì cơ quan thuế sẽ cử người đến doanh nghiệp điều tra xem tình hình có đúng
như trong hồ sơ khai thuế không, mà điều đó thì bất cứ doanh nghiệp nào cũng không
muốn. Chính vì lo sợ như vậy mà nhiều doanh nghiệp đáng lý được hưởng ưu đãi nhưng lại
nhắm mắt bỏ qua để chọn sự an toàn theo như họ nghĩ. Vậy nguyên nhân từ đâu mà doanh
nghiệp có vẻ thờ ơ với chính sách ưu đãi thuế mà đáng lẽ chúng phải được các doanh
nghiệp vui vẻ đón nhận.
Tình hình cũng như thế tại quận Tân Bình, các doanh nghiệp vẫn còn tâm lý lo sợ
trước các vấn đề về thuế. Nhiều cơ sở sản xuất mới thành lập đáng lẽ được nhận ưu đãi
nhưng họ lại bỏ qua vì sợ dính vào cơ quan thuế nhiều và rất mất thời gian. Ví dụ như:
+ Trong năm 2005 số phát sinh tăng các cơ sở kinh doanh trong năm là 5.621
* Công ty, DN : 1.427
* Cá thể : 4.194
Trong đó số cơ sở sản xuất là 200 cơ sở sản xuất. Như vậy 200 cơ sở này sẽ có thể có
doanh thu vào năm 2006 và sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN vào năm 2006. Nhưng trên
thực tế chỉ có 16 cơ sở mà trong đó là có những doanh nghiệp đã ra đời vào năm 2004.
Như vậy là một con số quá ít các doanh nghiệp đăng kí hưởng ưu đãi thuế TNDN. Tỷ lệ
các doanh nghiệp hưởng ưu đãi chỉ chiếm dưới 8% trong số các doanh nghiệp đáng lẽ được
hưởng.
+ Tương tự như vậy số cơ sở phát sinh trong năm 2006 là 5.592
* Công ty, DN : 1.890
* Cá thể : 3.702
Trong đó số cơ sở sản xuất là 234, nhưng thực tế số cơ sở 18 cở sở trong đó đã có một
số cơ sở phát sinh trong năm 2005. Tỷ lệ các doanh nghiệp đã đăng kí hưởng dưới 7.69%.
Đây là một con số qua nhỏ. Vậy tại sao các doanh nghiệp là có thể nhắm mắt làm ngơ
trước một khoảng phí khá lớn mà doanh nghiệp có thể bớt được để tăng thêm thu nhập
hoặc có thể đưa khoảng phí này vào sản xuất kinh doanh. Như vậy là chính sách ưu đãi
thuế còn phức tạp hoặc chưa thật sự đủ mạnh để cuồn hút các cơ sở kinh doanh dám mạnh
dạng đăng kí để được nhận ưu đãi đúng theo luật qui định.
- Gần đây đã xuất hiện hiện tượng “cò ưu đãi thuế TNDN” chiếm dụng hàng tỷ đồng
của nhà nước. Như vụ việc ở Đồng Nai vừa rồi, từ vụ phát hiện và truy thu thuế thu nhập
doanh nghiệp (TNDN) ở Công ty Grobest - KCN Amata lên đến hàng chục tỷ đồng của
thanh tra thuế Đồng Nai đã hé lộ đường dây "chạy" miễn giảm thuế có liên quan đến Cục
thuế Đồng Nai lên tới Tổng cục thuế và Bộ Tài chính. Qua thu nhập thông tin và các tài
liệu chứng cứ, Cơ quan điều tra - Bộ Công an có nhận định đây sẽ là vụ án đặc biệt nghiêm
trọng có liên quan đến nhiều doanh nghiệp ở nhiều tỉnh, thành phía Nam với số tiền miễn,
giảm thuế lên đến hàng trăm tỷ đồng và Công ty "cò" làm dịch vụ này đã bỏ túi cả chục tỷ
đồng. Có thể nói rằng, một mình Công ty AACC sẽ không bao giờ làm được việc "cò"
miễn, giảm thuế TNDN cho các công ty 100% vốn ĐTNN nếu như không có sự "tiếp tay"
của một số quan chức trong ngành thuế và Bộ Tài chính. ( phụ lục 6 )
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
ƯU ĐÃI THUẾ TNDN Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
3.1 Định hướng về chính sách ưu đãi thuế TNDN đến năm 2020
3.1.1 Định hướng về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020
Mục tiêu và phương hướng tổng quát của nước ta trong việc phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2020 là:
3.1.1.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Thành phần: Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình
thức sở hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp
với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương.
- Vùng miền: Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên dành vốn
ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ
tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước
trong giai đoạn hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo. Chú trọng phát triển các vùng có tiềm
năng nhưng chưa được đầu tư thoả đáng. Khắc phục tình trạng đầu tư tập trung vào một số
vùng trọng điểm dẫn đến tình trạng quá tải trong khi các vùng khác thì lại vắng vẻ không được
đầu tư. Rà soát, bổ sung và nâng cao chất lượng quy hoạch, tiếp tục tổ chức thực hiện các định
hướng phát triển đô thị đến năm 2020, hình thành hệ thống đô thị phù hợp trên địa bàn cả
nước; đặc biệt chú trọng phát triển các đô thị vừa và nhỏ, hạn chế tập trung dân cư vào một số
ít thành phố lớn. Thực hiện các giải pháp đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là: đưa nhanh khoa học và công
nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; có chính sách đủ mạnh để khuyến khích phát triển
nhanh các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông thôn; tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn; tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc
và xây dựng nông thôn mới.
+ Ngành nghề, lĩnh vực:
Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm
chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng,
phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm
vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch.
Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh
sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp quốc phòng, góp phần xây dựng nền
tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế. Xây dựng và
thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở
rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như vận tải, thương mại, du lịch,
ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ
cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Trong sự phát triển
nhanh hơn của dịch vụ vận tải, cần tạo lập và phát triển mạnh dịch vụ vận tải đa phương thức
và dịch vụ hỗ trợ các phương thức vận tải.
Phát triển các dịch vụ pháp luật, kiểm toán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao; tăng số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ
việc làm, an sinh xã hội.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng là khâu
đột phá quan trọng để đưa tiến trình xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá - xã hội lên một bước
phát triển mới.
3.1.1.2 Phù hợp với tiến trình hội nhập
Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các
cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác.
Thực hiện các cam kết của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tích cực tham gia quá trình
xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN. Chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các
cam kết khi nước ta gia nhập WTO.
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia
và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng
cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để
khai thác lợi thế của đất nước và khắc phục những vướng mắc ảnh hưởng đến việc thu hút các
nguồn vốn quốc tế, như vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp dưới nhiều hình thức, tín
dụng thương mại và các nguồn vốn quốc tế khác.
3.1.2 Định hướng về chính sách ưu đãi thuế TNDN đến năm 2020
3.1.2.1 Chính sách ưu đãi thuế TNDN phải góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Trước hết ta cần xác định rõ vai trò của chính sách thuế TNDN: là công cụ quản lý
và điều tiết của Nhà nước, thuế TNDN phải góp phần vào việc khuyến khích phát triển sản
xuất, kinh doanh, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư phát triển. Đồng thời,
bao quát hết các khoản thu nhập trong các cơ sở kinh doanh, dịch vụ để đảm bảo mức tăng
số thu NSNN. Cùng với đó để thực hiện những phương hướng phát triển kinh tế tổng quát
của nước ta trong những năm tới chúng ta cần phải có những chính sách ưu đãi thuế thích
hợp nhằm hoàn thành được mục tiêu đề ra. Các định hướng về chính sách ưu đãi thuế
TNDN trong những năm sắp tới được đặt ra như sau:
- Tiếp tục ưu đãi đối với các vùng miền cần được khuyến khích đầu tư, những vùng
có tiềm năng phát triển tốt nhưng chưa được đầu tư nhiều. Bên cạnh đó, nhà nước cần đẩy
mạnh đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng hoặc khuyến khích các nhà đầu tư vào việc
xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Đẩy mạnh các ưu đãi đối với các hoạt động sản xuất nông nghiệp có công nghệ cao.
- Đẩy mạnh các ưu đãi trong những lĩnh vực trọng điểm mũi nhọn như giáo dục đào
tạo, y tế, thể thao, công nghệ cao, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của nhà nước.
- Mở rộng các ưu đãi đối với các ngành dịch vụ như du lịch, pháp luật, tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm nhằm góp phần phát huy tốt tiềm năng của nước ta.
3.1.2.2 Chính sách ưu đãi thuế TNDN phải phù hợp với các thông lệ, cam kết quốc
tế
Ngoài việc góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong bối cảnh hội nhập đòi
hỏi chính sách ưu đãi thuế TNDN phải phù hợp với các thông lệ, các cam kết quốc tế.
Muốn vậy:
- Tách biệt rõ giữa chính sách thuế và chính sách xã hội nhằm làm hiện đại thêm Luật
thuế của nước ta.
- Các vấn đề ưu đãi của Luật thuế TNDN liên quan đến hoạt động xuất khẩu phải phù
hợp với các quy định của WTO.
Lĩnh
vực/
chính
sách
CAM KẾT/YÊU CẦU
WTO
Cam kết/
Nguyên tắc/ Quy
định WTO
Thời hạn
thực hiện
cam kết
Thuế
TNDN
- Bỏ miễn giảm thuế
TNDN theo cơ chế ưu
đãi đầu tư khuyến
khích XK:
1. Thực hiện từ khi gia
nhập với các dự án mới
và tất cả các DN dệt
may.
2. Thực hiện 5 năm với
các dự án đã cấp phép.
Trợ cấp bị cấm - 11/1/2007
- 11/1/2012
- Trong thời gian tới, hệ thống chính sách thuế, đặc biệt các chính sách ưu đãi miễn
giảm thuế cần được tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung khắc phục tốt hơn những mặt còn
hạn chế, thiếu sót do chưa đồng bộ, chưa phù hợp với cơ chế thị trường, những điểm quy
định chưa chặt chẽ, tạo kẽ hở cho các tổ chức, cá nhân lợi dụng gian lận thuế, những qui
định ưu đãi quá phức tạp, khó thực hiện ... làm giảm hiệu quả của các biện pháp khích
thích lợi ích kinh tế.
- Luật cần có định hướng thay đổi 5 năm một lần và phải đi song song với 5 năm kế
hoạch của nước ta nhằm tạo cho các doanh nghiệp một sự chủ động trong việc lập kế hoạch
kinh doanh tránh trường hợp luật thay đổi gây thiệt hại nhiều cho doanh nghiệp.
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam thời
gian tới
3.2.1 Hoàn thiện chính sách
Muốn chính sách thuế TNDN của ta hiện nay được hoàn thiện hơn ta không thể chỉ
chú ý đến mỗi luật thuế TNDN bởi tất cả các luật liên quan đến kinh tế đều có quan hệ mật
thiết với nhau. Nếu thay đổi luật này mà không sửa đổi luật kia thì dễ dẫn đến sự chồng
chéo thậm chí là trái ngược nhau trong nhiều trường hợp. Luật thuế TNDN và luật đầu tư là
hai luật có quan hệ khá lớn với nhau vì những ngành, lĩnh vực, địa bàn qui định trong luật
đầu tư sẽ là những đối tượng được hưởng ưu đãi trong luật thuế TNDN. Chính vì thế để
hoàn thiện chính sách này hơn nữa ta không chỉ sửa đổi nội dung của ưu đãi mà còn phải
sửa đổi cả luật đầu tư.
3.2.1.1 Nội dung ưu đãi thuế TNDN
Để luật thuế TNDN cũng như chính sách ưu đãi thuế TNDN thể hiện được tốt vai trò
của mình đối với nền kinh tế cũng như đối với xã hội, chúnh ta cần xác định rõ vai trò
chính của chúng trong từng thời kì cũng như từng giai đoạn phát triển của đất nước và chỉ
chú tâm vào các vai trò chính này, không ôm đòn nhiều mục tiêu quá làm cho luật thuế
TNDN cũng như chính sách ưu đãi thuê TNDN trở nên quá phức tạp dàn trải và chồng
chéo với nhiều luật khác. Muốn vậy cần phải:
- Đơn giản hóa thủ tục cấp ưu đãi thuế TNDN. Nhưng đơn giản là để khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn khi được ưu đãi, tránh việc do thủ tục rắc rối không thu hút
được đầu tư, gọi là ưu đãi mà thực ra chẳng ưu đãi được gì. Điều đó không có nghĩa là
đơn giản đến mức dễ dãi, để các nhà đầu tư, các doanh nghiệp “xỏ mũi”. Thậm chí xuất
hiện một lo sợ rằng nếu đơn giản quá về thủ tục các doanh nghiệp sẽ đăng kí rất nhiều,
thậm chí chia nhỏ dự án đầu tư ra để đòi quyền ưu đãi thuế thu nhập. Như vậy thì các
doanh nghiệp sẽ mãi là vừa và nhỏ, không có sự đầu tư về chất xám công nghệ để nâng cao
tầm vóc của mình mà chỉ quanh quẩn với mấy dự án đầu tư bé nhỏ để chờ ưu đãi.
- Việc ưu đãi thuế đối với các KCN, khu kinh tế và các trường hợp đặc biệt khuyến
khích đầu tư vẫn được ưu đãi như trước, nhưng cách làm sẽ được minh bạch hơn. Các vấn
đề ưu đãi của Luật thuế TNDN liên quan đến hoạt động xuất khẩu, trái với quy định của
WTO cũng được bãi bỏ và sắp xếp lại cho phù hợp. Các khoản ưu đãi mang tính chất trợ
cấp xuất khẩu (ưu đãi bổ sung về thuế TNDN gắn với thành tích xuất khẩu, hoặc khuyến
khích sử dụng trong nước...) đều được bãi bỏ. Cần rà soát lại những nội dung về chính sách
ưu đãi trong thuế TNDN với các luật liên quan.
- Thực tiễn nước ta trong thời gian vừa qua cũng như kinh nghiệm của các nước cho
thấy: mặc dù chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam có mức ưu đãi hấp dẫn hơn so với nhiều
nước nhưng nếu như không sửa đổi để thu hút đầu tư có lựa chọn thì hiệu quả thu hút đầu
tư trong nước cũng như nước ngoài để khuyến khích phát triển nền kinh tế sẽ rất khó có thể
đạt được theo định hướng của Nhà nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong việc
hưởng ưu đãi đầu tư và thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tư nộp cần thiết phải nghiên cứu,
sửa đổi các quy định về ưu đãi thuế thu nhập DN đảm bảo tránh phức tạp và dàn trải theo
hướng: Có cơ chế ưu đãi minh bạch, thiết thực, phù hợp với xu thế chung về cải cách thuế
của các nước trên thế giới ; chuyển từ ưu đãi theo diện hẹp (miễn, giảm thuế) sang cơ chế
hạ mức thuế suất phổ thông. Do vậy, tôi hoàn toàn đồng tình với việc hạ thuế suất từ 28%
xuống 25% như quốc hội đã quyết định, cũng như những chính sách ưu đãi thuế TNDN
mới đã được thông qua và sẽ được ban hành vào đầu năm 2009 (xem phụ lục 5) để khuyến
khích cả nền kinh tế, đồng thời sắp xếp lại ưu đãi (miễn, giảm thuế) tập trung vào một số
lĩnh vực mũi nhọn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Các ưu đãi nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội như: miễn thuế cho phần thu nhập từ
hoạt động kinh doanh dành riêng cho người tàn tật, từ hoạt động dạy nghề dành riêng cho
người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng tệ nạn xã hội, từ hoạt động dạy
nghề cho người dân tộc thiểu số; giảm thuế cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là
người dân tộc thiểu số. Việc bỏ bớt các ưu đãi này sẽ giúp thực sự đơn giản, đồng thời,
tránh việc lợi dụng để trốn hoặc tránh thuế. Tất nhiên, cùng với việc thực hiện đề xuất này,
cần chuyển việc thực hiện chính sách ưu đãi, giúp đỡ các đối tượng này sang các hoạt động
khác của Nhà nước như chi ngân sách, tín dụng ưu đãi…
- Qua tham khảo các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy xu hướng gần đây
của các nước đã chuyển từ ưu đãi theo ngành sang ưu đãi theo diện rộng, khuyến khích
tổng thể nền kinh tế bằng chính sách điều tiết thuế TNDN hợp lý, thu hẹp phạm vi ngành
và chỉ tập trung cho rất ít ngành mũi nhọn và vùng đặc biệt khó khăn. Ví dụ, Trung Quốc
đã hạ thuế suất 33% xuống còn 25% đồng thời với việc xoá bỏ (theo lộ trình 5 năm) hầu
hết các ưu đãi thuế, kể cả ưu đãi đối với FDI đã cấp trước đây. Về lĩnh vực, Trung quốc chỉ
còn ưu tiên cho DN có công nghệ cao đồng thời là công nghệ mới nhưng họ dành ưu đãi
thuế cho các DN đầu tư vào các vùng tự trị và khó khăn ở phía Tây.
- Đồng thời theo kinh nghiệm quốc tế cho thấy các chính sách về ưu đãi đầu tư cần
phải: i) được lựa chọn ở mức độ vừa phải và được xây dựng một cách thận trọng; ii) dựa
trên cơ sở hiệu quả; iii) được thiết kế càng đơn giản và càng rõ ràng càng tốt; iv) việc thi
hành được dự trên các quy tắc chứ không dựa trên các quyết định mang tính tùy nghi; và v)
phải được thực thi một cách công bằng và minh bạch. Chính sách ưu đãi đầu tư của Việt
Nam cần phải hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng được được những tiêu chí này.
- Một trường hợp khác là tại một số tỉnh cũng xuất hiện một số hiện tượng “xé rào”
trong ưu đãi như Tỉnh Bình Định quy định: Dự án đầu tư trong lĩnh vực du lịch sẽ được
ngân sách tỉnh hỗ trợ 100% thuế TNDN những năm đầu thực hiện dự án, hỗ trợ 50% thuế
TNDN 3-30 năm; với dự án đầu tư nước ngoài: hỗ trợ 100% tiền thuê đất 3-30 năm. Bình
Thuận dùng ngân sách hỗ trợ tái đầu tư 50% thuế TNDN mà DN phải nộp trong 2-10 năm.
Tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Nghệ An, Thanh Hoá, Lào Cai, UBND tỉnh đều dùng ngân
sách hỗ trợ DN thông qua thuế TNDN. Theo các chuyên gia kinh tế, tình trạng “tiền trảm
hậu tấu” kiểu này diễn ra từ những năm 1999, đã được chấn chỉnh, nhưng vài năm gần đây
lại tái diễn. Xét cho cùng, những sự linh hoạt trên là cần thiết, bởi vì mỗi vùng, mỗi địa
phương trong nước ta có những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do đó, nếu cùng áp
dụng một nội dung ưu đãi như nhau sẽ gây nhiều khó khăn và thiếu công bằng trong việc
thực hiện thu hút đầu tư. Chính vì thế mà một số địa phương đã tự tạo ra hướng đi cho
mình nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Có linh hoạt trong ưu đãi thì mới thu
hút được đầu tư vào những vùng khó khăn. Còn những nơi có điều kiện tốt, ví như KCN
Quang Minh ( Tỉnh Vĩnh Phúc) thì thu thêm phí, DN vẫn đầu tư nhiều. Tuy nhiên, việc các
địa phương “xé rào” trong chính sách ưu đãi cũng đã thể hiện rõ một hiện trạng là thực tiễn
đã đi trước luật, chính sách luật hiện tại không đáp ứng được với nhu cầu cũng như thực
tiễn phát triển của kinh tế - xã hội.
Do vậy, trong thời gian tới nên nghiên cứu thí điểm phân cấp cho địa phương cấp tỉnh
trong việc định chính sách ưu đãi thuế TNDN trên cơ sở TW qui định sàn thuế suất ưu đãi;
thời hạn và mức ưu đãi tối đa.
Đây là một sự phát triển tất yếu khi mà các địa phương có nhu cầu tự mình chủ động
trong việc thu hút đầu tư chứ không ngồi chờ cấp trên đưa xuống hay các nhà đầu tư chủ
động tìm đến. Cũng như một số nước phát triển khác, chẳng hạn như nước Mỹ, tuy đã có
một bộ luật chung cho cả nước nhưng mỗi bang vẫn có những luật riêng của mình. Và các
bang này vừa áp dụng luật riêng của bang mình vừa áp dụng luật chung của cả nước. Tuy
nhiên, muốn phân cấp như vậy thì cần phải có một bộ máy nhà nước có trình độ quản lý rất
cao mới có thể hướng dẫn và kiểm soát được tình hình thực hiện. Với hiện trạng chất lượng
quản lý của bộ máy công quyền còn yếu, thêm vào đó là sự tùy tiện, lạm quyền của công
chức thì nếu không cẩn thận áp dụng có thể không những không thu hút được đàu tư mà
còn làm cho nhà đầu tư tránh xa vì thủ tục chồng chéo, luật không nhất quán, cán bộ hướng
dẫn thì không rõ ràng; hoặc dẫn đến tình trạng cạnh tranh giữa các địa phương dựa trên hạ
thuế suất ưu đãi và kéo dài thời gian ưu đãi làm ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế - xã hội.
Nhưng muốn đổi mới bộ máy công quyền đòi hỏi phải có thời gian khá dài và cần tới
những chính sách quyết liệt hơn.
3.2.1.2 Luật đầu tư
- Cần tạo sự thuận lợi, thông thoáng cho nhà đầu tư về các thủ tục đăng ký, thẩm tra,
tiền kiểm; các thủ tục còn phức tạp, đòi hỏi nhiều ở nhà đầu tư; thiếu các quy định chi tiết,
minh bạch ở những vấn đề cần thiết như trình tự, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước,
quyền khiếu nại của các nhà đầu tư, vấn đề hậu kiểm.
- Không coi công cụ chính để thu hút nhà đầu tư là các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, chỉ
nên xem các chính sách ưu đãi và hỗ trợ là một sự giúp đỡ đối với doanh nghiệp trong thời
kì đầu kinh doanh. Vì thực tế các doanh nghiệp, các nhà đầu tư hiện nay quan tâm nhiều
hơn đến môi trường đầu tư chứ không phải là được ưu đãi hay không, ưu đãi bao nhiêu và
như thế nào.
- Việc ưu đãi đầu tư cũng phải bảo đảm không trái với các điều cấm được quy định
trong các điều ước quốc tế và các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) mà
Việt Nam đã cam kết loại bỏ từ thời điểm gia nhập.
3.2.2 Về phía cơ quan quản lý thuế
- Cán bộ cơ quan thuế có một đặc điểm là phải luôn theo sát cơ sở sản xuất kinh
doanh mà họ được phân công quản lý, vì vậy mà nhất cử nhất động của doanh nghiệp nhân
viên phải nắm được. Đây là một việc không phải dễ dà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf