Đề tài Chức năng giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1; GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH

1.1 Gia đình

1.2 Giáo dục gia đình

CHƯƠNG 2: CHA MẸ - NGƯỜI GIỮ VỊ TRÍ TRUNG TÂM TRONG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH

2.1 Vai trò của người mẹ

2.2 Vai trò của người cha

CHƯƠNG 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH

3.1 Gia đình và giáo dục gia đình trong xã hội truyền thống

3.2 Gia đình và giáo dục gia đình hiện nay

KẾT LUẬN

1. Kết luận chung

2. Một số khyến nghị

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7375 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chức năng giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đI từ nhận thức, hiểu biết đến co tình cảm yêu ghét và trên cơ sở đó hành động . Đó là quy luật hành động của con người. Mọi hành động phải được chỉ huy bằng sự suy nghĩ mới sâu sắc, đúng đắn. + Hành động – nhận thức – tình cảm :Tiến trình này thường áp dụng đối với lứa tuổi còn quá bé, cha đủ khả năng nhận thức, tiếp thu các chuẩn mực đạo đức xã hội. Phương pháp này bắt đầu bằng việc trẻ em hành động, làm theo người lớn, sau đó dần dần thành thói quen và tới một độ tuổi nhất định mới hiểu được điềi hay, lẽ phải , điều đúng sai, trên cơ sở dó hình thành nên tình cảm: yêu cái tốt, cái đẹp, ghét cái xấu cái ác ... +Tình cảm – hành động – nhận thức :Qúa trình nay thường áp dụng đối với những con người lạc hậu, nặng tình nhẹ lý. Phương pháp này làm cho con người ta từ sự yêu ghét mà hành động và cuối cùng mới nhận thức ra việc đó, nhận thúc việc đó là cần phải làm hoặc không nên làm. Đối với mỗi đối tượng khác nhau, có thể vận dung từng tiến trình giáo dục khác nhau sao cho tiến trình giáo dục đạt được kết quả tốt nhát . Giáo dục gia đình là hình thức giáo dục đầu tiên , liên tục và suốt đời mỗi con người . Giáo dục gia đình ấn định vào các chuẩn mực và giá trị xã hội ( xã hội hoá ), cho việc phát triển năng lực hành vi cá nhân ( nhân cách hoá ) và sự truyền thụ các hệ thống biểu tợng ( tiếp thu văn hoá ). Giáo dục gia đình có các nội dung sau: giáo dục đạo đức, giáo dục văn hoá , giáo dục hớng nghiệp, giáo dục sức khoẻ , giáo dục giới tính ... nó là một bộ phận của giáo dục xã hội và chỉ diễn ra trong khuôn khổ quan hệ các gia đình. Về cơ bản, giáo dục gia đình là thống nhất với giáo dục xã hội ở quan điểm: xây dựng và hình thành mẫungười lý tởng vừa mang phong cách hiện đại, vừa đậm đà tính truyền thống. Giáo dục gia đình mang tinh đa dạng vì nó phối hợp nhiều mặt: từ kiến thức, tư tưởng đến đạo đức và quan hệ , nhưng đông thời nó lại thể hiện tính cá biệt ở đối tượng giáo dục là những đứa trẻ không ai giống ai. Giáo dục gia đình xuất phát từ tình cảm và các mô hình hành vi của người lớn để trở thành khuôn mẫu chuẩn mực để trẻ em học theo. Trong gia đình có một hệ thống các phơng pháp giáo dục, vừa kết hợp mềm dẻo giữa phương pháp truyền thống và hiện đại, gia uy quyền và tình thơng ; giữa cỡng ép bắt buộc với bao dung tự do... Tóm lại, giáo dục gia đình là một loại hình giáo dục mang tính hệ thống, có mục đích của những người lớn đối với những người ít tuổi hơn trong gia đình. Giáo dục gia đình bao gồm nhiều khâu, nhiều mắt xích nhằm xây dựng, chuẩn bị cho thế hệ trẻ những hành trang cần thiết khi bước vào cuộc sống như: học vấn , nhân cách , đạo đức...giúp cho cá nhân đứng vững và khẳng định được địa vị của bản thân trong xã hội. Vai trò của gia đình nói chung và giáo dục gia đình nói riêng trong xã hội là rất quan trọng vì nó anh hưởng tới các thiết chế khác như: đoàn thể, nhà trường, các tổ chức xã hội ...Gia đình là nơi đặt nền móng cho sự phát triển nhân các của trẻ và có ảnh hưởng lâu dài suốt cuộc đời cá nhân. Trong gia đình, cha mẹ giữ một vị trí quan trọng trong việc giáo dục con cái. Vai trò của người cha ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách, chí hướng của con cái đặc biệt là con trai.người mẹ có vai rò giáo dục tình cảm và sự khéo léo, đồng thời là tấm gơng sáng và đạo đức “ Công- Dung – Ngôn – Hạnh” để con gái hoc tập, tiếp thu những vốn sống, kinh nghiệm , biết là việc cho cá nhân và xã hội , đặc biệt là có ảnh hưởng đối với con gái . Ngược lại con cái cũng có vai trò tiếp thu những vốn sống , cách ứng xử , kinh nghiệm quý báu của cha mẹ để lại , cố gắng học hỏi, tiếp thu những kiến thức từ gia đình, phải biết kính trên nhường dưới ; trách nhiệm của người con trước hết là hiếu thảo với cha mẹ . Nó thể hiện thái độ biết ơn đối với những công lao to lớn của cha mẹ . Đó là thứ tình cảm thiêng liêng . Để đạt được sự bền vững , gia đình phải thực hiện các chức năng của nó . Chức năng của gia đình là sự đóng góp của nó vào sự tồn tại của hệ thống xã hội , có nghĩa là: gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển chính là do xứ mệnh đảm đương những chức năng xã hội ,tự nhiên trao cho mà không một thiết chế xã hội nào khác có thể thay thế được. Từ việc phân tích này, ta có thể rút ra những đặc trng trong chức năng giáo dục của gia đình nh sau: Đợc tiến hành đối với đứa trẻ ngay từ khi mới chào đời , với nhiều hình thức và nội dung phong phú . Được tiến hành trong quan hệ ruột thịt, đầy tình cảm thân thơng , trước hết là tình cảm sâu nặng của người mẹ . Được diễn ra trong sự tác động qua lại của các thành viên trong gia đình , trong bầu không khí ấm cúng . Giáo dục trong gia đình tác động lên cá nhân một tư cách nhẹ nhàng, ổn định . Sự tác động này diễn ra theo hai hớng: nếu trong gia đình hoà thuận, lành mạnh sẽ có khả năng điều chỉnh bản năng tự nhiên của đứa trẻ ; ngược lai trong các gia đình lục đục, không lành mạnh, không có văn hoá sẽ biến đứa trẻ thànhư con người không ổn định, những khiếm khuyết là đương nhiên . Chương2: CHA MẸ –NGƯỜI GIỮ VỊ TRÍ TRUNG TÂM TRONG GIA ĐÌNH “ Công cha như núi thái sơn Nghĩa mẹ nh nước trong nguồn chảy ra” Sự trưởng thành của mỗi cá nhân phải kể tới nền tảng gia đình và cái làm nên nền tảng gia đình, trước đó phải là cha mẹ. Câu tục ngữ từ bao đời nay giản dị , mộc mạc vậy thôi song đã nói lên được công lao trời biển của cha mẹ đối với con cái. Nói đến trách nhiệm làm cha, làm mẹ là nói đến thiên chức thiêng liêng, cao cả nhất của loài người , của mỗi con người. Khi sinh con phải có trách nhiệm nuôi dỡng, dạy dỗ con cái trưởng thành. Đồng thời, ngoài thiên chức ấy, cha mẹ còn có trách nhiệm nặng nề của một công dân đối với đất nước, dòng họ, gia đình và với chính bản thân mình . 2.1. Vai trò của người mẹ. Sau chín tháng mòi ngày mang nặng đẻ đau đứa bé cất tiếng khóc chào đời, bắt đầu hoà mình vào cuộc sống của gia đình gia đinh mà truớc tiên là người mẹ là người mang lại tình thương cho đúa trẻ. Sự thơng yêu đó được chuyển sang đứa trẻ bằng bế bồng, chuyển thành lời ru sự săn sóc lo lắng cho con cái, khi cho con bú, khi cho con ngủ đến bế bồng, đến mọi hành vi cử  chỉ của sự no đói khó chiu, dễ chịu khóc hờn cời đùa. Tình thương yêu đó vừa ân cần dịu dàng, vừa thông hiểu bằng trực giác và bàng cả cảm giác của người mẹ.Tình thương yêu đó vừa do bẩm sinh đồng thời do học tâp mà có. Chính vì vậy tình cảm sau này của đứa trẻ sẽ phụ thuộc rất nhiều vò tính chất của tình mẹ con được hình thành bởi người mẹ và ảnh hưởng đó sẽ duy trì mãi mãi trong tâm khảm người con khi đã trưởng thành. Ở cả phương Đông và phương Tây người ta đều quan niệm: một đứa trẻ không tự tồn tại; trẻ em không tự mình tạo dựng đựơc cuộc sống.Thế nên mới có câu:’’trẻ cậy cha...” Trẻ em cần có cha mẹ cần môi trường xã hội để phát triển vai trò của cha mẹ đặ biệt là của người mẹ phải mang tính chủ động. Trong thời kỳ đầu tiên này, mọi sự tác động của gia đình đều thông qua người mẹ mà có ảnh hưởng đối với đứa trẻ. Đứa trẻ sẽ nhận từ phía mẹ sự âu yếm, nâng niu trìu mến và những tình cảm này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tính cách cuả trẻ sau này. Nhiều công trình khoa học đẫ chứng minh rằng sự cách li giữa mẹ và con càng sớm, càng làm cho trẻ hụt hẫng về đời sống tình cảm dễ dẫn tới sự mất cân bằng trong đời sống tình cảm, dễ dẫn tới sự mất cân bằng trong đời sống tinh thần của trẻ, trẻ dễ nổi nóng, thiếu tình thơng. người mẹ không chỉ làngười đầu tiên đem lại tình thơng mà còn làngười thầy đầu tiên của đá trẻ. Những tiếng bi bô đầu tiên của đứa trẻ là kết quả của quá trình tiếp thu, là sự đáp lại sự âu yếm, thơng yêu của người mẹ. Mẹ làngười dạy cho con mọi hành vi ứng xử với các thành viên trong gia đìnhư: cô dì, chú bác, ông bà và hàng xóm. Nhân cách và cách ứng xử của mẹ đối với con ảnh hưởng tới đời sống tâm lý của con cái trong tơng lai. Mặt khác,ngời mẹ cũng là một thành viên của gia đình, cách xử của người mẹ đối với con phụ thuộc vào các mối quan hệ khác của ngơì mẹ tron vai trò g gia đình nhất là quan hệ với chồng. Nói tóm lại, những quan hệ đầu tiên của đứa bé bề ngoài chỉ chuyên với mẹ nhưng thực chất phần lớn lại phụ thuộc vào tất cả các mối quan hệ nội tại của gia đình ; đứa trẻ sẽ bắt chước mẹ trong cách c xử với mọingười sau đó mẹ sẽ dạy cho con nói, đi, ngồi, ăn uống,cùng hàng lọat hành vi lễ độ trong sinh hoạt hành ngày với mọingười xung quanh .Vì vậy đứa bé không chỉ bú bầu sữa sinh lý của người mẹ mà còn “ bú’’ luôn cả bầu sữa tâm hồn trí tụê của mẹ. Cho nên dân gian mới có câu: ” phúc đức tại mẫu”, “con h tại mẹ”, ”mẹ nào con nấy rau nào sâu nấy’’... 2.2.Vai trò của người cha. Trong mối quan hệ về vai trò giữa vai trò của người cha vàngười mẹ ta có thể thấy rằng vai trò của người mẹ sẽ từ đỉnh cao lúc trẻ mới sinh ra, vầ vai trò này sẽ giảm dần cùng với sự trơng thành của trẻ, ngược lại vai trò của người cha từ lúc rất bé nhỏ lúc trẻ mới sinh ra sẽ tăng dần khi trẻ lớn lên và đồng thời với sự giảm vai trò của người mẹ. Tới một lúc nào đó vai trò của cha mẹ sẽ đạt tới sự cân bằng. Vai trò của cha mẹ sẽ giảm dần cho tới khi đứa trẻ dạt mục tiêu mong muốn là sự tự lập hoàn toàn. Lúc đó giũa cha mẹ và con cái là mối quan hệ giữa người lớn với người lớn . Đứa trẻ trông mong tình yêu thơng ở người mẹ, còn ở người cha, trước tiên là uy quyền. Tình thương yêu của người mẹ và uy quền của cha là hai trong những nền tảng rất cần thiết cho đứa con giữ được thế cân bằng giữa “Cương” và “Nhu”. Tuy nhiên, cha cũng có tình thương yêu và mẹ cũng có uy quyền song với tỉ lệ ít hơn. Uy quyền và tình thương trong trường hợp này không có gì mâu thuẫn với nhau, trái lại, chúng hoà hợp với nhau, bổ sung cho nhau và đôi khi anh hưởng lẫn nhau. Uy quyền không phải là chuyên chế, áp bức. Michaux – một nhà Tâm lí học đã xác định điều đó nh sau:Hầu hết trẻ em thích được cảm thấy trên chúng có sự bảo vệ của một thứ uy quyền, nhung chúng thích cái đó ở mức độ vừa phải và công bằng. Vì trong thực tế cũng nh trong cuộc chơi, chúng ham thích kỷ luật quân đội có thứ bậc. Trẻ em luôn khinh ghét những người áp chế chúng và ghét cả những người bảo vệ yếu ớt làm cho chúng mất chỗ dựa mong muốn. Sau vai trò quyền uy làm chỗ dựa, người cha có vai trò thứ hai là hỗ trợ người mẹ. Trong thời kỳ đầu tiên của trẻ thơ, sự ứng xử của người cha và tác động của sự ứng xử đó tới trẻ cũng không quan trọng hơn những thành viên khác như: ông bà, anh chị em...Người cha có thể lộ rõ tác động của mình vào đứa bé một tư cách gián tiếp thông qua người vợ. Chính người cha yêu thương, săn sóc và săn sóc người vợ, làm cho người vợ hạnh phúc, an tâm...sẽ dành tình thương yêu lành mạnh cho đứa trẻ. Ngược lại,nếu do mâu thuẫn trong gia đình, người chồng đối xử lạnh nhạt hoặc đối xử thiếu sự yêu thương thì người vợ (người mẹ ) lúc nào cũng lo lắng, vất vả, sẽ không dành hết tình thương cho đứa trẻ, hoặc tâm trạng lo lắng qua biểu hiện của người mẹ sẽ tác động tới đứa trẻ. Như vậy, sự hỗ trợ của người cha đối với người mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục con cái có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ. Bên cạnh vai trò gián tiếp, người cha còn có sự tác đọng trực tiếp vào con cái để dạy dỗ con cái lên người. Thiếu vai trò này, người cha sẽ trở thành kẻ vô thách nhiệm . Uy quyền của người cha được thể hiện rõ bằng sự can thiệp trực tiếp, nó là yếu tố then chốt của sự hoà hợp gia đình, nhưng nó cũng đòi hỏi một sự điều chỉnh tế nhị. Uy quyền phải được kết hợp với độ lượng, bao dung thì tác dụng của nó đối với con trẻ sẽ đem lại hiệu quả tích cực hơn.người cha cần mang ánh sáng của trí tụê và kinh nghiệm của mình đến với con, Có như vậy mới tránh được những xung đột giữa cha và còn trong gia đình. Tóm lại, người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, làm nòng cốt và chỗ dựa vững chắc cho vợ cũng như con. Vai trò của người cha được cha ông ta khái quát trong câu tục ngữ :”Con có cha như nhà có nóc ’’, “ con không cha như nhà mất nóc ’’. Cha vừa là sức mạnh cơ bắp, vừa là sức mạnh tinh thần cho con an tâm vui sống, học tập... Nếu người cha nào bỏ mất vai trò này, con cái thường h hỏng hoặc khó khăn trên đường đời. Trong gia đình, bên cạnh vai trò của cha mẹ, đóng góp vào sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ còn phải kể đến vai trò của các thành viên khác, đó là:ông bà, anh chị em... Khi trẻ bắt đầu có khả năng nhận thức, thì vốn kinh nghiệm , nhất là qua những câu chuyện cổ tích của bà sẽ góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của trẻ, hình thành nên ở trẻ quan niệm về cái tốt cái đẹp; cái xấu, cái ác ...Đối với những trẻ không được sống ở gần ông bà hoặc ông bà đã mất thì đay chính là một thiệt thòi lớn trong quá trình hình thành nhân cách. Anh chị qua việc cung chơi đùa với trẻ, nên cũng góp phần hình thành tính cách của trẻ. Qúa trình nô đùa, học tập từ các anh, chị sẽ làm cho trẻ dễ hoà mình vào cộng đồng hơn., Như vậy, với tư cách là một cộng đồng, xã hội thu nhỏ, mỗi thành viên trong gia đình sẽ có tác động đến quá trình xã hội hoá cá nhân (con trẻ), trong đó cha mẹ là nền tảng của quá trình đó. Chơng 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH Gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội thu nhỏ, một phạm trù lịch sử, có tác động rất lớn tới xã hội. Đồng thời, sự biến đổi của các điều kiện kinh tế- xã hội-văn hoá cũng tác đọng mạnh mẽ, sâu sắc tới thiết chế gia đình, Gia đình là một hệ thống các vai trò, chức năng và ở từng thời kỳ lịch sử, mỗi nền văn hoá mà chức năng này hay chức năng khác của gia đình trở nên quan trọng hơn. 3.1.Giáo dục gia đình trong gia đình truyền thống. Gia đình truyền thống với nền tảng kinh tế chủ yếu là hoạt động sản xuất nông nghiệp; hoạt động sản xuất của gia đình chủ yếu là gắn với công việc đồng áng và các nghề thủ công, nên sinh hoạt trong gia đình đa phần là tự cấp, tự túc. Tài sản trong gia đình nông nghiệp là tài sản chung của cả gia đình, bởi vậy mà nền kinh tế trong gia đình khá ổn định, xã hội vì thế mà cũng ít có những biến động, xáo trộn. Gia đình Việt Nam truyền thống chiếm tỉ lệ khá lớn là kiểu gia đình mở rộng- bao gồm nhiều thế hệ cùng chung sống: ba thế hệ (ông bà, cha mẹ- tam đại đồng đường), thậm chí có tới bốn thế hệ cùng chung sống (tứ đại đồng đường). Nền sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đòi hỏi cần nhiều lao động, nên các gia đình thường sinh đông con, thậm chí còn tồn tại quan niệm, cho rằng: lắm con hơn nhiều của. Đi cùng với gia đình truyền thống là nền văn hoá nho học với tính gia trưởng ăn sâu vào trong cung cách sinh hoạt trong các gia đình. Quyền lực trong gia đình hoàn toàn thuộc về người chồng, người cha; các thành viên trong gia đình suy nghĩ và hành động theo vị trí trên dưới đã được ấn định sẵn. Những đặc điểm trên đã ảnh tói chức năng giáo dục của gia đình. Việc giáo dục con cái được thực hiện ngay trong lòng gia đình cả về mặt đạo đức, nghề nghiệp và cả mặt tri thức. Trong gia đình có rất đông các thành viên với những mỗi quan hệ phức tạp (mẹ chồng nàng dâu, bà cô ông chú...) đã ảnh hưởng không nhỏ tới chức năng giáo dục của gia đình. Cha mẹ vì sinh nhiều con nên không có đủ điều kiện để chăm sóc, dạy bảo chu đáo đối với con cái. Ngược lại người con phải nắm giữ đúng các vai trò của mình. Từ rất sớm , người con phải tham gia vào các công việc của gia đình, nên tuổi thiếu niên của chúng không kéo dài được bao lâu. Công việc thay thế các trò chơi dần già trẻ em chia tay vơí tuổi thơ và bước vào thế giới của người trưởng thành. Tính gia trưởng trong gia đình thể hiện ở chỗ: người chồng , người cha có uy quyền rất lớn, họ làngười chủ của gia đình, có quyền quyết định tất cả các công việc từ “To” tới “ Nhỏ” trong gia đình nh :sản xuất, sinhư con , dựng vợ gả chồng cho con... Giáo dục trong gia đình theo kiểu” cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, quan hệ giữa cha mẹ và con cái thể hiện sự phục tùng tuyệt đối. Phương pháp giáo dục là buộc phải tuân theo, phải chấp hành chứ không được tranh luận, phân tích đúng sai. Các đối tượng giáo dục là các cá nhân hoàn toàn phụ thuộc, chỉ biết vâng lời . Đối với trẻ em, đường lối giáo dục đó không giúp cho việc hình thành nhân cách độc lập mà trở thành một con người thụ động chỉ biết vâng lời và bắt chước một tư cách mù quáng, không cần biết đến lý do, không cần đến giả thích. Giáo dục của cha mẹ đối với con cái trong gia đình truyền thống chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng:’’ Trọng nam khinh nữ”. Khi đã có con, cha mẹ đối xử, dạy dỗ con giá khác với con trai: con trai sẽ được chăm sóc tốt hơn, được chiều chuộng hơn và có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn chị em gái, được dạy dỗ nhằm vào những thăng tiến xã hội sau; trong khi đó con gái có phần“ yếu thế ” hơn , được dạy dỗ những đức tính đảm đang, quán xuyến việc nhà, ngoan ngoãn vâng lời, chịu nhịn ...Trong các đức tínhư: giỏi việc nhà và tính tích cực xã hội , thì xã hội truyền thống quan niệm rằng : giỏi việc nhà là đức tính cần thiết đối với nữ và không cần thiết đối với nam; ngược lại tính tích cực xã hội ở nam là cần thiết nhưng ở nữ lại không quan trọng . Chính cách quan niệm như vậy đã phần nào thể hiện sự chậm biến đổi của các giá trị của xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác và sự tái tạo lại nó trong gia đình là khá nguyên vẹn .Nguyện vọng của cha mẹ đối với con cái cũng mang tính chất hớng ngoại đối với con trai và hớng nội đối với con gái. Đa số cha mẹ mong muốn con trai thoát li khỏi nông nghiệp trong khi phần lớn lại muốn co gái làm nông nghiệp. Tóm lại, trong quan niệm về nghề nghiệp, cha mẹ thường “nhắm” cho con trai những nghề nghiệp có uy tín hơn con giá . Tư tưởng “Trọng nam khinh nữ”, còn được thể hiện ở chỗ: con trai được u đãi và có nhiều cơ hội sử dụng phúc lợi gia đình hơn, đặc biệt là khi gia đình phải lựa chọn do chỉ có khả năng thanh toán cho nhu cầu của của con trai hoặc con gái (ví dụ: trong chuyện học hành... ) thì thường con gái phải chịu thiệt thòi. Tóm lại, gia đình trong xã hội nông nghiệp là kiểu gia đình với nhưng thành viên đã thấm nhuần những truyền thống của đa số. Tuy vậy, giáo dục trong gia đình truyền thống cũng chứa đựng nhiều yếu tố tích cực. Do sống quây quần gồm nhiều thành viên của các thế hệ, nên các thành viên trong gia đình có sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau một tư cách mật thiết. Đặc biệt trẻ em trong gia đình truyền thống được thừa hưởng những giá trị phong phú của đời sống tinh thần( nhất là của bà của mẹ), làm nên sự phong phú trong đời sống tinh thần của trẻ. Gia đình và giáo dục gia đình hiện nay Có thể nói , một xã hội với đặc trưng cơ bản là nông thôn nông nghiệp và nông dân đã từng trải qua hàng ngàn năm tồn tại , đã bảo lưu và truyền lại cho gia đình nói chung và giáo dục gia đình nói riêng hệ giá trị và chuẩn mực khó phai nhạt theo thời gian năm tháng . Những giá trị của gia đình, giáo dục gia đình trong xã hội truyền thống được kế thừa và phát huy trong những điều kiện mới để tạo nên sắc thái của gia đình ngày nay. Công cuộc đổi mới được bắt đầu từ năm 1986 nhằm khắc phục những hậu quả của khủng hoảng kinh tế- xã hội , đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng, đạt được thành tựu trên các lĩnh vực... Để thực hiện quyết tâm đó , đảng và nhà nước đã chủ chương xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung , bao cấp, thay vào đó là việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hôị chủ nghĩa , đẩy mạnh thành một nước công nghệ phát triển .Nằm trong sự biến đổi đó, gia đình và giáo dục gia đình có sự thay đổi đáng kể :Gia đình như một nhóm gắn liền ,bị bung ra và cùng với những thay đổi tích cực, cơ chế thị trường với những yếu tố tiêu cực đã xâm nhập làm suy giảm một số chức năng của vai trò củat gia đình. Một tư cách tổng quan, gia đình việt nam hiện nay có những đặc điểm chính sau: + Về quy mô gia đình : Gia đình hạt nhân ( gồm cha mẹ và con cái ) chiếm tỉ lệ cao và ngày càng phổ biến + Xưa kia ở việt nam, ly hôn là hiếm thì ngày nay xảy ra ngày càng nhiều và để lại nhiều hậu qủa nghiêm trọng. + Kinh tế gia đình phát triển đã góp phần nâng cao đời sống vật chất cho các thành viên . Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng đã làm cho sự phân hoá về mặt kinh tế giữa các gia đình ngày càng tăng lên : Nhiều gia đình trở nên khá giả, giàu có song bên cạnh đó cũng có nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Sự tác động của kinh tế - xã hội tới giáo dục gia đình diễn ra theo chiều hướng Thứ nhất: Sự phát triển của kinh tế – xã hội đã tạo ra tiềm lực kinh tế cho các gia đình.Sự hưởng thụ về vật chất khèm theo đó là tinh thần của con người được nâng cao rõ rệt .Sự cải thiện nay được thể hiện trên một loại chỉ tiêu :Sức khoẻ tuổi thọ của người dân được nâng cao .Hiện nay tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam là 68 tuổi ,là khá cao so với các nước trong khu vực; Hệ thống dịch vụ phụ vụ các nhu cầu vui chơi ,giải trí phát triển rộng khắp ; Giáo dục từ phổ thông đến Đại Học ,trung học chuyên nghiệp phát triển. Hiện nay tỉ lệ dân số >95%- là một trong số những nước có tỉ lệ dân biết chữ cao nhất ở khu vực Đông Nam á cùng với sụ thay đổi đó, giáo dục gia đình có nhiều biến triển tốt : Điều kiện vật chất ngày càng được cải thiện phải cha cha mẹ có điều kiện chăm sóc con cái, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của con cái cha mẹ có điều kiện không chỉ nuôi nấng giáo dưỡng, dạy bảo lễ nghĩa mà còn đóng vai trò làm thầy cô giáo ở nhà, kèm cặp con cái cả về thời gian lẫn nội dung học tập . Trong thời đại ngày nay mỗi gia đình thường chỉ có một đến hai con nên có điều kiện chăm sóc nuôi dạy con cái một tư cách toàn diện hơn họ quan tâm đặc biệt về giáo dục con cái thành người trưởng thành. Nếu như trước đây ,việc cho con cái đi học ( nhất là các bậc học cao) quả là một vấn đề khó khăn đôi khi không thể vượt qua đặc biệt là các gia đình nông thôn nhưng ngày nay điều kiện học hành đã được phổ cập và bình đẳng với tất cả mọi người .Thêm vào đó, mục tiêu của việc đạt được học vấn cao là rất rõ ràng nó không chỉ việc thuận lợi cho việc tìm kiếm công ăn việc làm mà còn thoả mãn được một giá trị xã hội- hy vọng có một vị trí xã hội nhất định sau nay. Do đó các gia đình đều đặt sự quan tâm của cả hai vợ chồng về sự học hành của con cái họ. Như vậy điều đó thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của các bậc cha mẹ về giáo dục con cái ,giáo dục gia đình đã có sự gắn bó với giáo dục nhà trường và xã hội .Giáo dục gia đình tạo nền tảng cho giáo dục nhà trưòng và xã hội hình thành nên một xã hội học tập đưa nước ta nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Cũng về nhận thức của cha mẹ trong quan điểm giáo dục đối sử với con trai con gái trong việc giáo dục dạy bảo định hướng học tập nghệ nghiệp cũng có sự thay đổi .Có thể nói rằng trong điều kiện kinh tế xã hội trước đây do ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam khinh nữ “việc đầu tư cho học hành chỉ dành riêng cho con trai, con con gái phải chịu thiệt thòi và phải chấp nhận việc đối sử không công bằng; thì giờ đây thái độ ứng sử về vấn đề này đã được thay đổi. Con trai và con gái đêù được bố mẹ tạo điều kiện cho học tập miễn sao là chăn chỉ học tập và tỏ ra có triển vọng học tập tôt sẽ được gia đình thu vén để đầu tư. Bảng: Tự định cấp- bậc học cho con tỉ lệ phần trăm cho đối tượng dự định : Dự định Đối tượng Cấp-bậc học Cấp III Đaị học Với con trai 34,9% 57,7% Với con gái 31,3% 53,6% Không phân biệt trai –gái 27,9% 64,9% (nguồn khảo sát xã hội học của khoa xã hội học, tâm lý học “biến đổi của gia đình nông thôn đồng bằng sông hồng trong thời ky đổi mới” 6/1995- tại một số địa phương tỉnh Nam Hà) Biến đổi cơ cấu nghề nghiệp và tác đọng của nó đến quan hệ giới trong gia đình nông thôn( Lê Thái Thị Bằng Tâm ĐHKHXH&NV) tr.34 Điều đó đã cho thấy nhận thức các nhóm gia đình trong việc giáo dục con cái trở thành người thành đạt. Định hướng nghề nghiệp trong tương lai cho con cái , nhất là cho con gái đang phản ánh sự chuyển biến của hệ giá trị chuẩn mực hiện nay của các gia đình nông thôn đó là thoát ly khỏi nông nghiệp và nông thôn Qua điều tra 300 sinh viên của trường Đại Học Khoa Học Xa Hội Nhân Văn - Đai Học Quốc Gia Hà Nội. Cho thấy có tới gần 100% số sinh viên nữ được hỏi cho rằng: mình vào Đại Học là tự nghuyện (trong đó có sự định hướng của bố mẹ) , được gia đình khuyến khích thi vào và tạo điều kiện để học tập tốt . Điều đó một lần nữa cho thấy nhận thức đứng đắn của cha mẹ trong định hướng nghề nghiệp tương lai cho con cái không kể là nam hay nữ . Thư hai: Tuy vậy kinh tế thị trường với đặc trưng chuyển Từ nền kinh tế nông nghiệp sang cơ chế nhiều thành phần đã kéo theo một loạt sự biến đổi cơ cấu kinh tế – xã hội – văn hoá . Do đó đã dẫn đến sự thay đổi nhanh về cấu trúc và chức năngcủa gia đình. Sự thay đổi đó đôi khi phải thực hiện ngay trong một thế hệ, Sự đòi hỏi này đòi hỏi phải có sự thích nghi tuy nhiên không phải lúc nào người ta cũng có thể đạt ngay được . Chính môi trường của thế giới hiện đại đã tạo ra bối cảnh cho sự giáo dục các trẻ em . Trong nền kinh tế thị trường , chức năng kinh tế của gia đình đã thu hút sự chú ý của nhiều thành viên, do vậy mà có sự suy giảm ở các chức năng khác trong gia đình cha mẹ phải lao vào công việc đẻ đảm bảo cho các nhu cầu của gia đình thậm chí là làm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXHH01 (8).doc
Tài liệu liên quan