PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do làm đề tài.
2. Ý nghĩa.
3. Phân tích đối tượng và phạm vi, mục đích để nghiên cứu.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.
1. 1 Khái quát chungvề Tài phán hành chính và vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền.
1. 1. 1 Khái niệm Tài phán hành chính.
1. 1. 1. 1 Khái niệm Tài phán .
1. 1. 1. 2 Khái niệm Tài phán hành chính.
1. 1. 2 Vai trò và vị trí của Tài phán trong bộ máy Nhà nước.
1. 2 Một số cơ quan Tài phán hành chính trên Thế giới.
1. 2. 1. 1 Hệ thống Tài phán hành chính Anh - Mỹ.
1. 2. 1. 2 Hệ thống Tài phán hành chính Pháp.
1. 2. 2 Tổ chức cơ quan Tài phán hành chính ở một số nước trên thế giớí.
1. 2. 3 Quan điểm về Tài phán hành chính ở các nước XHCN
1. 2. 3. 1 Nhà nước thống nhất phân công quyền lực giữa quyền lập pháp hành pháp tư pháp .
1. 2. 3. 2 Thiết lập Tài phán hành chính , một thiết chế quan trọngtrong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền.
1. 3 Nghành Tài phán hành chính ở Việt nam.
1. 3. 1 Khiếu nại tố cáo và thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt nam.
1. 3. 2 Việc thiết lập cơ quan Tài phán hành chính:
CHƯƠNG II: CƠ CẤU, TỔ CHỨC VÀ ĐỐI TƯỢNG, THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.
- Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Tài phán hành chính.
- Tổ chức hoạt động của toà án tối cao ở Việt nam.
+ Cấp quận huyện.
+ Cấp thành phố.
+ Cấp Toà án tối cao.
- Thẩm quyền xét xử.
- Các giai đoạn, thủ tục về toà án hành chính.
CHƯƠNG III. NHỮNG VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM.
+ Nêu mở rộng một số thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo
+ Hoàn thiện Pháp luật hành chính
+ Kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ thẩm phán hành chính
+ Cải cánh cách thức tổ chức xét xử hành chính
60 trang |
Chia sẻ: Huong.duong | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ cấu, tổ chức và đối tượng, thẩm quyền của cơ quan tài phán hành chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định. Hai yếu tố này đan xen, thẩm thấu vào nhau không nên đặt chúng một cách biệt lập, đó là hai mặt của một vấn đề mâu thuẫn nhưng thống nhất, cùng xác định trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong giải quyết khiếu nại tố cáo.
a). Thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước trong giải quyết khiếu nại
- Chủ tịch uỷ ban Nhân dân xã, phường thị trấn ( gọi chung là cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc uy bản Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuốc tỉnh ( gọi chung là cấp huyện ) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp ( Điều 19 Luật khiếu nại tố cáo ).
- Chủ tịch uỷ ban cấp huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình và giải quyết khiếu nại mà chủ tịch uỷ ban Nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại ( Điều 20 Luật khiếu nại tố cáo).
- Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương có thẩm quyết giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp.
-Giám đốc sở và cấp tương đương trực thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình trực tiếp quản lý và giải quyết khiếu nại mà thủ trưởng cơ quan thuộc sở hoặc cấp tương đương giải quyết nhưng còn có khiếu nại ( Điều 22 Luật khiếu nại, tố cáo ).
- Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp. ( Điều 24 Luật Khiếu nại, tố cáo ).
- Thẩm quyền của thủ tướng chính phủ trong giải quyết khiếu nại.
Thủ tướng chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Với tư cách đó thủ tướng chính phủ có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo quản lý hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước nhằm đảm bảo cho các quy định của Pháp luật được thi hành thống nhất từ TW đến địa phương. Theo Hiến pháp 1992 và luật tổ chức chính phủ còn quy định trách nhiệm của thủ tướng chính phủ trong việc tổ chức và chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại , tố cáo. trên cơ sở quy định này, luật khiếu nại tố cáo năm 1998 đã quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ tướng chính phủ tại điều 28 như sau:
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với:
Khiếu nại mà Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;
Khiếu nại đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực quản lý Nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm Pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
b) thẩm quyền và trách nhiệm của tổ chức thanh tra Nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp giải quyết những khiếu nại của thủ trưởng cùng cấp.
- Giải quyết các khiếu nại mà cấp dưới trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp đã giải quyết nhưng còn khiếu nại.
- Kháng nghị các quyết định, khiếu nại của tổ chức thanh tra cấp dưới trực tiếp khi phát hiện vi phạm pháp luật.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 1999 Các tổ chức thanh tra Nhà nước đã giúp lãnh đạo cùng tiếp nhận, phân loại và xử lý 180. 92 vụ việc gồm 152. 825 khiếu nại, 25. 909 tố cáo, 1785 kiến nghị phản ánh. Riêng cơ quan thanh tra Nhà nước tiếp nhận xử lý 31. 292 đơn thư vượt cấp lên trung ương trong đó có 12. 774 vụ việc đủ điều kiện xem xét gồm 10. 041 khiếu nại và 945 tố cáo, 1. 042 kiến nghị và 716 phản ánh.
Theo báo cáo của nghành thanh tra. Năm 2000 cơ quan hành chính đã thụ lý 204. 436 vụ thuộc thẩm quyền trong đó có 168. 741 khiếu nại và 35. 695 tố cáo. Tổng số vụ khiếu lại tố cáo tăng 13% so với năm 1999, các cơ quan hành chính Nhà nước cũng đã xử lý kỷ luật hàng trăm cán bộ công chức có sai phạm và một số vụ việc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự (Thanh tra Nhà nước, báo cáo tổng kế năm 2000). Tình hình khiếu nại chủ yếu tập trung vào các vấn đề đất đai, nhà cửa, giải phóng mặt bằng, các chính sách xã hội, việc làm. . .
Gần đây tình hình khiếu nại, tố cáo tiếp tục gia tăng, có biểu hiện không bình thường, có nhiều đoàn đông người ở địa phương lên trung ương, đến nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nơi hội họp khiếu nại với thái độ gay gắt. một số người ở nhiều cơ sở khác nhau, tổ chức liên kết với nhau để kéo đi khiếu kiện.
Trước tình hình khiếu kiện diễn biến như trên, thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991; Nghị quyết Trung Ương 8 Khoá VII; Nghị Trung Ương 3 khoá VIII; chỉ thị 21/CT-TW ngày 10/10/1997 của Bộ Chính trị, chính phủ đã ra nhiều chủ trương và tập trung chỉ đạo các cấp các nghành xem xét giải quyết vừa khẩn trương vừa thận trọng, nhất là những vụ khiếu kiện đông người, phức tạp; đã ban hành Nghị định 38/HĐBT ngày 28/2/1992 hướng dân thi hành Pháp lệnh khiếu nại tố cáo; Nghị định 89/CP ngày 7/8/1997 về Quy chế tổ chức tiếp công dân; Chỉ thị 18/TTg ngày 15/1/1993; Chỉ thị 64/TTg ngày 25/1/1995 của Thủ tướng chính phủ về tập trung xử lý giải quyết khiếu kiện đông người và chấn chỉnh việc huy động đóng góp của Nhân dân ; Đặc biệt Thủ tướng Chính phủ đã có các quyết định số 84/QĐ-TTg ngày 01/09/2000 và 1064/QĐ- TTg ngày 25/10/2000 về thành lập các đoàn công tác, liên nghành trung ương để tập trung giải quyết, xử lý các vụ khiếu nại tố cáo phức tạp tồn đọng kéo dài ở các địa phương.
Đồng thời, Chính phủ cũng tập trung giải quyết khiếu nại, tố cáo, xin ý kiến Bộ Chính trị, trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành như: Pháp lệnh chống tham nhũng, pháp lệnh thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, pháp lệnh về cán bộ, công chức, Luật khiếu nại, tố cáo, Nghị quyết 58 của UBTVQH về giao dịch dân sự về nhà ở trước 1/7/1991. Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn thực hiện các văn bản Pháp luật trên.
những văn bản Pháp luật này đã và đang phát huy hiệu quả để chấn chỉnh và tăng cường quản lý xã hội, làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Với sự tập trung chỉ đạo của chính phủ, sự kiểm tra, giám sát cảu Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội, các cấp, các nghành, có sự phối hợp của các đoàn thể từ Trung Ương đến địa phương, đã nhận thức được đẩy đủ hơn về trách nhiệm quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. nhiều nơi coi nhiệm vụ giải quyết khiếu kiện của Nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm không những của chính quyền các cấp mà còn là nhiệm vụ quan trọng của cấp uỷ, những điểm nóng hoặc điểm có nhiều diễn biến phức tạp đã huy động lực lượng mà tổ chức thanh tra làm nòng cốt trong việc tiến hành thanh tra để kết luận rõ đúng sai nhiều vụ khiếu kiện phức tạp đông người . Đến nay, nhiều vụ việc đã thanh tra, kiểm tra có kết luận và xử lý, công bố công khai, được Đảng bộ cơ sở và đại bộ phận Nhân dân đồng tình, nhiều điểm nóng cũ được giải quyết và có tác dụng ngăn ngừa, hạn chế được “điểm nóng” mới phát sinh.
Từ nhu cầu thực tiễn khiếu nại tố cáongày 21/5/1996 UBTVQH đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và chủ tịch nước đã công bố theo pháp lệnh 49 L/CTN ngày 3/6/1996. Đây là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm giải quyết các vụ án hành chính kịp thời, đúng Pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan Nhà nước và tổ chức góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước.
từ ngày 1/7/1996 toà hành chính trong hệ thống toà án Nhân dân đã bắt đầu hoạt động. Để đảm bảo sự công bằng giữa cơ quan Nhà nước và công dân khi xảy ra các chanh chấp đáp ứng nhu cầu giải quyết khiếu nại của công dân kịp thời, đúng Pháp luật.
Tuy nhiên vấn đề khiếu nại, tố cáo của công dân ở các địa phương tổ chức vẫn đang có chiều hướng gia tăng đáng lưu ý là tình trạng khiếu kiện đổi hướng phức tạp kéo dài trong nhiều năm. việc thiết lập thể chế Tài phán hành chính góp phần cực kỳ quan trọng trong việc loại bỏ dần các hoạt động cộng vụ vi phạm Pháp luật gây thiệt hại cho XH, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. . . tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền thực sự của dân do dân vì dân.
Các cơ quan hành chính thực thi nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo vừa kém hiệu quả, thiếu khách quan. Chính vì vậy vừa xác lập thẩm quyền xét xử hành chính của TAND là một thiết chế đối ứng với cơ quan hành chính Nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, đảm bảo cho việc giải quyết một cách khách quan, đúng Pháp luật.
Kết Luận Chương I
Tài phán hành chính là việc trong toà án, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, nhân danh quyền lực của Nhà nước, tiến hành xem xét, đánh giá phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp và tính đúng đắn của quyền quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện theo trình tự, thủ tục do Pháp luật quy định nhằm bảo vệ, quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
a. Pháp luật về khiếu nại tố cáo là tổng thể các quy phạm Pháp luật quy định về quyền khiếu nại tố cáo, nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo. Phần lớn Pháp luật về khiếu nại, tố cáo có tính chất hành chính trừ những khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực tư pháp. vì vậy có thể chia Pháp luật về khiếu nại tố cáo thành 2 bộ phận chính là Pháp luật về khiếu nại tố cáo hành chính và Pháp luật về khiếu nại tố cáo tư pháp.
b. Tài phán hành chính là một nội dung quan trọng trong tổ chức và hoạt động xét xử của TAND, liên quan đến quản lý hành chính Nhà nước.
c. Tài phán hành chính là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính và với chức năng kiểm tra bảo vệ quyền lợi của công dân và công chức, viên chức Nhà nước trước những hoạt động của các cơ quan và các nhà chức trách hành chính. Đó là phương thức tránh các hiện tượng làm quyền , lộng quyền, loại trừ những tiêu cực cửa quyền trong bộ máy Nhà nước.
Mục đích xây dựng một Nhà nước pháp quyền, trong sạch, năng động có hiệu quả cao cho Nhân dân .
Chương II.
Cơ cấu tổ chức, đối tượng, thẩm quyền và thực trạng giải quyết tài phán hành chính ở Việt nam.
2. 1 Cơ cấu tổ chức, đối tượng, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính.
2. 1. 1 Cơ cấu tổ chức Tài phán hành chính ở Việt nam.
ở nước ta hiện nay cơ quan xét xử hành chính không tổ chức thành toà hành chính độc lập mà là các toà chuyên trách trong hệ thống TAND. Tại Điều 1 Luật Tổ chức TAND - 2002 có quy định: “ TANDTC, các TAND địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước chxhcnvn.
Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự , hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của Pháp luật. ”
Như vậy, xét xử hành chính do TAND các cấp sau thực hiện:
Toà án Nhân dân tối cao.
Toà án Nhân dân cấp tỉnh.
Toà án Nhân dân cấp huyện.
2. 1. 1. 1. Cơ cấu tổ chức xét xử hành chính TANDTC.
Toà án Nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước chxhcnvn theo Khoản 2 Điều 18 Luật Tổ chức TAND, có cơ cấu tổ chức xét xử hành chính TANDTC như sau:
Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Toà phúc thẩm TANDTC.
Toà hành chính TANDTC.
TANDTC có chức năng xét xử những vụ án hành chính theo quy định của Pháp luật thẩm quyền được quy định như sau:
- Hội đồng thẩm phán TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm. Có thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực Pháp luật của TA phúc thẩm, toà hành chính TANDTC khi bị kháng nghị ( Điểm a Khoản 1 Điều 22 Luật Tổ chức Toà án Nhân dân ).
2. 1. Đối tượng của Tài phán hành chính.
2. 1. 1. Quyết định hành chính.
Dưới góc độ của luật tố tụng hành chính và nghành khoa học luật tố tụng hành chính, quyết định hành chính có khái niệm khác với khái niệm quyết định hành chính theo luật hành chính. Ngay cả những nước có luật hành chính phát triển như: Pháp, CHLB Đức. . coi luật tố tụng hành chính chỉ là bộ phận của luật hành chính thì khái niệm quyết định hành chính theo tố tụng hành chính vẫn có sự phân biệt với khái niệm quyết định hành chính theo luật hành chính. .
Nhìn chung trên TG, khái niệm quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính giữa các nước không đồng nhất với nhau tuỳ thuộc vào tính chất nền Tài phán và đặc biệt là đối tượng xét xử của quyền Tài phán mà các nước có quna niệm quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính tương ứng với phạm vi và đặc tính của đối tượng đó. Như ở Pháp quyết định hành chính thuộc đối tượng xét xử hành chính không chỉ là các quyết định hành chính quy phạm.
Có nước chỉ coi quyết định hành chính trong tố tụng hành chính bằng hành động. Nhưng cũng có nước xem xét quyết định hành chính tuỳ thuộc đối tượng xét xử hành chính chỉ là những quyết định hành chính cá biệt bằng văn bản, thậm chí chỉ một số quyết định hành chính trong một số lĩnh vực nhất định chứ không phải trong mọi lĩnh vực của hoạt động tư pháp.
Theo luật tố tụng hành chính Việt nam, quyết định hành chính thuộc đối tượng xét xử hành chính được xác định trên cơ sở phương pháp liệt kê chỉ những loại quyết định hành chính nào có liên quan trực tiếp đến quyền lực, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và được quan tâm chú ý nhiều hơn hay bị khiếu kiện với khối lượng nhiều.
Với ý nghĩa như vậy, Luật tố tụng hành chính Việt nam định nghĩa quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. 1( Xem Khoản 10 Điều 2 Luật khiếu nại và tố cáo, Luật số 09/1998/QH10; Khoản 3 Điều 1 Pháp luật sửa đổi bổ sung một số Khoản của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ hành chính ).
Quyết định hành chính phải do cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước ban hành như: Chính phủ, Các bộ và cơ quan ngang bộ. . ( ở TW), uỷ ban Nhân dân các cấp, các sở, phòng, ban. . . ( ở địa phương ). Do yêu cầu đảm bảo chức năng hoạt động hoặc lý do thuộc về tổ chức nội bộ cơ quan hoặc được trao quyền thực hiện một quyền năng hành chính cụ thể nào đó mà cơ quan này cũng có thể ban hành một số quyết định hành chính như: Toà án ra quyết định xử phạt hành chính trong trường hợp vị phạm hành chính, cản trở hoạt động xét xử của Toà án. . . cho nên, cơ quan hành chính ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm các cơ quan chức năng cơ bản là quản lý hành chính mà cả các cơ quan có thẩm quyền quản lý hành chính trong một số lĩnh vực hoặc từng trường hợp nhất định ( quyền bổ nhiệm công chức, quyền tuyển dụng, quyền dự toán. . . )
Chính vì vậy, luật tố tụng hành chính quan niệm các quyết định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, văn phòng Quốc hội, văn phòng chủ tịch nước, TAND, VKSND nếu bị khởi kiện vụ án hành chính, được coi là đối tượng xét xử của TAND.
- Theo Điều 11 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số Điều PLTTGQCVA HC khi những quyết định hành chính cụ thể ở các lĩnh vực sau thuộc thẩm quyền giải quyết của TA.
+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
+ Quyết định hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trực kiên cố khác.
+ Quyết định hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
+ Quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống;
+ Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
+ Quyết định trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh.
+ Quyết định hành chính trong việc thu thuế, truy thu thuế.
+ Quyết định hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản.
+ Quyết định hành chính trong việc thu phí, lệ phí.
+ Các quyết định khác theo quy định của Pháp luật.
Như vậy, những quyết định hành chính mà Pháp luật không quy định thuộc lĩnh vực ( đối tượng ) xét xử hành chính thì không coi là quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính Việt nam. 1 Xem Khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh số 10/1998 / PL -UBTVQH10).
Quyết định hành chính cá biệt được hiểu là chỉ áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Đối tượng áp dụng của quyết định là cá nhân hoặc tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp và được ghi nhận trong nội dung của quyết định. VD: một người bị cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi giấy phép sản xuất kinh doanh có thể khởi kiện yêu cầu toà án huỷ bỏ quyết định thu hồi giấy phép của mình; trái lại không phải bất cứ người khởi kiện nào cũng đều là đối tượng áp dụng của quyết định. Chẳng hạn, cấp có thẩm quyền quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho một người nhưng nếu thực hiện quyết định này sẽ gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác( quyền sử dụng đất hợp pháp ) do đó người này có thể kiện đòi hỏi huỷ bỏ quyết định cho phép sử dụng đất trên chứ không phải là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( đối tượng áp dụng của quyết định ) khởi kiện.
Như vậy, đối với đối tượng áp dụng, quyết định hành chính sẽ dẫn tới tình trạng làm phát sinh thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ cụ thể như:
- Được hưởng quyền, lợi ích.
- Gánh vác một nghĩa vụ bổ sung.
- Tước bỏ hoặc hạn chế một hoặc môt số quyền, lợi ích.
Quyết định hành chính lần đầu: vấn đề này, hiện chưa được quy định cụ thể trong văn bản Pháp luật về tố tụng hành chính. Song có thể căn cứ vào hướng dẫn của TANDTC để xác định hành chính lần đầu.
Quyết định được ban hành lần đầu tiên bởi cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước. Sau khi đã thành quyết định hành chính lần đầu tiên mà bị khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo đã ra quyết định huỷ quyết định hành chính lần đầu giao về giải quyết lại và cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính lần đầu lại ra quyết định mới thì quyết định mới này vẫn được coi là quyết định hành chính lần đầu.
Khi giải quyết việc khiếu nại đối với quyết định hành chính lần đầu, cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ra một quyết định trong đó có nội dung hoàn toàn mới hoặc làm phát sinh thềm quyền và nghĩa vụ của người chấp hành quyết định thì trong trường hợp này được coi là quyết định hành chính lần đầu.
2. 1. 2. Hành vi hành chính.
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính ( người giải quyết khiếu nại ) do Luật Khiếu nại, tố cáo quy định, gồm: Chủ tịch UBND các cấp; Giám đốc Sở, Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở; Bộ Trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ; Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ.
Các hành vi hành chính diễn ra trên tất cả những lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính Nhà nước được quy định tại Điều 11 pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số Điểu Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là đối tượng xét xử hành chính.
Hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở công trình, vật kiến trúc kiên cố khác.
Hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính.
Hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh.
Hành vi hành chính trong việc trưng dựng, trưng mua, tịch thu tài sản.
Hành vi hành chính trong việc thu thuế, trưng thu thuế.
Hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí.
- Hình thức và thủ tục khiếu nại hành chính:
Hình thức khiếu nại được biểu hiện bằng đơn hoặc trình bày khiếu nại ( tự trình bày hoặc thông qua người đại diện ) để người có trách nhiệm ghi chép lại. . .
2. 1. 3 Quyết định kỷ luật: là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của Pháp luật về cán bộ, công chức ( Xem Khoản 12 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo. )
2. 2. Thẩm quyền xét xử hành chính của TAND.
Trước một quyết định hành vi, hành vi hành chính trái Pháp luật xâm hại quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân có quyền khởi kiện tại toà án có thẩm quyền yêu cầu toà án xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính đều thuộc thẩm quyền xét xử của TA. Do vậy, để bảo đảm sự thuận tiện, tiết kiệm về mặt thời gian và tiền của của công dân trong việc bảo vệ các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của họ cần xác định công dân có quyền khiếu kiện tại toà án, những loại quyết định hành chính hành vị hành chính nào. và nếu khiếu kiện thì toà án nào sẽ là toà án có thẩm quyền giải quyết.
Mỗi một cơ quan Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình đều phải hoạt động trong phạm vi thẩm quyền mà Nhà nước giao phó, tuyệt đối không lạm quyền hoặc xâm phạm đến thẩm quyền cơ quan Nhà nước khác. Sự phân định thẩm quyền này là hoàn toàn cần thiết, là Điều kiện để bảo đảm cho hoạt động của Bộ máy Nhà nước được diễn ra bình thường, đạt hiệu quả cao và bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó cơ quan xét xử - Toà án Nhân dân .
Để đảm bảo quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung quy định thẩm quyền chung của TAND các cấp đối với các vụ khiếu kiện hành chính như sau.
2. 2. 1. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Căn cứ vào pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ( năm 2002 ) thì các hình thức xử phạt hành chính bao gồm các hình thức xử phạt hành chính, kinh tế - xã hội, vừa mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hay không thường xuyên về xây dựng, bảo dưỡng, tổ chức quản lý hành chính Nhà nước.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng không giới hạn là khiếu kiện đối với các loại phí, lệ phí. Cho nên đối tượng xét xử của toà hành chính trong lĩnh vực này là toàn bộ các quyết định hành chính, hành vi hành chính về thu phí, lệ phí.
2. 2. 2 Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức và giữ chức vụ từ vụ trường và tương đương trở xuống.
Đây là hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất đối với cán bộ công chức, với tư cách là một trong những phương thức bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân việc quy định thẩm quyền của Toà án ( toà hành chính ) trong việc giải quyết các khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết ( Quy định Khoản 4 Điều 11 ).
2. 2. 3 Khiếu kiện quyết định hành chính hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai ( Khoản 5 Điều 11 ).
Để xác định được các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc đối tượng xét xử của toà án hành chính , trước hết cần xuất phát từ nội dung quản lý Nhà nước về đất đai ( Điều 13 Luật đất đai 1993 ) bao gồm :
- Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phan dạng đất, lập bản đồ địa chính.
- Quy hoạch về kế hoạch hoá sử dụng đất.
- Ban hành các văn bản Pháp luật về quản lý, sự dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sự dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất.
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung chỉ quy định là khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính, trong lĩnh vực quản lý đất đai, do đó có thể hiểu là tất cả các quyết định cá biệt và mọi hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong khi thực hiện các nội dung nói trên về quản lý Nhà nước về đất đai thuộc đối tượng xét xử của Toà án .
2. 2. 4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh ( Quyết định Khoản 6 Điều 11 ).
Theo pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính, tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn hoặc không có thời hạn được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy tắc sử dụng giấy phép. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, cá nhân, tổ chức không được tiến hành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5509.doc