LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DNNN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cổ phần hóa
1.1.2. Cổ phần hoá DNNN
1.1.3. Công ty cổ phần
- Khái niệm
- Đặc điểm
- Hình thức hoạt động
1.1.4.Các công việc phải làm để thực hiện cổ phần hóa DNNN
1.2. Tính tất yếu của cổ phần hóa DNNN
1.2.1. Yêu cầu đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.2. Yêu cầu mọi doanh nghiệp đều hoạt động theo một luật chung thống nhất
1.2.3. Các ưu điểm cơ bản của loại hình công ty cổ phần
1.2.4. Hiệu quả hoạt động của DNNN
1.3. Các kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1. Cổ phần hóa ở Trung Quốc
1.3.1.1. Tình hình cổ phần hóa ở Trung Quốc
- Giai đoạn thứ nhất 1984 – 1991
- Giai đoạn thứ hai 1992 – nay
1.3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp ở Trung Quốc
- Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu cổ phần và quyền kinh doanh
- Chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là trách nhiệm của cổ đông đối với doanh nghiệp là giới hạn theo mức vốn đầu tư
- Mang tính xã hội hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa và chứng khoán hóa quyền sở hữu
Rút ra kinh nghiệm
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẨN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng các DNNN Việt Nam
- DNNN thành lập một cách tràn lan, quy mô nhỏ
- Nhiều DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh còn thấp, không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước
- Trình độ công nghệ còn lạc hậu, dưới mức trung bình
2.2. Thực trạng cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
2.2.1.khái quát về cổ phần hóa DNNN
2.2.1.1. Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996
2.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 5/1996 đến 5/1998
2.2.1.3. Giai đoạn cho phép đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa từ 7/1998 đến nay
2.2.2.Các giải pháp đã áp dụng để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN
2.2.3. Đánh giá tình hình cổ phần hoá trong thời gian qua
2.2.3.1. Các kết quả chủ yếu
2.2.3.2. Các hạn chế chủ yếu và các vướng mắc chưa được giải quyết
-Tốc độ cổ phần hoá còn chậm
-Khó khăn trong việc xác đinh các giá trị tài sản như đất đai,máy moc,và giá cổ phần
- Xác định đối tác chiến lược
2.3. Phương hướng, giải pháp đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá
2.3.1. Phương hướng
2.3.2. Nhiệm vụ
2.3.3. Các giải pháp để các DN đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa
2.3.3.1. Nhà nước
a) Thúc đẩy việc hoàn thiện các yếu tố khách quan cần thiết cho tiến trình cổ phần hóa
b) Phát triển và hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường
c) Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, tạo khung khổ pháp lí thuận lợi cho việc cổ phần hóa DNNN
d) Tăng cường công tác chỉ đạo và nâng cao năng lực quản lý đối với quá trình cổ phần hóa
e)Phát triển tốt thị trường chứng khoán,thị truờng tài chính là đông lực thúc đẩy cổ phần hoá
f)Các chính sách thu hút đầu tư,tỉ lệ nắm giữ cổ phàn của nhà đầu tư nước ngoài
2.3.3.2. Doanh nghiệp
a) Nâng cao công tác tuyên truyền cho cán bộ công nhân viên về sự cần thiết cổ phần hóa DNNN
b) Đẩy nhanh tiến độ xác định giá trị của các DN và bán cổ phần. Hạn chế và khắc phục việc bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN và chống thất thoát tài sản của Nhà nước
c) Tăng cường quản trị công ty cổ phần để thực sự đưa công ty sau cổ phần hóa hoạt động trong môi trường bình đẳng với các DN khác
d) Tăng cường chỉ đạo cổ phần hóa trong toàn bộ Tổng công ty
e) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình cổ phần hóa
f)Tăng cường tính minh bạch trong công bố thông tin về doanh nghiệp
g)Phát triển đội ngũ quản trị năng động phù hợp với sự mở rộng của thị trường trong nước
h)Chiến lược phát triển rõ ràng
LỜI KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3729 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phẩn hóa các doanh nghiệp nhà nước thực trạng và giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất-kinh doanh, thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v…
Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2004), chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”.
1.3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp ở Trung Quốc
-Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp
-Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội
-Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp
-Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu cổ phần và quyền kinh doanh
-Chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là trách nhiệm của cổ đông đối với doanh nghiệp là giới hạn theo mức vốn đầu tư
-Mang tính xã hội hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa và chứng khoán hóa quyền sở hữu
-Từ tiến trình cổ phần hóa ở trung quốc ta thấy viêt nam cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa.Chỉ mới trong vòng hơn 20 năm mà quy mô vốn hóa của thị trường trung quốc đã khá lớn và tốc độ cổ phần hóa cao.Có thể nói chúng ta bây giờ có điều kiện khá giống so với trung quốc nên chúng ta có thể học một số kinh nghiệm của họ.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng các DNNN Việt Nam
Các doanh nghiệp Nhà nước ở việt nam được thành lập một cách tràn lan với quy mô nhỏ, hoạt động kém hiệu quả (do ban quản trị kém không có năng lực và nạn tham ô tham nhũng…)
Nhiều DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, sức cạnh tranh còn thấp, không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, dưới mức trung bình,doanh nghiep nhà nước có trình độ công nghệ thấp,lạc hậu được nhạp từ nhưngc năm 70 thế kỉ trước năng suát thấp chất lượng không cao không đáp ứng được nhu cầu đổi mới nền kinh tế của đất nước.
2.2. Thực trạng cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
2.2.1:Khái quát về cổ phần hóa DNNN
-Phân tích các yếu điểm cơ bản trong hoạt động của các DNNN trong suốt thời gian dài, chúng ta thấy rằng việc đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp này là một chủ trương hết sức sáng suốt và phù hợp. Với phương thức cổ phần hóa DNNN, Nhà nước sẽ vừa được nhẹ bớt gánh nặng quản lý vừa tạo động lực để cho các doanh nghiệp hoạt động đạt được hiệu quả cao hơn.
-Xuất phát từ quan điểm trên, từ ngày 29/6/1998, Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ đã có tác động tăng tốc cho giải pháp với 2 mục tiêu:
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN;
-Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế của đất nước.
-Từ thực tế hoạt động cổ phần hóa DNNN cho thấy, khi cổ phần hóa, vốn chủ sở hữu DNNN được chuyển đổi thành cổ phần và được bán cho nhiều đối tượng khác nhau như các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, Nhà nước có thể giữ lại một tỷ lệ cổ phần hoặc không. Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp. Từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau cổ phần hóa trở thành công ty cổ phần, sẽ tổ chức hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
-Có thể khái quát về cổ phần hóa DNNN là một biện pháp chuyển đổi hình thức sở hữu trong DNNN, từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông (trong đó Nhà nước có thể tham gia với tư cách cổ đông hoặc không tham gia). Đi đôi với việc chuyển đổi sở hữu là việc chuyển DNNN (sau cổ phần hóa) sang hoạt động theo loại hình công ty cổ phần, được điều chỉnh theo các quy định trong Luật Doanh nghiệp.
-Về hình thức, đó là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần (vốn) của mình trong doanh nghiệp cho các cá nhân tổ chức trong và ngoài doanh nghiệp, hoặc trực tiếp tự doanh nghiệp theo cách bán giá thông thường hay bằng phương thức đấu giá hoặc qua thị trường chứng khoán.
-Về bản chất, đó là phương thức thực hiện xã hội hóa đồng vốn thuộc sở hữu Nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp 1 chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo nên mô hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp kinh tế thị trường.
-Việc chọn DNNN để cổ phần hóa là: bất cứ doanh nghiệp nào không thuộc diện Nhà nước phải đầu tư hoặc tiếp tục giữ 100% vốn, đều sẽ cho tiến hành cổ phần hóa, trong số này không có tiêu chuẩn phân biệt doanh nghiệp nào muốn thì cổ phần hóa, doanh nghiệp nào không muốn thì thôi (!)
-Tóm lại, qua xem xét thực trạng của DNNN cũng như hiểu rõ thực chất về cổ phần hóa, cho thấy cổ phần hóa là một giải pháp quan trọng để tiến hành sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, góp phần giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước hiện nay.
2.2.1.1: . Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996
-Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước .
-Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước làm thí điểm, đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc TW chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg (1992-1996) cả nước chỉ CPH được 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ương và 2 DN địa phương. Đó là các doanh nghiệp :
Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện CPH : 1/7/1993.
Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện CPH : 1/10/1993.
Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH: 1/10/1994
Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
2.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 5/1996 đến 5/1998
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng thực hiện cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần… Nhờ đó tốc độ CPH đã tăng lên rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP được ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy tính gộp từ năm 1992 đến tháng 5/1998 cả nước đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hoá với số vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng ( bình quân 9,6 tỷ đồng/công ty) và gần 6000 lao động. Không chỉ tăng lên về số lượng, diện CPH cũng đã mở rộng hơn, đã có 3 Bộ và 9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp CPH. Trong số các doanh nghiệp đã CPH , có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty. Những doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá gặp khó khăn, như xí nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng tàu thuyền Bình Định, xí nghiệp Giày Hiệp An…, mặc dù không được Nhà nước hỗ trợ vốn, nhưng đã cố gắng khắc phục khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác CPH , trong thời gian này, các cấp các ngành đã triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa phương và thành lập các ban chỉ đạo CPH Chính phủ, trung ương Đảng, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
2.2.1.3. Giai đoạn cho phép đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa từ 7/1998 đến nay
Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý mà nổi bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp CPH đã tăng nhanh so với các thời kỳ trước.
Sau hơn 2 năm thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định số 44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nước đã cổ phần hoá 430 doanh nghiệp đưa tổng số doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá lên 460 doanh nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã CPH , những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thương mại chiếm 39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và thuỷ sản chiếm 2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã CPH đều tương đối nhỏ, những công ty có tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong khi các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn trung bình của các doanh nghiệp đã CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp thực hiện CPH theo hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần giá trị vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phương thực hiện CPH , Hà Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70 doanh nghiệp trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực hiện cổ phần hoá, tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hoá.
Các doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả cao hơn về nhiều mặt, kể cả những doanh nghiệp mới CPH. Một số doanh nghiệp trước CPH gặp nhiều khó khăn thì sau CPH các doanh nghiệp này đã có những tiến bộ rõ rệt, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Như vậy, trên thực tế, Nghị định 44/CP được ban hành đã tạo ra một hành lang pháp lý khá thông thoáng, khuyến khích cả doanh nghiệp và người lao động tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
Tuy nhiên, tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua còn chậm so với yêu cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Sáu tháng cuối năm 1998, kế hoạch đặt ra là CPH 150 doanh nghiệp, thực hiện chỉ là 100 doanh nghiệp được CPH (đạt 66,6%). Năm 1999, kế hoạch đặt ra là CPH 450 doanh nghiệp, nhưng chỉ thực hiện được 250 doanh nghiệp (đạt 55,5%).
Để thực hiện nhanh và có hiệu quả công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước , phải giải quyết nhiều vấn đề, từ nhận thức tư tuởng, cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện, từ doanh nghiệp đến các cơ quan quản lý Nhà nước.
2.2.2.Các giải pháp đã áp dụng để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN
Nội dung
Nghị quyết Trung ương IX, khóa IX, một lần nữa khẳng định tính nhất quán của Đảng ta trong chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần; kiên quyết đẩy nhanh sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã đề ra một số chủ trương giải pháp mới tập trung cụ thể vào 5 điiểm lớn như sau:
+ Mở rộng diện và quy mô các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng bảo hiểm.
+ Định giá giá trị doanh nghiệp, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất về nguyên tắc do thị trường quyết định.
+ Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín nội bộ.
+ Khẩn trương xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế đã được cam kết, nhất là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
+ Đổi mới chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước; nghiên cứu thành lập công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và cơ quan quản lý Nhà nước để thực hiện thống nhất và có hiệu quả chức năng Nhà nước là đại diện chủ sở hữu phần vốn đầu tư của mình vào doanh nghiệơ thuộc mọi ngành, mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.3.Đánh giá tình hình cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
Một điều mà người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa lo ngại là vấn đề việc làm. Sau cổ phần hóa số lượng lao động chẳng những không giảm mà còn tăng 10% với thu nhập bình quân tăng 20%. Điều này đã kích thích người lao động yên tâm làm việc, cống hiến hết khả năng của mình cho công việc.
Sau khi cổ phần hóa, bình quân giá trị vốn Nhà nước chỉ chiếm 25% trong cơ cấu vốn điều lệ, còn lại là vốn của các cổ đông là cán bộ công nhân viên chức và cổ đông ngoài doanh nghiệp, chiếm 75%. Như vậy, cổ phần hóa đã thực hiện được mục tiêu thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội để đầu tư phát triển. Tuy nguồn vốn Nhà nước chỉ chiếm 25% tổng số vốn của công ty cổ phần, vốn của các đối tượng khác chiếm 75% nhưng lại là nguồn vốn phân tán, do đó phần sở hữu Nhà nước trong các công ty vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Như tại Công ty bông Bạch Tuyết, sau cổ phần hóa số lượng lao động tăng 205 người so với 198 người tại thời điểm trước khi cổ phần hóa, thu nhập người lao động trung bình là 3,2 triệu đồng/tháng và lãi cổ tức 1998 là 7%.
Công ty Cơ điện lạnh vào năm 1993 có 415 lao động thì năm 1998 là 798 lao động, với thu nhập tăng từ 1,4 triệu đồng/người/tháng lên 2 triệu đồng/người/tháng.
Tóm lại, từ thực tế cổ phần hóa của cả nước là điển hình là thành phố Hồ Chí Minh,và hà nội cùng tất cả các tỉnh thành trong cả nước cho thấy việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sang hình thức cổ phần chẳng những giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước đây, Nhà nước cũng thu hồi nguồn vốn để đầu tư cho các doanh nghiệp khác. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa có sự thay đổi, họ vừa là người làm việc cho công ty cổ phần, vừa là người chủ trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì thế, ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa nhạy bén, năng động, tự chủ hơn. Nhờ đó mà chất lượng, hiệu quả công việc cao hơn, các khoản đóng góp vào ngân sách Nhà nước cũng tăng lên.
Cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho cả Nhà nước, người lao động và cổ đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hóa DNNN là hoàn toàn đúng đắn.
2.2.3.1:Các kết quả chủ yếu
Để xem xét một cách khách quan, chúng ta không thể không nói đến những thuận lợi khi thực hiện chủ trương cổ phần hóa trong tình hình hiện nay. Đó là:
Chương trình cổ phần hóa DNNN được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã tái khẳng định quyết tâm sắp xếp, đổi mới DNNN mà cổ phần hóa là một trong những hình thức quan trọng nhằm cải cách DNNN cả về số lượng và chất lượng, giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Nhờ vào chính sách đổi mới, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Nhà nước trong nhiều năm qua, thu nhập dân cư tăng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những DNNN cổ phần hóa.
Cơ chế thị trường đã tạo ra một đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn, người lao động trong doanh nghiệp đã thích ứng với loại hình chứng khoán là cổ phiếu được phát hành ở DNNN cổ phần hóa. Đồng thời những thành quả bước đầu của chương trình cổ phần hóa đã giúp nhân dân thêm tin tưởng và ủng hộ chính sách của Đảng và Nhà nước.
Sự ra đời của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy hoạt động trao đổi, mua bán cổ phiếu, kêu gọi sự đầu tư từ công chúng. Đây là nhân tố ảnh hưởng khá tích cực đến tiến trình cổ phần hóa.
Ý nghĩa của cổ phần hóa DNNN:
a/ Về mặt chính trị:
Cổ phần hóa đã đem lại cho Nhà nước sự thành công bước đầu trong việc đưa ra chiến lược, sách lược, góp phần điều tiết nền kinh tế đất nước theo định hướng XHCN, tận dụng được những nguồn lực quan trọng vào phát triển trong thời kỳ quá độ.
Qua chủ trương cổ phần hóa làm cho nhân dân yên tâm, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơ chế mới ở nước ta. Mặt khác, cũng đem lại niềm tin và thiện chí tốt đẹp của các nước trên thế giới trong giao lưu kinh tế với Việt Nam, đồng thời cổ phần hóa còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc khắc phục, bổ sung các văn bản pháp lý, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
b/ Về mặt kinh tế:
Chính sách cổ phần hóa đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa nền kinh tế nước ta đi lên, tạo ra nhiều hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là thu nhập dân chúng tăng lên, góp phần tăng trưởng sản phẩm quốc nội. Cổ phần hóa còn làm giảm, làm mất nguy cơ khủng hoảng tài chính quốc gia có khả năng xẩy ra do tình trạng yếu kém của khu vực kinh tế Nhà nước, hạn chế những tiêu cực kinh tế do cơ chế thị trường đem lại.
c/ Về mặt xã hội:
Cổ phần hóa có khả năng làm giảm vấn đề mất việc làm cho người lao động, khắc phục được tình trạng tùy tiện sa thải lao động, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thất nghiệp. Chính vì vậy mà cổ phần hóa còn làm giảm những tệ nạn trong xã hội nhỏ của doanh nghiệp như tham ô, trây lười… , và rộng hơn có thể hạn chế được phần nào những tệ nạn xã hội...
Cổ phần hóa còn góp phần xây dựng thế hệ người lao động có phong cách làm việc năng động, sáng tạo, phù hợp với nếp sống mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN (quy định tại Điều 2 Nghị định 44/1998/NĐ-CP).
Mục tiêu 1: Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
Mục tiêu 2: Tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng ngân sách Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Ở mục tiêu 1: Việc tất cả công chúng trong xã hội, không phân biệt loại hình sở hữu bỏ vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh dưới cơ chế thị trường là hết sức cần thiết, nhưng đồng thời cũng là điều không dễ dàng trong vấn đề này. Từ thực trạng các DNNN đã chuyển sang công ty cổ phần đa số là các doanh nghiệp nhỏ, có vốn ít. Trong khi đó số vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn (theo điều tra khu vực thành thị là 10 triệu đồng/hộ, nông thôn là khoảng 3 triệu/hộ), nhưng nhân dân ta còn có thói quen gởi tiết kiệm hoặc cất giữ, mà chưa có thói quen đầu tư vào sản xuất kinh doanh, quay vòng đồng tiền nhằm sinh lời.
Việc cổ phần hóa DNNN nhằm chuyển DNNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần khuyến khích dân chúng đem tiền vào đầu tư sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có nguồn vốn dài hạn và cố định để đầu tư đổi mới dây chuyền, thiết bị công nghệ, mở rộng hoạt động kinh doanh, Ngân sách Nhà nước không phải cấp phát vốn cho các doanh nghiệp hoạt động.
Ở mục tiêu 2: Để người lao động làm chủ thật sự quá trình sản xuất, sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động là con đường ngắn nhất, từ đó quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như lợi ích của người lao động. Khi thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN, người lao động được ưu tiên mua cổ phần và điều này cũng được Nhà nước tạo điều kiện bằng những quy định cụ thể. Người lao động trở thành cổ đông cho chính doanh nghiệp họ lao động. Khi quyền sở hữu tư liệu sản xuất gắn liền với quy trình sử dụng người lao động sẽ có trách nhiệm hơn trên lượng tài sản nhất định của họ đóng góp, họ không cho phép bất kỳ hành vi nào lạm dụng tài sản của họ, họ tự giác làm việc hăng say trên phần tài sản có mình đóng góp để đem lại lợi ích nhiều hơn.
Các văn bản pháp luật hiện nay của nước ta điều chỉnh vấn đề cổ phần hóa DNNN đã đề cao vai trò của người lao động, cụ thể là những ưu đãi trong việc mua cổ phần của họ ngày càng được rõ ràng và đúng mức hơn theo từng điều kiện của từng lao động cụ thể. Người lao động khi có cổ phần trong tay, trở thành cổ đông công ty cổ phần, quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng theo luật định, theo điều lệ công ty, và điều quan trọng là họ có toàn quyền lựa chọn người thay mặt họ quản lý công ty mà không chịu một sức ép nào.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có đến 63,4% doanh nghiệp cổ phần hóa mà cán bộ nhân viên chiếm đa số cổ phần, thậm chí có đến 18,6% doanh nghiệp cán bộ nhân viên sở hữu 100% vốn sau cổ phần hóa. Việc sở hữu cổ phần nội bộ có nhiều ưu điểm: khuyến khích nhân viên làm việc tích cực hơn vì họ không chỉ nhận được lương từ kết quả hoạt động kinh doanh mà còn có cơ hội nhận được cổ tức. Tuy nhiên hình thức sở hữu này cũng có nhược điểm, mà quan trọng nhất, là nó cản trở việc tái cơ cấu công ty. Người ta khó thay thế một công nhân yếu kém nếu như họ đồng thời là cổ đông, và cũng khó thay thế ban lãnh đạo nếu người biểu quyết chính là ban lãnh đạo đó.
Đối với cổ đông ngoài doanh nghiệp, họ chỉ có thể mua cổ phần khi mà cán bộ công nhân viên không đủ khả năng mua hết cổ phần và chỉ diễn ra với những công ty lớn. Trong khi đó, số lượng các công ty lớn có vốn trên 10 tỷ đồng là 20,9%. Vì chiếm tỷ lệ cổ phần nhỏ trong công ty nên khả năng làm chủ thực sự của họ khó trở thành hiện thực và việc thu hút vốn từ bên ngoài doanh nghiệp vẫn còn thấp.
Ngay cả khi người lao động chiếm một tỷ lệ cổ phần cao nhưng nếu thiếu một cơ quan điều tiết cứng rắn và theo dõi chặt chẽ hoạt động của Hội đồng quản trị thì người lao dộng vẫn không thể thực hiện quyền làm chủ của mình nhất là trong những công ty cổ phần mà thành viên Hội đồng quản trị là những người chiếm tỷ lệ cổ phần cao, và họ cũng là những người mà được Nhà nước giao quản lý số cổ phần nhà nước tại công ty, thì người lao động vẫn chưa thể có tiếng nói của mình tại doanh nghiệp.
Vì vậy để chính sách cổ phần hóa được phát huy toàn diện thì sự tham gia của các cổ đông bên ngoài là rất quan trọng. Một khi mục tiêu đa dạng hóa sở hữu được thực hiện thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về quyền sở hữu cũng như cách thức quản lý và đây cũng là điều kiện chính dẫn đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đem lại lợi nhuận cao. Từ đó tài sản của Nhà nước trong doanh nghiệp cũng tăng theo tùy theo tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước, thu nhập của người lao động tăng lên, cổ đông được hưởng cổ tức... dẫn đến mức sống được nâng cao, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước.
Các mặt tích cực của giải pháp cổ phần hóa DNNN
a) Xoá bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp:
Tài sản của Nhà nước được xem như là "tài sản chung", điều này đồng nghiõa với "không phải của ai". Từ đó bị sử dụng hết sức lãng phí, vô trách nhiệm. Cổ phần hóa sẽ đưa người lao động trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Khi quyền lợi riêng đã được gắn kết với quyền lợi chung, người lao động sẽ quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế.
b) Tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp.
Giám đốc của DNNN được coi như viên chức của Nhà nước, làm việc theo chỉ đạo của ông chủ Nhà nước, nhưng thực tế Nhà nước cũng không làm chủ, mà để cho giám đốc doanh nghiệp trở thành ông chủ tuy danh nghĩa song quyền hành rất lớn. Khi cổ phần hóa, người giám đốc trở thành người làm thuê cho công ty cổ phần, họ phải chịu sự giám sát chặt chẽ trong việc điều hành hoạt động doanh nghiệp. Điều này buộc người giám đốc phải trở nên năng động hơn, cầu tiến, có trách nhiệm hơn đối với công việc, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Cổ phần hóa đã thay thế sự quản lý điều hành mệnh lệnh, bao cấp trước đây bằng sự quản lý chỉ đạo của một Hội đồng quản trị do các cổ đông bầu ra, giảm bớt sự can thiệp đa tuyến không cần thiết của các cơ quan Nhà nước, nên có điều kiện thuận lợi và dễ dàng trong việc phát huy tính năng động trong kinh doanh.
c) Cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân
Thông qua cổ phần hóa người ta thay thế hình thức sở hữu đơn nhất thành hình thức đa sở hữu, doanh nghiệp từ chỗ có một "ông chủ" duy nhất trở thành doanh nghiệp nhiều chủ. Từ đó sẽ hình thành một nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần. Nhà nước chỉ nắm những ngành, những lĩnh vực quan trọng, có tính chiến lược, đáp ứng mục tiêu xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22668.doc