Đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta

MỤC LỤC

A. Phần nội dung

 I. Lý luận chung

 1. Cơ sở vật chất kỹ thuật và đặc trưng của nó 04

 2. Tính tất yếu và tác dụng của CNH, HĐH 04

 3. Nội dung cơ bản của CNH, HĐH 07

 II. Thực tiễn việc tiến hành CNH, HĐH ở Việt Nam 09

 1. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta 09

 2. Quá trình phát triển của CNH, HĐH ở nước ta 11

 3. Những thuận lợi, khó khăn khi nước ta tiến hành CNH, HĐH 12

 4. Nội dung của CNH, HĐH 14

B. Phần kết thúc

 I. Khái quát nội dung đề tài 19

 II. Một số giải pháp để thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước 19

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế chính trị giống hệ thống của những nước phát triển. 2.2. Mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và hiện đại hoá Xét ở khía cạnh kinh tế xã hội, hiện đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Nhưng quá trình phát triển của công nghệ lại bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội. Hiện đại hoá là phương tiện, điều kiện để đạt được mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá. Giải quyết quan hệ này có liên quan trực tiếp đến bước đi của quá trình hiện đại hoá theo những điều kiện cụ thể của đất nước. Việc muốn đi ngay vào công nghệ hiện đại ở tất cả các ngành , các lĩnh vực hoạt động là hết sức phiêu lưu và phi thực tế . Từ đây, ta có thể có một định nghĩa chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Lịch sử nhân loại đã tồn tại hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội: quá độ trực tiếp và quá độ trực tiếp. - Đối với những nước quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội ( chuyển từ tư bản chủ nghĩa lên xã hội chủ nghĩa ) họ có lợi thế là đã có nền sản xuất lớn do đã có nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản nên họ chỉ cần điều chỉnh và hoàn thiện nó là cơ bản đã có cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội bằng cách: tiến hành cuộc cách mạng quan hệ sản xuất để xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phân bố lại một cách đồng đều trong cả nước vì mục đích của nền sản xuất lớn là tạo sự đồng đều giữa các ngành các vùng kinh tế của một quốc gia, tiếp tục vận dụng những thành tựu mới của cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ để hiện đại hoá nền sản xuất ở trình độ cao hơn. - Đối với những nước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội do chưa có sẵn nền đại công nghiệp vì thế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của đất nước thì tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường duy nhất để tạo ra sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất và năng suất lao động nhằm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường duy nhất tạo ra những phương tiện vật chất kĩ thuật cần thiết nhằm thực hiện mục đích của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm giải phóng con người. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một trong những điều kiện nhất định đảm bảo sự thắng lợi cuối cùng của xã hội mới . Từ những phân tích trên có thể khẳng định: công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường duy nhất để xây dựng nền sản xuất lớn hiện đại. 2.3. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác dụng rất to lớn, toàn diện trên tất cả các mặt của xã hội. Tạo điều kiện để biến đổi chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhờ đó mà đời sống của nhân dân được nâng lên. Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố vai trò kinh tế của nhà nước. Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường an ninh quốc phòng. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đủ sức thực hiện việc phân công lao động và hợp tác quốc tế. Thúc đẩy sản xuất phát triển, nhiều ngành nghề mới ra đời không những tăng thêm thu nhập cho người lao động mà còn giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp. 3. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá 3.1. Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của nền kinh tế quốc dân Tiến hành cách mạng khoa học - kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất để tự trang bị. Cuộc cách mạng này gồm 5 nội dung chủ yếu: + Về tự động hoá + Về năng lượng + Về vật liệu mới + Về công nghệ sinh học + Về điện tử và tin học Nhận chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến, đây là công việc hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển vì: + Nhận chuyển giao công nghệ mới là công việc cần thiết để rút ngắn con đường phát triển hiện đại. + Thực chất của việc nhận chuyển giao công nghệ mới là sự chuyển đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng hàng hoá kỹ thuật công nghệ từ các nước công nghiệp tiên tiến sang các nước còn kém phát triển. + Hàng hoá kỹ thuật công nghệ có đặc điểm khác với hàng hoá thông thường là nó đi từ nơi có trình độ cao đến nơi có trình độ thấp. + Để có thể hiện thực hoá việc nhận chuyển giao buộc các nước phải chú trọng đào tạo đội ngũ làm công tác nhận chuyển giao 3.2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hoá. Vấn đề quan trọng là phải tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu nghĩa là nền kinh tế đó phải đáp ứng được các yêu cầu: + Phản ánh được và phản ánh đúng các qui luật khách quan nhất là qui luật kinh tế. + Phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ. + Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước nói chung và của mỗi ngành nghề nói riêng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. + Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”. + Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình phải trải qua những chặng đường nhất định. Do vậy, xây dựng cơ cấu kinh tế của chặng đường trước phải đảm bảo tạo được “đà” cho chặng đường sau. Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hoá lao động. Phân công lao động có tác dụng rất to lớn. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá phải tuân thủ các quá trình có tính qui luật sau: + Tỉ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỉ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên. + Tỉ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. + Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi lao động sản xuất phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất. II. Thực tiễn việc tiến hành công nghiệp hoá ở Việt Nam. 1. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. 1.1. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã khẳng định: “Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đai hoá.” Như phần lý luận đã nêu, công nghiệp hoá hiện đại hoá là sự nghiệp chung của xã hội loài người, không một nước nào, kể cả những nước giàu mạnh đã đạt đến trình độ phát triển cao. Vấn đề khác nhau giữa các nước chỉ là mục tiêu và con đường thực hiện. Một số nước tư bản có nền khoa học công nghệ tiên tiến như Anh, Pháp đã trải qua thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Nước ta là nước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất muộn, bởi nước ta đã phải trải qua hàng ngàn năm phong kiến, hàng trăm năm dưới ách đô hộ của bọn đế quốc thực dân. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước hết xuất phát từ mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng đã lựa chọn. Nước ta là một nước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy ta chưa có nền sản xuất lớn đạt đến trình độ khoa học kĩ thuật cao như các nước quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng thành công mô hình chủ nghĩa xã hội đòi hỏi ta phải xây dựng được cơ sở vật chất tương ứng mà theo Lê-Nin: ''Cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội là một nền đại công công nghiệp cơ khí ''. Hơn thế Việt Nam là một nước kém phát triển, thuộc vào nhóm nước nghèo nhất thế giới, một đất nước với nền nông nghiệp lạc hậu, chưa vượt khỏi xã hội truyền thống sang xã hội văn minh công nghiệp. Do vậy, con đường duy nhất để nước ta có thể xây dựng thành công mô hình xã hội chủ nghĩa là tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đây cũng là khát vọng của nhân dân ta, mong muốn đất nước mình ngày một giàu mạnh hơn, có một nền kinh tế vững chắc ổn định và độc lập; dân tộc Việt Nam có cuộc sống ấm no hạnh phúc, công bằng, văn minh. Như vậy công nghiệp hoá hiện đại hoá là một tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta, nó sẽ làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị,văn hoá, chính trị ... 1.2. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đồng thời chú trọng giải quyết tốt những vấn đề xã hội. Khi công nghiệp hoá hiện đại hoá được tiến hành một cách đúng đắn, nó sẽ có tác dụng to lớn đối với nước ta trên mọi lĩnh vực: trước hết nó làm tăng chất lượng sản xuất, làm tăng năng suất lao động, tạo thêm nhiều nghành nghề mới, nâng cao thu nhập và mức sống còn rất thấp ở nước ta, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trang bị những thiết bị hiện đại làm tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất để củng cố tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người- nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội. Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường an ninh quốc phòng, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức thực hiện phân công lao động, hợp tác quốc tế. 2. Quá trình phát triển của công nghiệp hoá ở nước ta. 2.1. Trước thời kì đổi mới. Theo đường lối của Đại hội Đảng III (năm 1960) nước ta đã bắt đầu công nghiệp hoá từ năm 1960. Thế nhưng trên thực tế nước ta tiến hành sự nghiệp ấy từ xuất phát điểm rất thấp về kinh tế, xã hội, về vấn đề phát triển lực lượng sản xuất và trạng thái không còn phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, lại bị Mỹ thực hiện chính sách cấm vận làm cản trở sự giao lưu kinh tế của nước ta với các nước trên thế giới. Nhưng đáng quan tâm hơn cả là do những sai lầm trong việc đề ra chủ trương đường lối cải tạo xuất phát từ tư tưởng nóng vội chủ quan duy ý chí. Chính những sai lầm trên đã dẫn tới hậu quả mất cân đối trong nền kinh tế: Công nghiệp chỉ chiếm 15,2% thu nhập quốc dân, lao động công nghiệp chiếm 7% lực lượng lao động xã hội. Trong khi đó quan hệ sản xuất sở hữu được đẩy lên ở mức cao: 85% số hộ nông dân vào hợp tác xã, 80% thợ thủ công vào hợp tác xã ... làm cho năng suất lao động thấp, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn làm nảy sinh các tệ nạn xã hội. Song dù trong điều kiện hết sức khó khăn như vậy ta vẫn tiếp tục tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.2. Sau đổi mới. Nhưng Đảng ta đã sớm nhận thức được những sai lầm của mình Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) là cái mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới. Đại hội chỉ rõ: “tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Nhà nước đã xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thay vào đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả đạt được là rất khả quan: lạm phát giảm từ 587,2% năm 1986 xuống còn 30%, tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội 4,8%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%, giá trị sản lượng công nghiệp 5,2%, thu nhập quốc dân bình quân theo đầu người đạt trên 220 USD/năm (gấp đôi năm 1960 là 100USD). Cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, nước ta cũng ngày càng mở rộng quan hệ quốc tế và kinh tế đối ngoại với hầu hết các nước trên thế giới để tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài, thực hiện phân công lao động quốc tế..., giá trị xuất khẩu quốc tế đạt 28%. Tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế- xã hội kém phát triển... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật XHCN”. Lấy đó làm tiền đề Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2005 là: “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế- xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỉ XXI”. 3. Những thuận lợi khó khăn khi nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hoá. 3.1. Những khó khăn. Nước ta tiến hành công nghiệp hóa từ xuất phát điểm thấp vì vừa trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, tuy đã kết thúc nhưng vẫn còn để lại hậu quả nặng nề, nó làm cho nền kinh tế đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng thiếu và yếu, trình độ phân công lao động yếu. Công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn, trong khi đó nguồn vốn của ta hầu như là không có, khả năng huy động vốn còn rất hạn chế. Trong tổng số vốn dùng để xây dựng cơ bản của Nhà nước thì có tới 75% là vay nợ của nước ngoài. Bên cạnh đó, bối cảnh khu vực và quốc tế cũng gây cho ta không ít khó khăn, kẻ thù đế quốc vẫn luôn nhòm ngó. Nước ta lại nằm trong khu vực biển Đông, nơi đang có nhiều diễn biến phức tạp và tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Nước ta đã duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với một hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, với bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả, tệ nạn quan liêu tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức, phẩm chất của một số đảng viên... 3.2. Những thuận lợi. Bên cạnh những khó khăn cần khắc phục, khi bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá ta cũng có rất nhiều thuận lợi: Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học công nghệ, chúng ta có thể áp dụng trực tiếp những thành tựu ấy, loại bỏ những sai lầm mà các nước đi trước gặp phải. Đất nước đã thoát khỏi thời kì khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang tạo lập được thế và lực mới. Nước ta có vị trí địa lí khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam á, nằm trong vùng Châu á Thái Bình Dương- được coi là khu vực kinh tế năng động nhất thế kỉ XXI. Ngày 28\07\1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, 3\2\1994 Mỹ bỏ cấm vận, hai sự kiện này đã mở ra một hướng phát triển mới cho nền kinh tế đất nước. Xu hướng toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh đó với hệ thống pháp luật ổn định, hợp lí, điều này đã tạo ra môi trường thuận lợi cho mọi thành phần sản xuất kinh doanh. Với sự quản lí nền kinh tế vĩ mô của nhà nước đã tạo ra những tiến bộ lớn lao cho nền kinh tế hàng hoá ở nước ta: đến năm 1997 Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới, nhịp độ tăng GDP đạt 8,2%, vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 chiếm 18,8% GNP, đến năm 1995 tăng lên 27,4% GNP. Ngoài ra nhờ sự quan tâm của Đảng và nhà nước mà sự nghiệp giáo dục đã có rất nhiều tiến bộ, trình độ dân trí được nâng cao, dễ dàng tiếp thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ việc phân tích những thuận lợi, khó khăn ta có thể thấy với những tiềm năng sẵn có của đất nước cùng với đường lối chính sách đúng đắn ta có thể khắc phục được những khó khăn thử thách để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 4. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 4.1. Quan điểm chỉ đạo công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Từ thực tiễn tiến hành công nghiệp hoá trước đây và căn cứ vào đặc điểm tình hình hiện nay cũng như yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kì mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành theo những quan điểm sau: Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại.dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với việc tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mỗi thành phần kinh tế trong đó thanh phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Lấy việc phát huy tối đa nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên nhân dân thực hành tiết kiệm, tăng tích luỹ cho đầu tư, phát triển. Không ngừng chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Lấy khoa học kĩ thuật và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tranh thủ đi nhanh vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở những khâu quyết định. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn phương án đầu tư và phát triển. Chú trọng đầu tư chiều sâu, ưu tiên qui mô vừa và nhỏ đồng thời xây dựng những công trình có qui mô lớn, tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển, có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn. Kết hợp chặt chẽ và toàn diện giữa phát triển kinh tế với củng cố tăng cường an ninh quốc phòng của đất nước. 4.3. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. a. Củng cố và tăng cường địa vị chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến tới xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. b. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lí và hiệu quả hơn. c. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết bằng việc cơ khí hoá nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ 4.3. Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII Đảng ta đã đề ra mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau: “ Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu quản lý hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình đã phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Trong thời gian đó, đây cũng là mong ước của biết bao thế hệ đi trước mà ngày nay chúng ta phải nỗ lực làm bằng được.Mục tiêu này cũng gắn liền với mục tiêu kết thúc thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đến Đại hội Đảng IX , khi tổng kết quá trình 15 năm đổi mới Đảng khẳng định ta đã đạt được những thành tựu: “Kinh tế tăng trưởng khá, Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân được cải thiện, tình hình chính trị- xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường...” Cũng trong Đại hội IX, Đảng đã đề ra mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong 10 năm tới (2001-2010): “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại..”. Trong đó Đảng nêu rõ: “phát triển kinh tế, công nnghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm”. 4.4. Những phương hướng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ nay đến năm 2005 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình mà việc thực hiện nó phải gắn liền với những chặng đường lịch sử nhất định. Trong mỗi giai đoạn nhất định cần có những nội dung, mhững phương thức khác nhau để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong 5 năm tới nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chú trọng đến các vấn đề: Xây dựng cơ cấu công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ , nông nghiệp - Trong những năm tới cần chú trọng hình thành các khu công nghiệp tập trung và các điểm công nghiệp, trong đó ưu tiên cho các cơ sở công nghiệp nhẹ, đặc biệt là của các ngành công nghiệp mũi nhọn. Đồng thời phải dành 70% số vốn dành cho công nghiệp để phát triển công nghiệp nặng. - Đối với nông nghiệp cần phải coi trọng phát triển kinh tế nông thôn, đặc biệt là cần phải phát triển mạnh công nghiệp nông thôn. Đồng thời cũng phải chú trọng đến việc phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm, phấn đấu đạt sản lượng 30 triệu tấn vào năm 2005. Thực hiện tốt nhiệm vụ phân công lao động Nguồn lao động nước ta rất dồi dào nhưng lại phân bố không đều giữa các vùng và giữa các ngành cũng có sự chênh lệch. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với nhiệm vụ phân bố lại dân cư và nguồn lao động. Việc phân phối vốn. Trung ương sẽ quản lý phần lớn nguồn vốn đầu tư của nhà nước để xây dựng các công trình ở các vùng, phần còn lại giao cho địa phương quản lý. Các vùng trọng điểm chiếm 30%, các vùng còn lại chiếm70% tổng số vốn đầu tư của nhà nước. Những phương hướng mà Đảng đã đề ra là rất hợp lý và có khả năng thực hiện nhưng để thực hiện nó một cách đầy đủ, đúng đắn thì lại đòi hỏi cần phải có những giải pháp đúng đắn cho việc thực hiện: - Phải lựa chọn ra những ngành kinh tế mũi nhọn từ đó có các biện pháp, chính sách ưu tiên phát triển. Hiện nay các nhà kinh tế đã chọn ra bốn ngành kinh tế mũi nhọn cả nước ta đó là các ngành: Dệt may, thuỷ sản, dầu khí, cơ khí điện tử tin học. Đây là những ngành mà nước ta có tiềm năng rất lớn cả về nguồn nguyên vật liệu và về thị trường tiêu thụ. - Giải quyết vấn đề về vốn: Vốn là nhân tố quyết định để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lại luôn là vấn đề khó khăn đối với nước ta bởi vậy việc mở rộng quan hệ tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là rất cần thiết. - Đổi mới dây chuyền công nghệ: nhìn chung công nghệ nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng vô cùng lạc hậu và máy móc, thiết bị mà nước ngoài đầu tư vào nước ta cũng chỉ ở mức trung bình, thậm chí cũ kỹ, lạc hậu. - Vấn đề tổ chức và cán bộ: + Việc tổ chức quản lý hệ thống các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh phải đảm tính thống nhất và chặt chẽ. Đảm bảo cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh theo pháp luật nhưng đồng thời vẫn cần có sự can thiệp của nhà nước. + Phải xây dựng mô hình tổ chức đào tạo cán bộ hành chính và nhà quản trị doanh nghiệp cho thật hợp lý và có hiệu quả vì thực tế đã chứng minh: đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước cũng như các nhà kinh doanh đóng vai trò quyết định đối với nền kinh tế của một đất nước. - Về nguồn lao động: nhà nước cần có biện pháp để tận dụng nguồn lao động dồi dào ở nước ta một cách có hiệu quả nhất, đồng thời cần chú trọng đào tạo để nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng tỷ lệ lao động trí óc, giảm tỉ lệ lao động chân tay. - Tăng cường quan hệ hợp tác, mở rộng thị trường ra các nước trong khu vực và trên thế giới là điều kiện quan trọng giúp ta phát triển thương mại đồng thời tranh thủ nguồn vốn của nước ngoài. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa ký kết là một thuận lợi lớn đối với nước ta, tạo cơ hội cho hàng hoá của nước ta có thể thâm nhập vào thị trường Mỹ. Trong chiến lược xuất khẩu cần đề cao nguyên tắc: chỉ xuất những gì các nước cần chứ không xuất những gì mình có. b. PHần kết thúc. I. Khái quát nội dung đề tài. Đối với Việt Nam cũng như mọi quốc gia trên thế giới công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu khách quan. Công nghiệp hoá tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất kĩ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nhằm huy động và sử dụng mọi nguồn lực với mục tiêu biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát huy tối đa nguồn lực con người, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, quốc phòng an ninh ổn định, vững chắc. nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế. Quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam mới chỉ là ở bước đầu, tuy gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng nhờ vào nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta nên đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ: đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ nội bộ, tổng sản phẩm quốc nội đạt tốc độ tăng bình quân là 8%, kinh tế quốc doanh ngày càng chiếm vị trí quan trọng, kinh tế tư nhân đã thích nghi được với cơ chế thị trường, sản lượng công nghiệp hàng năm cao hơn mức kế hoạch, cán cân xuất nhập khẩu được cải thiện ( nhập siêu giảm dần, xuất siêu tăng dần ), đời sống của nhân dân tăng lên rõ rệt. Trong tương lai, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tiếp tục được đẩy mạnh hơn nữa, dưới sự lãnh đạo của Đảng và bằng sự sáng tạo cần cù của người Việt Nam chúng ta tin rằng không

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33735.doc
Tài liệu liên quan