Đề tài Đánh giá hoạt động sinh kế của người dân miền núi thôn 1 – 5 ( khảo sát tại thôn 1 – 5, xã Cẩm Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An )

Nguồn vốn con người được xem như là một nguồn vốn quan trọng nhất trong chiến lược phát triển sinh kế, con người là một chủ thể tạo ra các hoạt động sinh kế. Đồng thời, các thành tố thuộc về con người như: sức khỏe, kiến thức, kĩ năng, nhận thức đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định và phát triển chiến lược sinh kế. Sức khỏe – là nguồn lao động là sơ sở nền tảng để con người thực hiện các hoạt động sinh kế, trình độ học vấn, nhận thức và kĩ năng là những yếu tố để đưa ra quyền quyết định và lựa chọn phương thức sinh kế phù hợp với khả năng. Hay nói một cách khác là kết quả và hành vi sinh kế của hộ gia đình tùy thuộc nhiều vào nguồn vốn mà con người sẵn có như: lực lượng lao động trong gia đình, kĩ năng, kiến thức, nhu cầu và mục đích của từng cá nhân vv.

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8641 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hoạt động sinh kế của người dân miền núi thôn 1 – 5 ( khảo sát tại thôn 1 – 5, xã Cẩm Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nông nghiệp chiếm 80% tổng dân số, năm 2009 lượng khẩu trong nông nghiệp giảm còn 76,4% vào năm 2010 là 75,21%. Cơ sở vật chất kĩ thuật: Giao thông: Hệ thống giao thông của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vấn đề đi lại của người dân, một số thôn bản còn nằm cách trở bởi dòng sông Lam nên người dân còn phải sử dụng thuyền ghe để phục vụ việc đi lại, ngoài ra còn có một số thôn nằm trong núi, phải trải qua nhiều dốc, vượt nhiều núi mới đến chỗ người dân sinh sống. Điểm thuận lợi nhất của địa phương là có đường quốc lộ 7A chạy qua và phần lớn người dân của xã nằm trên trục đường quốc lộ này nên việc giao lưu, đi lại giữa các địa phương khác khá thuận tiện. 2.2. Đặc điểm tình hình chung thôn 1 - 5 Thôn 1- 5 là một thôn nằm giữa trung tâm Xã Cẩm Sơn, có đường quốc lộ 7A chạy qua địa bàn. Thôn có ranh giới hành chính được xác định như sau: Phía Bắc giáp thôn Hội Lâm Phía Nam giáp thôn Cẩm Lợi Phía Đông giáp thôn Cẩm Hòa Phía Tây giáp thôn Hòa Tiến Với vị trí địa lý như vậy tạo điều kiện thuận lợi việc giao lưu và thực hiện các hoạt động thông thương giữa các vùng khác trong thôn. Tổng diện tích của thôn là chiếm 10,08% diện tích đất tự nhiên của xã Cẩm Sơn. Địa hình: Thôn có địa hình chủ yếu là đồi núi xen kẽ đồng bằng, hai bên là dốc cao và giữa là sông Lam. Địa bàn của thôn trải dài theo quốc lộ 7A. Dạng đồng bằng ven sông: chủ yếu nằm dọc bên bờ sông Lam chiếm 5,4% diện tích đất tự nhiên. Có khoảng 30% loại đất này bị ngập lụt hằng năm là các bãi bồi ven sông chủ yếu được trồng các loại rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Dạng địa hình đồi núi thấp: chủ yếu là dạng đồi lượn sóng độ dốc không lớn 8 – 15. Đây là dạng địa hình có diện tích lớn chiếm 56% tổng diện tích đất tự nhiên. Đây là vùng diện tích có tiềm năng lớn về phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, cây lâm nghiệp. Dạng địa hình núi đồng bằng: chủ yếu là đất thổ cư và đất trồng vườn của bà con, chiếm khoảng 26% tổng diện tích đất tự nhiên, dạng địa hình này chủ yếu sử dụng vào mục đích ở và trồng rau màu. Khí hậu: Thôn 1 – 5 nằm vào vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và mang những đặc điểm riêng của khí hậu miền Trung. Khí hậu được chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa khí hậu nóng từ tháng 5 đến tháng 10 hằng năm, mùa lạnh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 hằng năm. Yếu tố khí hậu thôn 1 - 5 nhìn chung thuận lợi cho phát triển các loại cây trồng vật nuôi, song biên độ nhiệt giữa các mùa trong năm lớn, mưa tập trung, nắng nóng khô hanh là nguyên nhân gây hạn hán, lũ lụt, xói mòn bồi lấp và hủy hoại đất. Nhiệt độ trung bình của các tháng trong năm thường vào khoảng 220 - 280 với độ ẩm trung bình dao động 84% trong nhiều năm. Với điều kiện khí hậu thuận lợi như vậy cho phép phát triển sản xuất nông nghiệp đặc biệt là cây chè. Các loại tài nguyên Tài nguyên đất Tài nguyên đất của thôn khá phong phú và đa dạng nhưng chủ yếu là đất phù sa và đất đồi núi. Đất phù sa: bao gồm các bãi bồi ven sông, đất phù sa được bồi tụ hằng năm. Loại đất này có diện tích lớn chiếm khoảng 18,2% tổng diện tích đất tự nhiên, tập trung chủ yếu hai bên các con sông và dưới các chân núi thấp. Đây là nguồn tài nguyên phát triển ngành nông nghiệp của thôn thích hợp với trồng hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên hiện nay cần có những biện pháp bảo vệ tránh lũ lụt, tránh xói mòn như trồng rừng đầu nguồn, trồng rừng ven sông. Đất đồi núi: chủ yếu là đất Feralit chiếm 78,2% tổng diện tích đất tự nhiên, tập trung chủ yếu ở các vùng đồi núi thấp. Đất Feralit bao gồm nhiều loại phong phú đa dạng phân bố theo địa hình đồi núi và độ cao khác nhau: feralit nâu vàng, feralit nâu đỏ, feralit đỏ vàng… Đây là nguồn tài nguyên tập trung để phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp và cây lâm nghiệp. Bên cạnh đó hiện tượng chặt phá rừng nghiêm trọng đã làm cho nguồn tài nguyên này ngày càng bị thoái hóa nghiêm trọng, vì vậy chính quyền và nhân dân phải có những biện pháp khắc phục và bảo vệ. Tài nguyên rừng Diện tích đất lâm nghiệp của thôn có khoảng 175,4ha chiếm 58,55% diện tích đất tự nhiên của thôn và chiếm 3,89% diện tích đất lâm nghiệp của cả xã. Trong đó, 78,41ha là diện tích rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ chiếm 41,57ha, diện tích đặc dụng chiếm 22,9ha. Tiềm năng về lâm nghiệp của huyện tập trung khá lớn, đất lâm nghiệp chủ yếu tập trung ở đồi núi thấp, độ dốc nhỏ,thổ dưỡng tốt. Vì vậy cần phải bảo vệ chăm sóc tốt dể rừng tái sinh nhanh. Nhận xét: Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, các nguồn tài nguyên và cảnh quan môi trường cho thấy thôn có nhiều tiềm năng phát triển các ngành kinh tế - xã hội theo hướng tăng dần tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều kiện đất đai phù hợp với nhiều loại cây trồng cho phép phát triển ngành nông – lâm nghiệp đa dạng và phát triển ngành công nghiệp chế biến làm cơ sở cho CNH – HĐH trên địa bàn thôn. Tuy nhiên thôn cũng còn gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Diện tích với ¾ là dồi núi, địa hình dốc bị chia cắt nhiều gây cho khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Mặt khác điều kiện khí hậu hằng năm có nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp của thôn như: gió Lào Tây Nam khô, hạn hán, lũ lụt… * Điều kiện kinh tế - xã hội: Theo thống kê đến ngày 31/12/2010 dân số của thôn là 375 người với 120 hộ. Phần lớn dân số tập trung ở khu vực nông thôn. Mật độ bình quân cả thôn là 1,68 người/km2. Tổng dân số trong độ tuổi lao động của thôn năm 2009 là 211người chiếm 54,46% dân số, trong đó lao động nữ chiếm 41,51%. Thu nhập bình quân đầu người của thôn năm 2009 là 14,6 triệu đồng/người/năm tăng hơn nhiều so với các năm trước đó. Các mục tiêu xóa đói giảm nghèo đặc biệt được thôn quan tâm, theo đánh giá thì năm 2009 tỷ lệ đói nghèo của thôn chỉ còn 24,6% giảm 9,5% so với năm 2000. Sản xuất nông nghiệp đã có những bước phát triển tích cực, đạt được những thành tựu khả quan, tuy nhiên còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tự nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp còn chậm và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thôn, chưa hình thành các vùng chuyên canh có quy mô lớn mang tính sản xuất hàng hóa, việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong công tác khuyến nông khuyến ngư phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và tiềm năng của thôn. Ngành thương mại dịch vụ trên địa bàn thôn chủ yếu phát triển các hệ thống chợ và buôn bán nhỏ lẻ của hộ nông dân. Ngành dịch vụ của thôn chủ yếu là dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy cần phải kích thích phát triển sản xuất mở rộng thêm nhiều ngành dịch vụ mới đáp ứng đươc nhu cầu đời sống sinh hoạt sản xuất. CHƯƠNG II PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG SINH KẾ VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN Các nguồn vốn sinh kế của thôn 1 – 5 Các tài sản sinh kế là nền tảng của cuộc sống cộng đồng, việc lựa chọn và quyết định các hoạt đông sinh kế tạo thu nhập có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố chủ quan và khách quan, người dân tùy thuộc vào việc sử dụng vào nguồn vốn và lựa chọn những phương thức sinh kế cho mình tạo ra kết quả sinh kế. Từ đó kết quả sinh kế tác động ngược trở lại việc nắm giữ, xây dựng và sử dụng các nguồn vốn, các yếu tố để phát triển hoạt động sinh kế, chống chọi những tổn thương và những cú sốc. Nhằm trả lời cho vấn đề về khả năng có các nguồn vốn sẵn có khác nhau, việc sử dụng nguồn vốn và mối quan hệ của chúng với việc lựa chọn hoạt động sinh kế tạo ra kết quả sinh kế, đề mục này sẽ trình bày từng lĩnh vực nghiên cứu mang tính phân tích, mô tả, so sánh. Các nguồn lực sinh kế bao gồm: nguồn vốn con người – “ trình độ học vấn, kĩ năng, sức khỏe, kiến thức…” , nguồn vốn xã hội – “mạng lưới xã hội và các mối quan hệ xã hội” , nguồn vốn tài chính – “ tiền mặt, tín dụng, tiền vay vốn, tiền tiết kiệm,…” , nguồn vốn vật chất – “ cơ sở hạ tầng, tài sản trong gia đình, công cụ lao động…” , nguồn vốn tự nhiên – “đất đai, khí hậu, nguồn nước, tài nguyên…” , chính sách thể chế và những bối cảnh tổn thương khác. Những nguồn vốn sinh kế, chính sách thể chế và những bối cảnh tổn thương có tác động rất lớn đối với hoạt động sinh kế của người dân vì nó quyết định tới sự lựa chọn đến chiến lược sinh kế riêng của họ. Nguồn vốn con người Nguồn vốn con người được xem như là một nguồn vốn quan trọng nhất trong chiến lược phát triển sinh kế, con người là một chủ thể tạo ra các hoạt động sinh kế. Đồng thời, các thành tố thuộc về con người như: sức khỏe, kiến thức, kĩ năng, nhận thức đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định và phát triển chiến lược sinh kế. Sức khỏe – là nguồn lao động là sơ sở nền tảng để con người thực hiện các hoạt động sinh kế, trình độ học vấn, nhận thức và kĩ năng là những yếu tố để đưa ra quyền quyết định và lựa chọn phương thức sinh kế phù hợp với khả năng. Hay nói một cách khác là kết quả và hành vi sinh kế của hộ gia đình tùy thuộc nhiều vào nguồn vốn mà con người sẵn có như: lực lượng lao động trong gia đình, kĩ năng, kiến thức, nhu cầu và mục đích của từng cá nhân…vv. Chỉ tiêu ĐVT Năm 2010 I.Tổng số hộ Hộ 120 Hộ nông nghiệp Hộ 110 Hộ phi nông nghiệp Hộ 10 II.Tổng nhân khẩu Khẩu 375 III.Tổng số lao động LĐ 211 (Theo thống kê của ban mặt trận thôn 1 – 5) H.1Biểu đồ thể hiện cơ cấu ngành của thôn 1 – 5 Xét về nguồn lao động, thôn 1 – 5 có một lực lượng lao động khá dồi dào với cơ cấu lao động trẻ. Số thành viên trung bình trên mỗi hộ gia đình là 4 người, và tỉ lệ nam là 49,5% và nữ chiếm 51,5%, số liệu này được thu thập dựa trên những thành viên trong gia đình hiện nay đang cư trú trên địa bàn, không bao gồm con cái đã tách ra khỏi hộ. Số con trung bình của các hộ là 3,2 con, với tình hình như vậy thì việc đầu tư cho con cái cả mặt vật chất lẫn trí tuệ trong địa bàn thôn khá thuận lợi và không gặp những trở ngại đáng kể trong vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống. Theo thống kê số liệu cho biết, lứa tuổi thanh thiếu niên hiện tại có trình độ khá cao và đồng đều có tới 98,9% được đi học hết cấp 3 và trong tổng số thanh niên trên địa bàn thôn có khoảng 30% hiện đang có trình độ cao đẳng và đại học. Chỉ có 0,4% trong tổng dân số của thôn là mù chữ. 20,2% học hết cấp 1, 35,7% học hết cấp 2. Có 39,1% dân số học hết cấp 3. Và 5,0% dân số có trình độ đại học, cao đẳng. H.2. Biểu đồ trình độ học vấn của người dân thôn 1 - 5 (Nguồn: Số liệu phân tích từ ban mặt trận thôn) Qua biểu đồ trên, nhìn chung trình độ học vấn của người dân khá cao, tỉ lệ người có trình độ chiếm chủ yếu trong tổng dân số của thôn. Chính trình độ học vấn cao như vậy nên khả năng lựa chọn nghề nghiệp cũng như lựa chọn kế sinh nhai của người dân được đảm bảo và ngày càng được cải thiện về cuộc sống trong gia đình nói riêng, và cộng đồng thôn nói chung. Tuy nhiên, với mức trình độ như vậy so với thực tế ngoài xã hội hiện nay thì người dân khó có thể tìm kiếm được một công việc có mức thu nhập cao khi mà xã hội ngayd càng hiện đại và đòi hỏi cao nguồn lao động trí tuệ, có trình độ chuyên môn. Vì vậy, người dân buộc phải lựa chọn những công việc thiên về tính chất lao động chân tay, đòi hỏi sức lực dồi dào, kĩ năng thấp mà ít đòi hỏi trình độ những công việc ấy. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng người dân có trình độ ở mức chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là hiện tại dân số trong thôn trước đây xuất thân từ những gia đình thuần nông nhưng đời sống gặp nhiều khó khăn nên không có điều kiện học hành nâng cao dân trí, tuy nhiên trong những năm trở lại đây, các bậc cha mẹ đã ý thức được tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ cho con em mình, họ ý thức được chính trình độ dân trí thấp là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo đói. Vì thế tất cả các gia đình trong thôn đều cho con cái mình đi học, với mục đích nâng cao trình độ cho thế hệ tương lai, tạo nguồn nhân lực có trình độ có chuyên môn nhằm phục vụ quê hương và đất nước. Có thể nói hiện tại về nguồn vốn con người, sức khỏe của người dân hiện đang là yếu tố chủ đạo quyết định hiệu quả của các hoạt động sinh kế. Mặc dù tỉ lệ dân số trong thôn có 90,4% làm trong ngành nông nghiệp nhưng đời sống của người dân không quá thấp so với mức bình quân của cả nước, bình quân lương thực/đầu người của thôn 1 – 5 là 300kg/năm. Bình quân mức thu nhập của người dân là 15 triệu đồng/năm. Tổng thu nhập của cả thôn năm 2010 là 6,2 tỷ đồng. Với mức thu nhập như vậy thì có thể đánh giá được đời sống của người dân sống trên địa bàn là khá cao, và bền vững. Nguồn vốn con người là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng một chiến lược sinh kế hiệu quả và phát triển lâu dài. Nguồn vốn này nếu được trau dồi và chú trọng thì trong tương lai có thể khắc phục được những hạn chế của các yếu tố khác như tài chính, vật chất, tự nhiên, xã hội…Ngược lại một khi mà nguồn vốn con người không được chú trọng, ngày càng hạn hẹp thì đó sẽ là bức tường cản trở gây nên khó khăn trong đời sống của người dân. Nguồn vốn xã hội Quá trình xã hội hóa được thể hiện qua sự tương tác diễn ra hàng ngày trong lao động sản xuất cũng như các quá trình khác diễn ra trong đời sống của người dân, con người sống và tồn tại trong xã hội, trực tiếp tham gia vào mạng lưới xã hội. Dĩ nhiên sự tác động từ phía xã hội cũng là một yếu tố quyết định tới các hoạt động sinh kế của chính họ. Thôn 1 – 5 là một hệ thống xã hội nhỏ nằm trong một xã hội lớn hơn bao trùm, mỗi thành viên tham gia vào mạng lưới xã hội có những chức năng, vai trò, nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau. Thôn có người đứng đầu quản lý là thôn trưởng và đội trưởng cùng bộ máy lãnh đạo trong thôn, như: ban mặt trận, ban đảng ủy, ban công an…Những bộ người này cùng với bộ máy lãnh đạo có trách nhiệm đứng ra giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng, thông tin cho bà con các nghị quyết, thể chế chính sách, các quyền lợi của nhân dân. Những người dân trong thôn có mối liên kết, quan hệ hàng xóm, láng giềng thắm thiết do ở cạnh nhà nhau, mọi người thường xuyên giúp đỡ, chia sẻ với nhau những lúc khó khăn, bệnh tật. Với đặc điểm đời sống của người dân còn mang đậm cộng động làng xã của Việt Nam nên người dân trong thôn sống trong mối quan hệ cộng đồng gắn bó, cùng sống trong một môi trường, cùng có những hoạt động sinh kế giống nhau, cho nên họ thành lập lại những nhóm hội như: hội trồng chè, hội trồng dưa hấu, hội nghề cá… nhằm bảo vệ quyền lợi cũng như cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm trong cách làm ăn, chia sẻ giúp đỡ với nhau trong hoạn nạn, khó khăn. Theo thống kê, có 100% người dân tham gia vào hội phụ nữ, 100% số người trong độ tuổi thanh niên tham gia vào đoàn thanh niên, 100% các hộ gia đình tham gia vào hội trồng chè của thôn. Sở dĩ, tất cả người dân đều tham gia vào các tổ chức đoàn thể như vậy vì người dân được hỏi cho rằng khi họ tham gia vào các tổ chức như vậy sẽ được hưởng các quyền lợi từ các tổ chức ấy như được tham gia các buổi tập huấn về các phương thức làm ăn, được hoạt động vui chơi, phong trào ở địa phương trong những ngày lễ, ngày hội…vv. Bên cạnh việc người dân tham gia vào các tổ chức chính thức nêu trên thì một số bộ phận người dân mà chủ yếu là những hưu trí trong thôn tham gia vào các “Phường” với số lượng từ 5 – 7 người nhằm mục đích gửi tiền tiết kiệm rút theo từng quý, với hình thức này cứ trong 3 tháng thì người dân khi tham gia vào hội phường sẽ tiết kiệm được số tiền từ 5 – 7 triệu đồng. Ở mức độ mạng lưới xã hội rộng hơn, thôn được sự quan tâm của chính quyền UBND xã và được hưởng những hỗ trợ của các chương trình quốc gia 135 giai đoạn 2001 – 2005. Và giai đoạn từ năm 2006 – 2010. Bên cạnh đó, người dân còn được hưởng các quyền lợi từ các dịch vụ hỗ trợ cứu đói thường niên của nhà nước như: chương trình hỗ trợ người dân trong các đợt tết về tiền của và lương thực. Có thể nói người dân khi tham gia vào mạng lưới xã hội, và nằm trong các mối quan hệ ấy, đương nhiên các hoạt động sinh kế của thôn chịu sự tác động từ bối cảnh thể chế của nguồn vốn xã hội. Mối quan hệ cộng đồng mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp nhưng có vai trò gián tiếp ảnh hưởng tới các hoạt động sinh kế của người dân với tư cách là một nguồn vốn xã hội. Nguồn vốn tự nhiên Yếu tố tự nhiên có vai trò rất quan trọng đối vơi con người trong quá trình tồn tại và phát triển, đặc biệt là đối với người dân thôn 1 – 5 đa số các hoạt động sinh kế của họ dựa vào nông nghiệp. Hàng ngày, con người sử dụng nguồn nước, đất, không khí để tồn tại và các nguồn tài nguyên khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mình. Mỗi sự biến đổi của tự nhiên, môi trường đều có mối quan hệ mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sinh kế của con người. Trong các nguồn tài nguyên thiên nhiên, có thể nói đất đai là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng và thiết yếu, nguồn tài nguyên này mang lại nhiều lợi ích nếu con người biết cách khai thác và sử dung hợp lí nó một cách bền vững. Mặc dầu nằm trong huyện miền núi của tỉnh Nghệ An nhưng địa thế ban cho người dân thôn 1 – 5 một diện tích đất khá màu mỡ và dồi dào, trong địa bàn thôn diện tích đất nông nghiệp chuyên để sản xuất hoa màu cây công nghiệp dài ngày (đặc biệt cây chè) và cây ngắn ngày chiếm hơn 80% tổng diện tích đất tự nhiên, điều này mang lại điều kiện thuận lợi cho việc canh tác và lựa chọn hoạt động sinh kế hiệu quả cao là trồng, chế biến chè xuất khẩu và trồng hoa màu cung cấp nhu cầu thực phẩm trong nước. Số diện tích đất còn lại là đất phù sa ven sông lam và đất trồng rừng chuyên dụng chiếm khoảng 10% tổng diện tích đất của cả thôn. Loại đất Năm 2010 Diện tích (ha) Tỉ lệ (%) Tổng diện tích đất tự nhiên 20,5 100 1.Đất nông nghiệp 16,4 80 Đất trồng cây hàng năm 1,3 7,9 Đất trồng lúa 2,1 12,8 Đất trồng hoa màu 4,3 26,02 Đất trồng chè 8,7 53,04 2.Đất thổ cư 0,5 2,43 3.Đất lâm nghiệp 3,6 17,5 H.3.Tình hình sử dụng đất của thôn 1 – 5 năm 2010 (Nguồn: Ban thống kê của xã) H.4. Biểu đồ thể hiện tình hình sử dụng đất của thôn năm 2010 Bên cạnh nguồn đất đai thuận lợi trong việc tiếp cận và sử dụng cho hoạt động sinh kế của người dân, các yếu tố về các nguồn tự nhiên khác cũng như nguồn nước đều không gặp trở ngại và khó khăn trong tiếp cận. Tất cả người dân trong thôn đều được sử dụng nguồn nước sạch từ mạch nước ngầm. Ngoài nguồn nước để phục vụ sinh hoạt cho người dân đầy đủ và dồi dào, thì nguồn nước để phục vụ tưới tiêu cũng như phục vụ cho hoạt động sản xuất đáp ứng được nhu cầu của bà con. Với vị trí địa lí tiếp giáp với dòng sông Lam nên người dân tận dụng nguồn nước ngọt ấy để tưới tiêu phục vụ hoạt động sản xuất, còn nguồn nước trong các ao, hồ, kênh, rạch người dân sử dụng vào hoạt động trồng cây lúa, tưới tiêu trong vườn. Với các điều kiện thuận lợi như vậy, người dân trong thôn đã khai thác tốt nguồn lợi sẵn có từ thiên nhiên. Như vậy, nguồn tài nguyên thiên nhiên của thôn 1 – 5 rất dồi dào và phong phú, chính điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sinh kế của người dân. Người dân ở đây có đủ diện tích đất để trồng trọt, chăn nuôi, rất dồi dào về nguồn nước phục vụ cho sản xuất và các hoạt động sinh kế dựa vào ngành nông nghiệp. Nguồn vốn vật chất Vật chất là một yếu tố thiết yếu trong cuộc sông của chúng ta, nguồn vốn này bao gồm cơ sở hạ tầng, nhà ở, nhà ở, các công cụ sản xuất… Theo thống kê ở thôn 1 – 5 hiện nay, tình trạng nhà ở có 100% nhà mái ngói, nhìn chung hầu hết các ngôi nhà của thôn 1 – 5 thuộc loại kiên cố, có 99,2% thuộc nhà kiên cố. Với thực trạng nhà ở như trên thì có thể thấy môi trường sống của người dân thuộc vào dạng nhà ở an toàn, đa số nhà ở kín gió, cao ráo, thoáng mát, điều này góp phần giúp người dân có tinh thần và khỏe mạnh, đặc biệt khi thời tiết xảy ra các thiên tai, phức tạp. Trong những năm trở lại đây, được sự hỗ trợ của chương trình 135 cùng với đóng góp của nhân dân, các con đường vào thôn đã được bê tông hóa phục vụ nhu cầu đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa dễ dàng cho bà con góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong các hoạt động sinh kế. Tài sản vật chất trong gia đình cũng được xem như là một nguồn vốn quan trọng, nguồn vốn này được thể hiện qua biểu đồ sau: H.4. Nguồn tài sản vật chất trong gia đình ( Nguồn: Ban thống kê của thôn) Qua biểu đồ ta thấy nguồn tài sản của thôn 1 – 5 tương đối phong phú, 100% số hộ gia đình đều có tivi, 96,4% có đầu đĩa DVD…những phương tiện này một mặt góp phần đáp ứng nhu cầu giải trí của người dân, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận các nguồn thông tin về kinh tế - xã hội, giá cả thị trường, biến động của thời tiết. Có tới 85% số hộ có xe máy, hầu hết người dân trong thôn sản xuất nông nghiệp đều cần phải có xe máy để chở các sản phẩm từ nông nghiệp như: bắp cải, dưa hấu, đặc biệt là chè để nhập cho nhà máy chế biến chè cách đó khoảng 5km. Các tài sản khác như điện thoại bàn hay điện thoại di động đều được người dân trang bị đầy đủ để thuận tiện trong việc liên lạc tiêu thụ các sản phẩm do họ làm ra. Theo thống kê, số hộ giàu chiếm 15,1%, số hộ khá chiếm 71,2%. Số hộ trung bình chiếm 11,3%. Và số hộ nghèo chỉ chiếm 3,4%. Có 95% được UBND xã công nhận gia đình văn hóa. Với sự phát triển chung của xã hội, cùng với sự hợp lý trong lựa chọn các hoạt động sinh kế phù hợp thì đời sống vật chất của người dân thôn 1 – 5 ngày càng được nâng cao rõ rệt. Đây được xem là nền tảng vững chắc cho việc tạo lập một sinh kế bền vững. Nguồn vốn tài chính Nguồn vốn tài chính là một nguồn vốn quan trọng trong việc đầu tư các hoạt động sinh kế tạo nguồn thu nhập. Nguồn vốn tài chính được hiểu là nguồn tiền mặt được sử dụng trong các hoạt động sản xuất. Như chúng ta đã biết khi không có các nguồn vốn để làm ăn sinh sống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tới việc quyết định và lựa chọn việc làm và nguồn thu nhập. Việc tiếp cận nguồn vốn tài chính của người dân thôn 1 – 5 từ nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan tác động. Nhưng hầu hết họ chỉ sử dụng sức lao động bằng chân tay để tạo nguồn thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chỉ có một số ít hộ trong thôn là công chức nhà nước, và buôn bán dịch vụ. Thông thường, mức tiền mặt thường xuyên là từ các hoạt động sinh kế tạo ra nguồn thu nhập. Thu nhập bình quân trên đầu người của người dân thôn 1 – 5 là 15,3 triệu đồng/ năm. Hầu hết người dân có nguồn vốn tích trữ, nhưng không nhiều, mỗi tháng chỉ tiết kiệm được khoảng 400 – 500 ngàn. Bởi vậy, người dân không thể có khả năng đầu tư các hoạt động buôn bán, làm ăn lớn được mà chỉ dựa vào sức lao động của bản thân. Chính nguồn vốn tài chính không dồi dào cũng là nguyên nhân làm cho cơ hội lựa chọn các hoạt động sinh kế của người dân trở nên hạn chế. Có thể nói, tình trạng thiếu vốn không chỉ gặp phải ở người dân thôn 1 – 5 mà hầu hết người dân trong bộ phận hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thiếu vốn làm ăn, con người thiếu đi một phương tiện quan trọng để thực hiện các hoạt động sinh kế. Đặc biệt khi nguồn vốn tài chính hạn hẹp đi kèm với nguồn lực con người thiếu và yếu về mặt tri thức là con đường dẫn đến nghèo đói. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của các ban ngành và các tổ chức can nhà nước cũng như nước ngoài sẽ tạo nền tảng vững chắc cho người dân thôn 1 – 5 nói riêng và người dân cả nước nói chung góp phần tạo dựng một mô hình sinh kế bền vững. Các hoạt động sinh kế của người dân thôn 1- 5 xã Cẩm Sơn - huyện Anh Sơn – Tỉnh Nghệ An hiện nay Hoạt động sản xuất nông nghiệp Có thể nói thôn 1 – 5 có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành nông nghiệp, với diện tích đất nông nghiệp chiếm 80% so với tổng diện tích đất tự nhiên của cả thôn. Thêm vào đó hầu hết diện tích đất để nuôi trồng và canh tác màu mỡ rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây hoa màu ngắn ngày. Trong thôn ngoài diện tích đất chuyên dụng dành cho trồng trọt còn có diện tích ao hồ khá lớn, có khoảng gần 30 hộ có ao hồ, đây là điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt, thay vì nguồn nước ao hồ chỉ dùng cho nuôi cá thì người dân tận dụng nguồn nước ấy cho việc tưới tiêu. H.5. Biểu đồ thể hiện các hoạt động sinh kế của người dân Theo thống kê, năm 2010 cả thôn có tổng sản lượng từ nông nghiệp là 28 tấn, sản lượng lương thực của cả năm là 87,6 tấn, bình quân lương thực trên đầu người của thôn là 300kg/ người/ năm. So với mấy năm trước đây tình hình sản xuất nông nghiệp của người dân tăng lên rõ rệt. Đây là kết quả của sự lựa chọn hoạt động sinh kế phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng cũng như nhu cầu lương thực, thực phẩm của xã hội đang ngày càng nâng cao mức sống. Hoạt động trồng trọt Trong những năm gần đây, ở thôn 1 – 5 về lĩnh vực hoạt động trồng trọt có những biến chuyển đáng kể, số hộ làm vườn trong thôn là 40 hộ, chiếm 37,03%, sản lượng lúa đạt 14 tấn, đủ cung ứng lương thực cho người dân và tăng nguồn thu nhập, sản lượng ngô trong năm 2010 đạt 15,4 tấn, đem về nguồn lợi nhuận hơn 79 triệu cho cả thôn, đáng kể đến là nguồn thu nhập từ cây chè và trồng rau màu ở địa bàn thôn. Nguồn lợi từ rau màu là 300 triệu đồng đạt 95,9% kế hoạch tăng gia sản xuất, sản phẩm từ rau màu chủ yếu được người dân địa phương làm nguồn thức ăn hàng ngày và đi bán ở chợ của xã kiếm thêm nguồn thu nhập bổ sung, cải thiện bữa ăn của người dân. Đặc biệt, ở thôn 1 – 5 phải kể đến hoạt động sinh kế d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá hoạt động sinh kế của người dân miền núi thôn 1-5 Nghệ An.doc
Tài liệu liên quan