DANH MỤC VIẾT TẮT 2
ĐẶT VẤN ĐỀ 3
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Đối tượng nghiên cứu .14
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 15
2.3. Phương pháp nghiên cứu 15
2.4. Chỉ số nghiên cứu 15
2.5. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu 16
2.6. Xử lý và phân tích số liệu 16
2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 17
CHƯƠNG III: DỰ KIẾN KẾT QUẢ 17
1. Dự kiến kết quả 17
2. Bàn luận 20
CHƯƠNG IV: DỰ KIẾN BÀN LUẬN, KẾT LUẬN 21
CHƯƠNG V: DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ 22
25 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 12/02/2022 | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tình trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con 0 - 24 tháng tuổi tại 10 huyện miền núi tỉnh Nghệ An năm 2019, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ Y TẾ NGHỆ AN
TRUNG TÂM Y TẾ DỰ PHÒNG TỈNH
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP CƠ SỞ
“ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 0-24 THÁNG TUỔI TẠI 10 HUYỆN MIỀN NÚI
TỈNH NGHỆ AN NĂM 2019”
Người thực hiện:
Ths. Trần Minh Long
CN. Đặng Thị Cảnh
Bs. Nguyễn Văn Hà
Vinh, tháng 3 năm 2019
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
NCBSM
Nuôi con bằng sữa mẹ
NCBSMHT
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
UNICEFF
Qũy Nhi đồng Liên hợp quốc
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm giúp cho trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ. Lợi ích của việc NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã hội đã được thừa nhận. Sữa mẹ cung cấp cho trẻ những chất dinh dưỡng cần thiết, những kháng thể chống bệnh tật giúp trẻ khoẻ mạnh[2]. Cho trẻ bú mẹ có thể làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của các bệnh nhiễm trùng và do đó làm giảm nguy cơ tử vong sơ sinh. Theo ước tính của Qũy Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), bú mẹ trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 1,3 triệu ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, NCBSM sẽ góp phần làm giảm 13% ca tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi. Cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 22% các ca tử vong sơ sinh tại Việt Nam[2]. Ngoài ra những trẻ được bú mẹ hoàn toàn và được nuôi bằng sữa mẹ khi trưởng thành có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type II, béo phì, tăng huyết áp, mắc các bệnh tim mạch, rối loạn lipid máu thấp hơn nhóm trẻ được nuôi bằng sữa ngoài[3]. Cho con bú không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho bé mà còn tốt cho sức khỏe của mẹ. NCBSMHT trong 6 tháng đầu còn có thể hạn chế có thai trở lại sớm[2]. Bên cạnh đó, cho bú sớm còn giúp bà mẹ co hồi tử cung, giảm mất máu sau sinh và NCBSM còn có tác dụng giảm nguy cơ mắc ung thư vú, ung thư buồng trứng sau này[2]. Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm nguy cơ loãng xương khi đến thời kì mãn kinh. Ngoài ra, nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong sáu tháng đầu có liên quan đến một phương pháp về kiểm soát sinh đẻ tự nhiên (98% bảo vệ trong 6 tháng đầu sau khi sinh) [5,18].
NCBSM HT trong sáu tháng đầu đời là rất quan trọng đối với quá trình phát triển của trẻ. UNICEF đã đưa ra thông điệp truyền thông về việc NCBSM: cho trẻ bú ngay trong giờ đầu tiên sau khi sinh; cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu, không uống nước, không ăn sữa bột, không ăn bổ sung; và trẻ càng bú nhiều, mẹ càng tiết ra nhiều sữa [6]. WHO cũng khuyến nghị nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu: sau 6 tháng, thức ăn đặc, như trái cây và rau nghiền, nên được sử dụng làm thức ăn bổ sung bên cạnh sữa mẹ cho đến khi trẻ hai tuổi hoặc hơn. Thêm vào đó: nên cho trẻ bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh; nên cho trẻ bú theo “nhu cầu”, bất cứ khi nào trẻ muốn kể cả ngày và đêm; và không cho trẻ bú bình và núm vú giả [18].
Mặc dù sữa mẹ là công thức dinh dưỡng hoàn hảo nhất cho trẻ 6 tháng đầu đời của trẻ, hiện ở Việt Nam chỉ có 19,6% phụ nữ cho con bú hoàn toàn trong giai đoạn quan trọng này. Tỉ lệ này thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ trung bình của thế giới - 35% các bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Không cho con bú sớm, không cho con bú hoàn toàn và không tiếp tục cho con bú lâu dài cũng như thiếu chế độ ăn bổ sung phù hợp đã dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe của trẻ. Một phần ba trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi bị thấp còi và cứ trong 5 trẻ lại có 1 trẻ bị thiếu cân [9].
Hiện nay, việc nuôi con bằng sữa mẹ đang giảm trầm trọng, không chỉ ở thành phố lớn mà còn lan rộng đến các vùng nông thôn. Nhiều hội nghị về công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em cũng đã lên tiếng báo động về thực trạng đáng lo ngại này[10]. Hiện nay Bộ Y tế Việt Nam đã khuyến cáo các bà mẹ cần nuôi trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ trong vòng 6 tháng đầu sau sinh, nhưng trên thực tế, có nhiều bà mẹ vì nhiều lí do như mẹ thiếu sữa, bận rộn công việc, mẹ bị bệnh, nhiễm HIV vẫn cho trẻ ăn thêm sữa ngoài.
Từ những nghiên cứu trên cho thấy tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ đúng cách và hoàn toàn trong 6 tháng đầu còn chưa cao, điều này có lẽ do nhiều nguyên nhân tác động. Nhằm đánh giá tình trạng nuôi con bằng sữa mẹ tại một số huyện miền núi vùng cao tỉnh Nghệ An năm 2019. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá tình trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con từ 0-24 tháng tuổi tại 10 huyện miền núi vùng cao tỉnh Nghệ An” với các mục tiêu sau:
Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em từ 0-24 tháng tuổi tại 5 huyện miền núi vùng cao tỉnh Nghệ An năm 2019.
Đánh giá tình trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con từ 0-24 tháng tuổi tại 5 huyện miền núi vùng cao tỉnh Nghệ An năm 2019.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1. Khái niệm và những hiều biết cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ
1.1 Các khái niệm cơ bản sử dụng trong nghiên cứu
Sữa đầu bữa: Có màu hơi xanh, số lượng nhiều và cung cấp nhiều protein, lactose, nước và các chất dinh dưỡng khác. [11]
Sữa cuối bữa: Có màu trắng vì chứa nhiều chất béo hơn sữa đầu bữa. Chất béo cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ, điều quan trọng là cần để trẻ bú hết sữa cuối, không để trẻ nhả vú sớm quá. [11]
Sữa non: Là loại sữa mẹ đặc biệt, được tiết ra trong vài giờ đầu sau đẻ. Sữa non sánh đặc, có màu vàng nhạt hoặc trong. Sữa non chứa nhiều protein hơn sữa trưởng thành. [11]
Nuôi con bằng sữa mẹ: là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc uống sữa từ vú mẹ vắt ra [20].
Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ: là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc uống sữa từ vú mẹ vắt ra, ngoài ra không ăn bất kì loại thức ăn dạng lỏng hay rắn nào khác trừ các dạng vitamin, khoáng chất bổ sung hoặc thuốc[15].
Nuôi con bằng sữa bình: cho trẻ bú bằng bình sữa, bất kể sữa gì trong bình, kể cả sữa mẹ vắt ra[15].
Bú mẹ chủ yếu: là cách nuôi dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính là sữa mẹ, tuy nhiên trẻ có thể nhận thêm nước uống đơn thần, hoặc một số dung dịch dinh dưỡng như nước hoa quả, nước đường hoặc các loại thức ăn lỏng cổ truyền với số lượng ít [15].
Bú sớm: trẻ sẽ nhận được sữa non, là nguồn thức ăn phù hợp với bộ máy tiêu hóa của trẻ và tăng sức đề kháng chống lại các bệnh truyền nhiễm khi sinh. Bú sớm cũng giúp trẻ bú đúng cách ngay từ ban đầu và việc nuôi con bằng sữa mẹ dễ thành công[3, 21].
Cho trẻ bú sớm sau sinh: việc trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh[21].
Hiện tượng xuống sữa: là hiện tượng số lượng sữa nhiều hơn làm 2 bầu vú bà mẹ đầy, căng cứng [21].
Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn: được tính bằng tỷ số giữa số trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn trong 24 giờ trên tổng số trẻ 6 tháng[20].
1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ
Sữa mẹ được coi là một loại vắc-xin có thể phòng tránh tử vong cho trẻ, chi phí thấp, an toàn, có thể uống trực tiếp và không cần bảo quản lạnh [20]. Sữa mẹ được bài tiết theo cơ chế phản xạ, khi trẻ bú xung động cảm giác từ vú lên não kích thích cơ thể bà mẹ sản sinh ra hóc môn prolactin và oxytocin. Trong đó prolactin sẽ kích thích tuyến sữa tạo sữa, oxytocin có tác dụng giúp sữa được phun ra [21,15]. Dựa vào thời điểm tiết và tính chất mà sữa mẹ được chia làm những loại như sau:
1.2.1. Sữa non
Sữa non là loại sữa mẹ đặc biệt, được hình thành từ tuần 14-16 của thai kì và được tiết ra từ lúc sinh đến 2-3 ngày sau khi sinh [16, 21]. Trẻ bú sớm sẽ nhận được sữa non, là thức ăn phù hợp với bộ máy tiêu hóa của trẻ. Sữa non đặc sánh, màu vàng nhạt, chứa nhiều chất chống nhiễm khuẩn và kháng thể để bảo vệ cơ thể cho trẻ. Ngoài ra, sữa non còn có nhiều đặc tính khác như: có nhiều tế bào bạch cầu, giàu Vitamin A, có yếu tố tăng trưởng biểu bì một, chất đạm lactalbumin dưới tác dụng của dịch tiêu hóa sẽ biến đổi thành những phân tử nhỏ giúp trẻ dễ hấp thụ [19].
Sữa non đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và bảo vệ trẻ. Sữa non chứa nhiều tế bào bạch cầu, kháng thể hơn sữa trưởng thành nên giúp trẻ sơ sinh phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm và cung cấp khả năng miễn dịch đầu tiên cho trẻ để chống nhiều bệnh mà trẻ có thể bị mắc sau đẻ [3,21]. Vitamin A trong sữa non có tác dụng làm giảm độ nặng của các bệnh nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, sữa non còn có tác dụng xổ nhẹ, tăng bài tiết phân xu, phòng các bệnh dị ứng và cũng có tác dụng thải bilirubin ra khỏi ruột làm giảm mức độ vàng da sinh lý [3,21].
Sữa non tuy ít nhưng thỏa mãn được nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh do lượng protein cao gấp 2-3 lần sữa trưởng thành [3,15]. Hàm lượng kháng thể và vitamin cao nhất trong sữa non trong vòng 60 phút sau khi sinh sau đó giảm dần.
Như vậy, trẻ được bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là vô cùng quan trọng. Chúng ta không nên cho trẻ bất cứ thức ăn, nước uống nào trước khi trẻ bắt đầu bú sữa non.
1.2.2. Sữa trưởng thành
Sữa trưởng thành là sữa mẹ sản xuất ra sau đẻ vài ngày, số lượng sữa nhiều hơn làm hai bầu vú bà mẹ căng đầy và cứng, người ta gọi đây là hiện tượng sữa về.
Trong sữa mẹ có đủ các chất dinh dưỡng như: Protein, Glucid, Lipid, Vitamin và khoáng chất đủ cho trẻ phát triển trong 6 tháng đầu. Thành phần các chất dinh dưỡng ở một tỷ lệ thích hợp và dễ hấp thu đáp ứng với sự phát triển nhanh của trẻ [15,21]. Sữa mẹ luôn luôn tự nhiên, tinh khiết, sạch sẽ và thay đổi theo thời gian nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng thay đổi của trẻ. Sữa mẹ giúp cho trẻ tránh được bệnh tật, dị ứng, béo phì và các bệnh tật khác [15,21]. Vì vậy, sữa mẹ là thức ăn duy nhất mà trẻ nhỏ cần trong 6 tháng đầu.
1.3. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ và lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
1.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi
Nhu cầu năng lượng của trẻ đủ tháng, cân nặng lúc sinh bình thường nhìn chung được đáp ứng hoàn toàn bởi sữa mẹ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ có được tình trạng dinh dưỡng tốt [15,21].
Việc sản xuất sữa của người mẹ được điều chỉnh phù hợp theo nhu cầu của trẻ, bà mẹ sinh đôi sinh ba vẫn đủ sữa, khi nhu cầu của trẻ tăng thì việc sản xuất sữa cũng tăng theo trong vòng vài ngày, thậm chí trong vòng vài giờ [14]. Mức tiêu thụ sữa mẹ của trẻ bú mẹ hoàn toàn tăng vào khoảng giữa tháng 3 đến tháng thứ 6, nếu trẻ ăn bổ sung sớm thì lượng này lại giảm đi. Việc tiết sữa là linh hoạt vì vậy bà mẹ tăng sản xuất sữa thông qua việc vắt sữa thường xuyên, và có khả năng cho bú lại sau khi đã dừng [15,21].
1.3.2. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Những năm gần đây, tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em trên toàn thế giới đã được quan tâm và cải thiện đáng kể. Vấn đề dinh dưỡng được quan tâm hàng đầu đó chính là chương trình nuôi con bằng sữa mẹ. Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc đã coi việc NCBSM là một trong bốn biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em, nó đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ trong 6 tháng đầu đời [3,6,12,15]. Tổ chức Y tế Thế giới cũng khẳng định: Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng và phát triển, kết quả học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập của trẻ trong tương lai [20]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ước tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giới mỗi năm [18]. Vì vậy, WHO khuyến cáo rằng các bà mẹ hãy cho con bú nhiều lần, bất kể khi nào trẻ đói, kể cả ban đêm, trẻ càng bú nhiều mẹ càng tiết nhiều sữa.
Đặc biệt trong 6 tháng đầu trẻ chỉ cần bú sữa mẹ hoàn toàn mà không cần ăn thêm bất cứ loại thức ăn nào khác kể cả nước [2, 21].
1.3.3. Lợi ích của bú sớm sau sinh
Sau khi sinh, bà mẹ cần cho trẻ bú càng sớm càng tốt, đặc biệt trong một giờ đầu vì trong giờ đầu tiên của cuộc đời, trẻ sơ sinh ở trạng thái tỉnh táo, nhanh nhẹn nhất dễ thực hiện hành vi bú mẹ nhất. Khi thời điểm này qua đi, trẻ trở nên buồn ngủ hơn vì bắt đầu phục hồi sau quá trình thở [21].
Sữa mẹ tiết theo phản xạ và được tiết ra sớm hơn ở những bà mẹ cho con bú sớm trong vòng một giờ đầu sau khi sinh so với các bà mẹ chờ xuống sữa tự nhiên. Khi bà mẹ được ngắm nhìn con, nghe thấy tiếng khóc của con và tin tưởng rằng mình có sữa cho con bú thì sẽ hỗ trợ tốt cho phản xạ này. Vì vậy ngay sau sinh bà mẹ phải được nằm cạnh trẻ và cho trẻ bú sớm [21].Khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin giúp bà mẹ co hồi tử cung nhanh hơn góp phần làm giảm nguy cơ chảy máu sau đẻ [21].
Trẻ bú mẹ sớm sẽ bú được sữa non rất tốt cho sức khỏe, giúp trẻ phòng tránh được các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, vàng da, không dung nạp thức ăn khác [21].
2. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới và Việt Nam
2.1 Trên thế giới
Lợi ích và sự cần thiết của NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã hội đã được thừa nhận. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới tỷ lệ cho con bú sớm rất thấp: 17% ở các nước Đông Âu-Trung Á, 33% ở các nước châu Á Thái Bình Dương và cao nhất là khu vực Mỹ La Tinh- Caribe -Bắc và Đông Phi là 50% [13]. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên thế giới là 39% và không đồng đều giữa các quốc gia [17], như vậy phần lớn số trẻ còn lại được nuôi bằng các thức ăn hoặc nước uống khác ngoài sữa mẹ ngay từ những tháng đầu.
Theo số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số trẻ em được sinh ra trên toàn thế giới từ năm 1996-2006, tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng từ 33% lên 37%. Tăng nhanh nhất ở vùng cận sa mạc Sahara-châu Phi với tỷ lệ tăng từ 22% -30%, và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% -19%. Ở châu Mỹ Latinh và Caribean ngoại trừ Brazil và Mexico, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn tăng từ 30% đến 45% [15,19].
2.2. Tại Việt Nam
Theo thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy một thực tế là tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời chỉ đạt 19,6%.. Tỉ lệ này thấp hơn nhiều so với tỉ lệ trung bình của Thế Giới – 35% bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Và tỷ lệ trẻ được bú tới 24 tháng tuổi (22%) vẫn còn thấp. Không cho con bú sớm, không cho con bú hoàn toàn và không cho con tiếp tục bú lâu dài cũng như thiếu chế độ ăn phù hợp dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe cho trẻ. Năm 2009, Việt Nam đứng thứ 13 trong danh sách các nước có số trẻ thấp còi trên toàn cầu, với 30% trẻ dưới 5 tuổi bị thấp còi (khoảng 2,5 triệu trẻ) và không đạt được sự tiềm năng phát triển tối ưu, cứ 5 trẻ thì 1 trẻ bị thiếu cân [6].
Tuy đạt được những tiến bộ đáng kể, nhưng phần lớn số trẻ tử vong dưới 1 tuổi vẫn xảy ra trong tháng đầu tiên, chiếm 60% các ca tử vong dưới 1 tuổi và 40% các ca dưới 5 tuổi. Nguyên nhân đáng chú ý của trẻ tử vong trong tháng đầu là vì nhiều phụ nữ sống ở miền núi, gia đình nghèo không tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đỡ đẻ, chăm sóc sau sinh, tiêm phòng và tiếp cận các được các dịch vụ chăm sóc và điều trị thường ngày. Ngoài ra tỷ lệ tử vong ở trẻ miền núi, nông thôn và gia đình nghèo vẫn cao hơn 3-4 lần so với miền xuôi, thành thị và các gia đình khá giả khác.Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vấn đề tử vong ở trẻ liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh cũng như NCBSM. Tỷ lệ trẻ em bú sữa mẹ còn thấp, chỉ khoảng 58% trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ trong giờ đầu và 17% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. [1]
Thực tế cho thấy trước nhiều thông tin quảng cáo về các chất bổ sung vào sữa bột giúp trẻ phát triển tốt về cân nặng và chiều cao, thông minh cùng với nhận thức chưa đúng của một số bà mẹ trẻ, gia đình khiến nhiều bà cho rằng sữa công thức có thể thay thế được sữa mẹ, thậm chí tốt hơn sữa mẹ. Kiến thức về nuôi dưỡng trẻ nhỏ của người dân bị ảnh hưởng bởi niềm tin, thói quen của cộng đồng và lời khuyên của cán Bộ Y tế.
Báo cáo của UNICEFF cũng chỉ ra rằng, các bà mẹ làm việc ở bên ngoài thường gặp khó khăn trong việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu. Họ đi làm và cho trẻ ăn bổ sung sau khi hết thời gian nghỉ đẻ thường là 4 tháng. Trong Luật Lao động Việt Nam có quy định về nghỉ đẻ và NCBSM.Tuy nhiên, trên thực tế Luật Lao động chỉ áp dụng cho phụ nữ làm việc ở cơ quan tổ chức chính thống. Hơn nữa, nhiều bà mẹ đi làm ở khu vực thành thị có khả năng mua sữa bột và thường xuyên bị tiếp xúc với các hình thức quảng cáo về sản phẩm thay thế sữa mẹ. Các sản phẩm thay thế sữa mẹ xuất hiện nhiều ở các bệnh viện và rất ít nhân viên y tế nhận thức về lợi ích của việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ..
Theo đánh giá của Bộ y tế và UNICEFF, 58% các bà mẹ cho con bú trong giờ đầu sau sinh và 88% bắt đầu cho bú trong vòng 24h giờ đầu. Tính trên toàn quốc, chỉ có 17% trẻ dưới 6 tháng tuổi được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ. Khoảng 70% trẻ từ 6-9 tháng được bú mẹ kết hợp với ăn bổ sung với thức ăn đặc hoặc loãng. Ở 12-15 tháng tuổi có 78% trẻ em vẫn bú mẹ. Trẻ em trai thường được bú mẹ hoàn toàn tới 6 tháng nhiều hơn trẻ em gái. [9]
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Bà mẹ có con dưới 5 tuổi
Trẻ dưới 5 tuổi
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính một tỷ lệ trong quần thể
n = z21-α/2p(1-p)/d2
Trong đó:
n: là cỡ mẫu
zα/2 = 1,96 (mức tin cậy mong muốn là 95%).
p = 0,5 để cỡ mẫu đạt tối đa
d = 0,05( độ chính xác mong muốn là 5%=0,05)
Thay vào công thức ta có: n xấp xỉ 384 người. Chọn 10% số bà mẹ dự trữ, cỡ mẫu cần thiết để tiến hành nghiên cứu 440.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
10 huyện miền núi tỉnh Nghệ An bao gồm: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Tân Kỳ, Anh Sơn, Nghĩa Đàn.
Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 3/2019 đến 10/2019.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
Thiếu kế nghiên cứu mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu chủ đích –phân tầng:
Chọn chủ đích 10 huyện miền núi tỉnh Nghệ An
Lập danh sách các xã, thị trấn của từng huyện, tiến hành bốc thăm ngẫu nhiên lấy ra 02 xã/ huyện.
Tiến hành điều tra bà mẹ và trẻ em ở các xã đã được chọn với tỷ lệ bằng nhau.
Mỗi xã điều tra tuần tự đến khi đủ 22 bà mẹ, 22 trẻ.
Chỉ số nghiên cứu
Nhóm các chỉ số nghiên cứu về bà mẹ
Tuổi
Trình độ học vấn
Dân tộc
Nghề nghiệp chính
Kiến thức của bà mẹ về cho trẻ bú sớm sau sinh
Thời điểm cho trẻ bú mẹ sau khi sinh
Vắt bỏ sữa non
Lợi ích của sữa non
Kiến thức của bà mẹ về NCBSMHT trong 6 tháng đầu
Kiến thức về định nghĩa NCBSMHT
Biết đúng thời gian NCBSMHT
Biết cho con bú đúng cách
Biết trẻ dưới 6 tháng tuổi nên bú duy nhất sữa mẹ
Biết cần tiếp tục cho trẻ bú khỉ trẻ bị ốm
Có nên cho trẻ dưới 6 tháng tuổi uống nước tráng miệng sau khi bú
Thời gian bảo quản sữa vắt
Nguồn nhận thông tín quảng cáo sữa công thức và thông tin về NCBSMHT trong 6 tháng đầu của ĐTNC
Thái độ NCBSMHT trong 6 tháng đầu
Bà mẹ có muốn cho con bú không
Việc cho con bú sữa non có cần thiết không
Việc cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu có cần thiết không
Hành vi NCBSMHT trong 6 tháng đầu
Thời gian bà mẹ cho con bú lần đầu sau sinh
Lý do bà mẹ cho con bú muộn
Thời gian bà mẹ bắt đầu cho con ăn thức ăn ngoài sữa mẹ
Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn thức ăn ngoài sữa mẹ trước 6 tháng
Thực hành nuôi dưỡng trẻ khi mẹ đi làm trở lại
Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
Xây dựng phiếu khảo sát nhân trắc của trẻ dưới 5 tuổi và phỏng vấn bà mẹ.
(Phụ lục)
Xử lý và phân tích số liệu
Sử dụng các thuật toán thống kê trên phần mềm SPSS
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Tiến hành điều tra trên tinh thần tự nguyện, hợp tác của các bà mẹ
Điều tra, thu thập các chỉ số trung thực, khách quan.
CHƯƠNG III: DỰ KIẾN KẾT QUẢ
1. Dự kiến kết quả
Sau khi nghiên cứu được triển khai và thu về được kết quả, nhóm nghiên cứu sẽ mô tả thực trạng NCBSM ở phụ nữ có con dưới 2 tuổi; và tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ 0 – 24 tháng tuổi tại 10 huyện miền núi tỉnh Nghệ An năm 2019.
Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 1: Một số thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Thông tin
Số lượng
%
Nhóm tuổi
<25 tuổi
Từ 25 - 35 tuổi
>35 tuổi
Dân tộc
Kinh
Tày
Khác
Học vấn
Mù chữ, BĐBV
Tiểu học
THCS
THPT trở lên
Nghề nghiệp
Làm ruộng
CB- CN- VC
Khác
Số con trong gia đình
≤ 2 con
>2 con
Tuổi của mẹ khi sinh trẻ
< 18 tuổi
18- 35 tuổi
>35 tuổi
Mô tả kiến thức, thực hành của bà mẹ về NCBSM
+ Kiến thức
Bảng 2: Kiến thức của bà mẹ về cho trẻ bú sớm sau sinh
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Thời điểm cho trẻ bú mẹ sau khi sinh
Trong vòng 1 giờ đầu
Từ 1 giờ đến 24 giờ
Sau 1 ngày
Không nghĩ trẻ cần phải được bú mẹ ngay sau sinh
Không biết
Vắt bỏ sữa non
Có vắt bỏ
Không vắt bỏ
Không biết
Lợi ích của sữa non
Phòng chống dị ứng và nhiễm khuẩn
Đào thải phân su
Giảm mức độ vàng da
Giúp phát triển ruột
Không biết
Bảng 3: Kiến thức của bà mẹ về NCBSM trong 6 tháng đầu
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Kiến thức về định nghĩa NCBSMHT
Chỉ cho bú mẹ và không cho ăn uống một thứ gì khác kể cả nước
Cho trẻ bú sữa mẹ và nước
Cho trẻ bú sữa mẹ và một ít chất lỏng khác
Không biết
Biết đúng thời gian NCBSMHT
Bú sớm hơn 6 tháng
Trong 6 tháng đầu
Trên 6 tháng
Biết cho con bú đúng cách
Bú mỗi bên một ít
Bú hết một bên rồi chuyển sang bên kia
Không biết
Biết cần tiếp tục cho trẻ bú khi trẻ bị ốm
Có
Không
+ Thái độ
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Có muốn cho con bú
Có
Không
Cho con bú sữa non có cần thiết
Có
Không
Cho con bú HTBSM trong 6 tháng có cần thiết
Có
Không
+ Thực hành
Bảng 4: Thời gian bà mẹ cho con bú lần đầu sau sinh
Thời gian cho trẻ bú lần đầu sau sinh
Tần số
Tỷ lệ
Trong vòng 1 giờ
Từ 1 giờ đến 24 giờ
Sau 24 giờ
Không nhớ
Bảng 5: Thực hành ngậm bắt vú lần đầu tiên
Thời gian cho trẻ ngậm bắt vú lần đầu tiên
Tần số
Tỷ lệ
Trong vòng 1 giờ
Từ 1 giờ đến 24 giờ
Sau 24 giờ
Không nhớ
Bảng 6: Thực hành cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ
Thời gian cho con bú hoàn toàn bầng sữa mẹ
Tần số
Tỷ lệ
Dưới 6 tháng
6 tháng
Bảng 7:
2. Bàn luận
Có thể nói, sữa mẹ giúp ích cho sự phát triển của trẻ, tiết kiệm chi phí hơn, giúp cho sự gắn bó mẹ con và làm phát triển tốt mối quan hệ gần gũi, yêu thương. Tuy nhiên, những quan niệm, văn hóa, những rào cản về kinh tế, xã hội, sẽ khiến vấn đề NCBSM trở nên khó khăn. Chỉ khi những rào cản đó có được giải quyết cùng với sự phối hợp song song giữa bản thân người mẹ, gia đình và ngành y tế nói chung sẽ cung cấp kiến thức, chia sẻ hiểu biết kĩ năng cho phụ nữ để nuôi con khôn lớn, khỏe mạnh.
CHƯƠNG IV: DỰ KIẾN BÀN LUẬN, KẾT LUẬN
Bàn luận theo kết quả nghiên cứu
Kết luận theo kết quả nghiên cứu
CHƯƠNG V: DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ
Theo kết quả nghiên cứu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Bộ Y tế - Chương trình Nuôi con bằng sữa mẹ (2005), Tư vẩn nuôi con bằng sữa mẹ, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, Hà Nội.
3. Bộ Y tế và Trường Đại học QueensLand Australia (2006), Hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ.
4. Hà Huy Khôi và Từ Giấy (2005), Dinh dưỡng hợp lý và sức khoẻ, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
5. Hồ Sĩ Hoàng (2010), "Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ", Sở Y tế Bình Dương.
6. UNICEF Việt Nam (2011), "Truyền thông Đại chúng về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và ăn bổ sung nhằm giảm tỷ lệ thấp còi và suy dinh dưỡng ở Việt Nam".
7. Phan Thị Tâm Khuê (2009), Khảo sát kiến thức,thái độ thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ sau sinh tại Khoa Sản Bệnh viện Trường Đại Học Y Dược Huế, Tiểu luận tốt nghiệp, Đại Học Y Dược Huế, Huế.
8. PepsiCo và Nhóm chính sách Y tế toàn cầu (2010), Tổng quan về chính sách Y tể công cộng của Việt Nam về nuôi dưỡng trẻ nhỏ.
9.Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế (2012), "Báo cáo tóm tắt tổng điều tra dinh dưỡng 2009-2010".
10. Ngày 22/07/2009.
11. WHO (2006), Tư vấn và nuôi dưỡng trẻ nhỏ, bản dịch tiếng Việt của Tổ chức Y tế Thế giới.
TIẾNG ANH
12. Agampodi, s., Agampodi, T. and Piyaseeli, U.K. (2007), Bresatfeedng practices in a public health field practice area in Sri Lanka: a survivalanalysis, International breastfeeding Journal, 2(1), pg. 13.
13.Baltimore, M. D. (2009), Better breastfeeding, healther lives, Report Series L.14, USA.
14. Owen, C. G. et al. (2006), Does breastfeeding influence risk of type 2 diabetes in later life? A quantitative analysis of published evidence, American Journal Clinic Nutrition, 84(5), pg.1043-54.
15. USAID, UNICEF và WHO (2010), "Indicators for assessing infant and your child 42 feeding pratices, Malta".
16. UNICEF (2007), Breastfeeding within one hour of birth can significantly reduce infant mortality in Viet Nam.
17. Xiaodong Cai, Wardlaw, T. and Brown, D. w. (2012), Global trends inexclusive breastfeeding, International Breastfeeding Journal 2012, 7(12).
18. WHO (2013), "10 facts on breastfeeding".
19.WHO, UNICEF and USAID (2008), Indicators for assessing infant and young child feeding practices, Washington D.c.
20. WHO (2008), "Indicators for assessing infant and young child feeding practices, Washington D.C."
21. WHO (2009), "Infant and young child feeding, Geneva.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_danh_gia_tinh_trang_nuoi_con_bang_sua_me_cua_cac_ba_m.docx