Đề tài Định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2015

Hiện nay, rau được trồng phổ biến ở các huyện Gia Lộc (6.599 ha, 178.633 tấn), Kim Thành (3.866 ha, 95.201 tấn), Kinh Môn (3.595 ha, 43.370 tấn) Huyện Gia Lộc có diện tích và sản lượng vượt xa so với các huyện khác, gấp gần hai lần so với huyện đứng thứ hai. Do những huyện này có đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi phát triển, có nguồn lao động dồi dào lại có truyền thống sản xuất rau lâu đời, đặc biệt là sản xuất rau vụ đông.

Cơ cấu rau các loại chủ yếu là trồng rau su hào, súp lơ, khoai tây . Trong những năm qua, trên địa bàn tỉnh Hải Dương và trong cả nước nói chung có hàng trăm vụ ngộ độc về rau quả chiếm trên 50%. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần sản xuất rau an toàn để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dung và người sản xuất.

 

docx46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4104 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rộng cây vụ đông, trà muộn được thu hẹp chỉ còn 5 – 10%. Vụ đông phát triển và nay được coi là vụ sản xuất chính, góp phần nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích. Bảng 7: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa tỉnh Hải Dương giai đoạn 2000 – 2009 Các chỉ tiêu 2000 2005 2007 2008 2009 Lúa đông xuân DT(nghìn ha) 74,1 67,2 64,9 63,6 63,9 NS(tạ/ha) 59,1 63,8 58,4 64,9 64,6 SL(nghìn tấn) 438,3 429,2 379,1 413,3 413,4 Lúa hè thu DT(nghìn ha) 73,3 66,0 63,7 63,1 63,0 NS(tạ/ha) 52,5 52,2 56,9 53,0 57,1 SL(nghìn tấn) 385,1 344,8 362,7 335,4 360,0 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009 Về cơ cấu giống: Hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa có tác động rất lớn đến sản xuất lúa, do đó người nông dân quan tâm nhiều hơn tới nhu cầu của thị trường. Nông dân đang có xu hướng coi trọng chất lượng, giá trị và lợi nhuận, thị hiếu người tiêu dung. Các giống lúa chất lượng cao đang được phát triển mạnh mẽ như Bắc thơm, Nếp thơm, Thiên Hương… Một số giống lúa cho năng suất rất đến vài tấn/ha mang lại hiệu quả kinh tế cao. Về phân bố: Cây lúa được trồng phổ biến trong toàn tỉnh, tuy nhiên cũng có sự phân hóa về diện tích và sản lượng . Bảng 8: Diện tích, sản lượng lúa phân theo huyện, thành phố của tỉnh Hải Dương năm 2009. Diện tích(nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn) Hải Dương 2,7 16,8 Chí Linh 9,1 48,5 Nam Sách 9,5 60,5 Kinh Môn 12,7 74,7 Kim Thành 9,1 53,4 Thanh Hà 7,8 48,0 Cẩm Giàng 8,9 57,2 Bình Giang 12,6 78,3 Gia Lộc 10,3 66,2 Tứ Kì 15,5 94,8 Ninh Giang 14,2 85,9 Thanh Miện 14,2 88,6 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009 Có sự khác nhau về diện tích cấy lúa giữa các huyện là do sự khác nhau về các điều kiện tự nhiên và các điều kiện kinh tế - xã hội giữa các huyện quy định. Thành phố Hải Dương, huyện Nam Sách, Cầm Giàng có ngành công nghiệp phát triển mạnh, diện tích không lớn do đó diện tích cho hoạt động sản xuất nông nghiệp rất hạn chế. Huyện Chí Linh và huyện Thanh Hà có diện tích đất nông nghiệp lớn, nhưng lại có diện tích trồng lúa thấp trong tỉnh do huyện có điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu để trồng các loại cây ăn quả như cây vải đạt năng suất cao. Vải ở huyện Thanh Hà đã trở thành đặc sản của tỉnh Hải Dương. Huyện Chí Linh và huyện Kinh Môn là 2 huyện miền núi của tỉnh nên có điều kiện về đất đai, nguồn nước… ít thuận lợi cho việc cấy lúa. Do đó huyện Chí Linh và huyện Kinh Môn là 2 huyện có năng suất lúa thấp nhất trong tỉnh. Huyện Cẩm Giàng và huyện Thanh Miện có năng suất lúa cao nhất do có nhiều điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu, nguồn nước và dịch vụ nông nghiệp như: phân bón, thuốc trừ sâu… phát triển nên năng suất lúa cao. * Cây hoa màu lương thực Những cây hoa màu lương thực chủ yếu của tỉnh Hải Dương là: ngô, khoai lang, sắn… Cây hoa màu lương thực cũng được đẩy mạnh phát triển để bổ sung thêm nguồn lương thực cho con người, làm thức ăn chho chăn nuôi. Tuy nhiên, cả diện tích và sản lượng đều nhỏ hơn rất nhiều so với diện tích và sản lượng của cây lúa. Trước đây, khi vấn đề an ninh lương thực chưa được đảm bảo thì cây hoa màu lương thực có vai trò quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực cho nhân dân trong tỉnh. Ngày nay, khi sản xuất đã đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho nhân dân thì cây hoa màu lương thực chủ yếu được dung làm thức ăn cho chăn nuôi. Cây ngô Ngô là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm cây hoa màu lương thực. Cả về diện tích và sản lượng luôn đứng đầu trong các cây hoa màu lương thực khác. Từ năm 2000 – 2009, diện tích gieo trồng và sản lượng của cây ngô không ổn định. Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Năm Biểu đồ 2: Tình hình sản xuất ngô giai đoạn 2000 - 2009 Diện tích ngô trong giai đoạn 2000 – 2009 vẫn đạt trên 4000 ha/năm, tuy nhiên diện tích gieo trồng ngô có xu hướng giảm và không ổn định. Nguyên nhân do gần đây giá bán thấp, thời gian gieo trồng lại dài, hơn nữa hiệu quả trồng ngô không cao nên không khuyến khích được nông dân mở rộng diện tích. Trong giai đoạn hiện nay, ngô chủ yếu dung làm thức ăn cho chăn nuôi, nhưng chăn nuôi cũng gặp nhiều khó khăn: nhiều dịch bệnh… nên nhu cầu các sản phẩm từ ngô khhoong ổn định. Tuy nhiên, người nông dân đã đưa các giống ngô lai có năng suất cao vào sản xuất, nhiều nơi trồng ngô giống đã tăng giá trị cho cây ngô, năng suất ngô tăng từ 37,4 tạ/ha (năm 2000) lên 49,4 tạ/ha (năm 2009). Ngô được trồng nhiều ở các vùng bãi bồi ven sông, trồng xen canh trên đất lúa, đất trồng cây công nghiệp hàng năm, đặc biệt ở vùng đất đồi. Do đó, ngô được trồng nhiều ở các huyện: Chí Linh, Kinh Môn, Nam Sách… Ngô chủ yếu được trồng vào vụ đông. Khoai lang Khoai lang là một cây trồng tương đối dễ tính, thích hợp với đất cát pha và đất thịt nhẹ, dễ thoát nước lại không đòi hỏi vốn đầu tư cũng như công chăm sóc. Tuy nhiên, cả diện tích và sản lượng khoai lang giảm liên tục trong giai đoạn 2000 – 2009. Bảng 9: Tình hình sản xuất khoai lang tỉnh Hải Dương giai đoạn 2000 - 2009 Năm Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tạ/ha) 2000 7653 72 089 94,2 2005 3011 31 321 104,0 2006 2689 27 958 103,9 2007 2071 21 539 104,0 2008 1521 15 147 101,7 2009 1295 12 739 98,8 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009 Diện tích trồng khoai lang giai đoạn 2000 – 2009 giảm nhanh và liên tục, từ 7653 ha (2000) xuống 1295 ha (2009), giảm 6358 ha, trung bình giảm 635,8 ha/năm. Bên cạnh đó, sản lượng khoai lang giảm cũng nhanh chóng, giảm từ 72089 tấn xuống 12739 tấn, giảm 59350 tấn, trung bình giảm 5935 tấn/năm. Diện tích trồng khoai lang giảm liên tục do vấn đề lương thực cho người dân trong tỉnh đã được đảm bảo, nên khoai lang chủ yếu làm thức ăn cho chăn nuôi, đặc biệt là cho chăn nuôi lợn. Nhưng khoai lang vẫn không cạnh tranh được so với ngô và các sản phẩm từ ngô về chất lượng và giá cả nên ngô vẫn là thức ăn chủ yếu cho chăn nuôi. Do đó, diện tích trồng khoai lang trong cơ cấu cây lương thực liên tục giảm mạnh nên ít đưa vào sản xuất những giống khoai mới có năng suất và chất lượng cao như ngô. Do đó, cùng với việc giảm diện tích, sản lượng khoai lang cũng giảm nhanh chóng. Hiện nay, các huyện có diện tích và sản lượng khoai lang lớn là: Chí Linh, Thanh Hà, Cẩm Giàng. Do những huyện này có ngành chăn nuôi phát triển mạnh. Khoai lang được trồng chủ yếu trong vụ đông. Các cây chất bột khác Loại cây này có tỉ trọng năm 2008 chiếm 0,6% về diện tích gieo trồng trong cơ cấu cây hoa màu lương thực. Những loại cây này vừa là nguồn lương thực cho con người đồng thời cũng là nguồn thức ăn cho gia súc và có một phần nhỏ sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Những loại cây này được trồng nhiều ở các bãi bồi ven sông (khoai sọ, khoai môn…), trồng nhiều trong vườn nhà, trồng dưới tán của các cây ăn quả (khoai sọ, khoai môn, củ từ, củ mài, dong, riềng….). Do đó, diện tích trồng các loại cây này có xu hướng tăng, từ 158 ha năm 2000 lên 739 ha năm 2008, tăng gấp 5 lần. Những loại cây này được trồng rải rác ở hầu hết các huyện trong tỉnh và thường được trồng xen canh với những loại cây ngắn ngày khác. b) Cây thực phẩm Cây thực phẩm gồm các loại rau, đậu là nguồn thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người dân. Hải Dương có khí hậu đa dạng, lại có một mùa đông khá lạnh cho phép tỉnh có thể trồng được quanh năm nhiều loại rau, đậu khác nhau. Rau đậu là những loại cây ngắn ngày, đòi hỏi nhiều lao động và nhiều công chăm bón, vốn đầu tư (phân bón, giống… ) lớn hơn rất nhiều so với các loại cây trồng khác. Tuy nhiên, các loại rau đậu có khả năng trồng xen canh hay luân canh trên cùng một diện tích. Đây là nhóm cây chiếm gần 20% diện tích gieo trồng hàng năm, là thế mạnh của nông nghiệp Hải Dương, nhất là cây thực phẩm vụ đông. Các loại rau quả thực phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại, một số loại rau quả chế biến có thị trường rộng được trồng tập trung thành vùng sản xuất chuyên canh theo hướng hàng hóa, quy mô lớn như xu hào, bắp cải, cà chua, dưa hấu ở các huyện Gia Lộc, Tứ Kỳ, Kim Thành, Thanh Miện như: hành, tỏi ở Nam Sách… Do đó, sản lượng cây thực phẩm tăng từ 562 ngàn tấn lên 600 ngàn tấn. Bảng 10 : Diện tích các loại cây thực phẩm giai đoạn 2000 – 2009. (Đơn vị: ha) Năm 2000 2005 2006 2007 2008 2009 Rau các loại 21 292 30 920 29 261 30 472 29 145 27 039 Đậu các loại 655 354 369 327 349 246 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009 Trong cơ cấu các loại cây thực phẩm, diện tích rau các loại chiếm tỉ trọng lớn nhất, chiếm 99,5%. Còn các loại đậu năm 2009 chiếm 1,2% diện tích, nhưng lại chỉ chiếm 0,015% về sản lượng. Cây thực phẩm có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Diện tích trồng cây thực phẩm đứng thứ 2 sau diện tích trồng cây lương thực của tỉnh. Trong giai đoạn từ năm 2000 – 2009 diện tích và sản lượng của các loại rau, đậu có xu hướng tăng. Qua đó, ta thấy được vai trò của các cây thực phẩm đối với sự phát triển nông nghiệp của tỉnh, cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. a) Các loại rau Sản xuất rau có một vai trò trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Nhìn chung, diện tích và sản lượng trồng các loại rau của Hải Dương có xu hướng tăng. Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năm Biểu đồ 3: Tình hình sản xuất rau tỉnh Hải Dương giai đoạn 2000 – 2009 Trong giai đoạn từ năm 2000 – 2009 diện tích trồng rau của tỉnh tăng từ 21292ha lên 27039 ha, tăng 1,27 lần, nhưng không ổn định: giai đoạn từ năm 2000 đến 2005 diện tích tăng (từ 21292 ha đến 30920 ha), năm 2006, năm 2008 và năm 2009 diện tích giảm xuống dưới 30000 ha. Diện tích trồng rau của tỉnh không ổn định, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay, diện tích tăng trong năm này thì năm sau lại giảm. Đặc biệt, từ năm 2007 đến nay, diện tích trồng rau giảm liên tục. Diện tích trồng rau không ổn định là do sự bấp bênh của sản xuất cây thực phẩm. Có những năm người dân thu được lợi nhuận cao thì năm sau diện tích tăng lên do mọi người trồng nhiều hơn. Nhưng người dân chủ yếu trồng rau một cách tự phát không chú ý đến thị trường tiêu thụ cũng như chất lượng sản phẩm, cùng với những khó khăn và diễn biến bất thường của thời tiết nên có không ít những hộ gia đình bị thua lỗ, chán nản không trồng tiêp vào năm sau. Tuy vậy nhưng nhìn chung diện tích và sản lượng rau có xu hướng tăng do rau là một nguồn thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống nên nhu cầu về rau rất lớn, cùng với sự tiến bộ khoa học kĩ thuật nên đưa vào sản xuất nhiều giống mới có năng suất cao hơn, hệ thống thủy lợi hiện đại hơn, dịch vụ nông nghiệp phát triển hơn… đã góp phần làm cho hoạt động sản xuất ít phụ thuộc vào tự nhiên hơn, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Do đó năng suất của các loại rau liên tục tăng. Hiện nay, rau được trồng phổ biến ở các huyện Gia Lộc (6.599 ha, 178.633 tấn), Kim Thành (3.866 ha, 95.201 tấn), Kinh Môn (3.595 ha, 43.370 tấn)… Huyện Gia Lộc có diện tích và sản lượng vượt xa so với các huyện khác, gấp gần hai lần so với huyện đứng thứ hai. Do những huyện này có đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi phát triển, có nguồn lao động dồi dào lại có truyền thống sản xuất rau lâu đời, đặc biệt là sản xuất rau vụ đông. Cơ cấu rau các loại chủ yếu là trồng rau su hào, súp lơ, khoai tây…. Trong những năm qua, trên địa bàn tỉnh Hải Dương và trong cả nước nói chung có hàng trăm vụ ngộ độc về rau quả chiếm trên 50%. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần sản xuất rau an toàn để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dung và người sản xuất. Diện tích sản xuất rau an toàn được mở rộng ở các xã, các huyện trong tỉnh, hàng năm tỉnh cung cấp cho thị trường tiêu thụ hàng nghìn tấn rau sạch. Các huyện có diện tích trồng rau sạch lớn là huyện Thanh Miện, Gia Lộc, Tứ Kỳ… Diện tích rau an toàn của toàn tỉnh được chăm sóc bằng chế phẩm sinh học và phân ủ để bón rau giảm sau bệnh. Tuy nhiên, diện tích rau an toàn có xu hướng tăng chậm do sản xuất rau an toàn của tỉnh gặp nhiều khó khăn như: tốn nhiều công chăm sóc, các yếu tố đất đai, nguồn nước, giống, thuốc bảo vệ thực vật, quy trình chăm sóc phải đạt tiêu chuẩn VietGAP, năng suất của rau an toàn thấp hơn so với rau thường, người tiêu dung chưa tin tưởng chất lượng của rau an toàn, hơn nữa khâu tiếp thị các sản phẩm rau an toàn ra thị trường còn yếu nên không ít hộ gia định bị thua lỗ. b) Đậu các loại Các loại đậu được trồng chủ yếu trên địa bàn tỉnh Hải Dương là đậu xanh, đậu đen…. Nhìn chung, diện tích và sản lượng của các loại đậu có xu hướng giảm từ năm 2000 – 2009. Diện tích giảm dần từ 655 ha năm 2000 xuống 246 ha năm 2009, giảm hơn một nửa diện tích. Sản lượng giảm từ 485 tấn xuống 211 tấn. Bảng 11: Tình hình sản xuất đậu các loại ở Hải Dương qua các năm Năm Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn) 2000 655 7,40 485 2005 354 8,17 289 2006 369 8,25 304 2007 327 8,56 280 2008 349 8,36 292 2009 246 8,59 211 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009 Trong quá trình trồng đậu cần nhiều công chăm sóc, đặc biệt là trong giai đoạn thu hoạch. Trong khi đó năng suất của các loại đậu này không cao, trung bình trên 8 tạ/ha, lại không ổn định. Trong khi đó Hải Dương có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc trồng cây thực phẩm khác có năng suất cao hơn. Một phần diện tích trồng đậu các loại cũng như diện tích trồng cây lương thực đã được chuyển sang trồng các cây su hào, bắp cải, súp lơ, dưa hấu… nên diện tích và sản lượng các loại đậu có xu hướng giảm. Các loại đậu hiện nay được trồng ở nhiều huyện như: Kim Thành (249 ha). Tuy nhiên, huyện Gia Lộc có sản lượng các loại đậu đạt giá trị cao nhất… Những huyện có diện tích, sản lượng các loại đậu cao đều là những huyện có trình độ thâm canh cao nên trồng đậu để xen kẽ giữa các vụ, để cải tạo đất, phù hợp với đặc điểm của thời tiết, nâng cao hiệu quả lao động. Tuy nhiên, trong sản xuất cây rau, đậu ở Hải Dương vẫn còn nhiều hạn chế như: lạm dụng và sử dụng không đúng kĩ thuật các loại hóa chất bảo vệ thực vật, bón quá nhiều đạm không cân đối với phân và kali, bón và tưới phân tươi không qua xử lí, nguồn nước tưới không đảm bảo, việc thu mua rau nhiều khi do tự thương nhân đảm nhận, các loại rau đậu bị chèn ép giá gây tâm lí hoang mang, lo lắng cho người sản xuất. c) Sản xuất cây công nghiệp - Cây công nghiệp hàng năm: Diện tích gieo trồng cây công nghiệp hàng năm của tỉnh có xu hướng giảm và biến động. Sản lượng cây công nghiệp hàng năm vì thế cũng có nhiều biến động bất thường. Chính sự diễn biến thất thường của thị trường và tình trạng sản xuất thiếu quy hoạch trong nhân dân đã dẫn tới những biến động về diện tích gieo trồng và sản lượng các loại cây công nghiệp ngắn ngày. Cái vòng luẩn quẩn “được mùa vượt giá, được giá mất mùa vẫn và sẽ còn do tính chất nhỏ lẻ, tự phát trong sản xuất nông nghiệp của Hải Dương nói riêng và của Việt Nam nói chung. Cây công nghiệp hàng năm chủ yếu là lạc và đậu tương. Bảng 12: Diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp hàng năm tỉnh Hải Dương giai đoạn 2000 – 2009. Năm Tổng Đậu tương Lạc 2000 DT (nghìn ha) 3716 1833 1584 SL (nghìn tấn) - 3275 2201 2005 DT (nghìn ha) 4011 2250 1462 SL (nghìn tấn) - 3713 2213 2006 DT (nghìn ha) 3214 1616 1306 SL (nghìn tấn) - 2947 1882 2007 DT (nghìn ha) 2897 1265 1336 SL (nghìn tấn) - 2526 2001 2008 DT (nghìn ha) 2768 1127 1367 SL (nghìn tấn) 2255 2988 2009 DT (nghìn ha) 2889 1360 1271 SL (nghìn tấn) - 2919 1919 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009 - Đậu tương: Hải dương là tỉnh có diện tích gieo trồng đậu tương tương đối lớn. Tuy nhiên, diện tích gieo trồng đậu tương trong giai đoạn 2000 – 2009 có xu hướng giảm từ 1833 ha năm 2000 xuống còn 1360 ha năm 2009. Năng suất luôn đạt trên 17 tạ/ha. Năm 2009, năng suất đạt 21,46 tạ/ha. SẢn lượng đậu tương năm 2009 đạt 2919 tấn. Tất cả các huyện thị của Hải Dương đều có diện tích gieo trồng lạc, trong đó tập trung chủ yếu ở các huyện: Gia Lộc, Chí Linh, Kim Thành… - Lạc: Diện tích gieo trồng lạc của tỉnh hiện có 1271 ha, năng suất đạt 15,1 tạ/ha nhưng không ổn định. Sản lượng hiện nay đạt 1919 tấn, tập trung chủ yếu ở các huyện Chí Linh, Tứ Kỳ… đây là các huyện vùng núi của tỉnh, có điều kiện khí hậu, đất đai phù hợp với sinh thái của cây lạc. Ở một số huyện không có diện tích trồng lạc như: Kim Thành, Bình Giang, Ninh Giang… do điều kiện đất đai không phù hợp, cây lạc không mang lại hiệu quả cao như ngô, rau vụ đông… - Cây công nghiệp lâu năm: - Cây vải: Hải dương nổi tiếng với cây vải thiều. Cây vải là cây công nghiệp mũi nhọn, được xác định là một trong những chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh. Diện tích trồng vải của tỉnh tăng nhanh nhưng không ổn định. Tính đến hết năm 2009, diện tích trồng vải của tỉnh là 13222 ha, năng suất trung bình đạt 30,88 tạ/ha. Sản lượng vải năm 2009 đạt 39711 tấn. Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Năm Biểu đồ : Diện tích và sản lượng vải của tỉnh Hải Dươnggiai đoạn 2000 – 2009 Cây vải vẫn là cây chủ lực chiếm diện tích 50% trong cơ cấu cây trồng lâu năm của tỉnh; tuy nhiên diện tích trồng vải có xu hướng giảm dần qua các năm; năm 2009 diện tích trồng vải là 1322 ha. Sản lượng vải phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu, thời tiết do vậy có năm được mùa lớn như năm 2008 (sản lượng đạt 69 nghìn tấn), năm 2009 mất mùa, sản lượng vải đạt thấp (trên 39000 tấn). Hiệu quả kinh tế hai năm gần đây của cây vải không cao do thị trường tiêu thụ còn hạn chế, chủ yếu phục vụ người tiêu dung trong nước, giá bán những năm được mùa rất thấp. Do vậy, người nông dân đã chuyển đổi một số diện tích trồng vải sang trồng các loại cây hàng năm và cây ăn quả trái vụ có hiệu quả kinh tế cao hơn. Về phân bố: cây vải trồng chủ yếu ở các huyện như Thanh Hà, Chí Linh…Đây là những vùng có điều kiện sinh khí hậu thuận lợi phù hợp với sinh thái của cây vải. Ngoài cây vải, Hải Dương cũng có diện tích trồng một số loại cây lâu năm khác như: cây chè (diện tích 140 ha, sản lượng 386 tấn năm 2009), nhãn (diện tích 1978 ha, sản lượng 4597 tấn), chuối (diện tích 1707 ha, sản lượng 43374 tấn)… Tiểu kết: Ngành trồng trọt của tỉnh mặc dù có những bước phát triển chưa thật ổn định song đây vẫn là một ngành kinh tế chính trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Hải Dương. Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng ngành trồng trọt, nhưng với những lợi thế và tiềm năng sẵn có, tỉnh cần phải có những định hướng, giải pháp cụ thể mang tính chất thúc đẩy nhằm nâng cao hơn nữa giá trị sản xuất của các loại cây trồng, đặc biệt là cây ăn quả. 2.2.2 Ngành chăn nuôi An ninh lương thực được đảm bảo, công nghiệp chế biến thức ăn gia súc phát triển, là cơ sở để ngành chăn nuôi của tỉnh Hải Dương luôn có mức tăng trưởng khá. Tính trung bình cho giai đoạn 2000 – 2009, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 5%/năm. Biểu đồ 3: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tỉnh Hải Dương năm 2009 phân theo nhóm ngành và theo sản phẩm. Ngành chăn nuôi tỉnh Hải Dương giai đoạn 2000 – 2009 đã góp phần tích cực trong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng tích cực tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi, phù hợp với quan điểm đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính. Trong đó, chăn nuôi gia súc chiếm ưu thế tuyệt đối với tỉ trọng 68,9%. Kĩ thuật chăn nuôi đã có tiến bộ vượt bậc. Ngành chăn nuôi đã thực hiện có hiệu quả chương trình nâng cao chất lượng đàn lợn hướng nạc, bò lai… Chăn nuôi theo hình thức bán công nghiệp, công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng bệnh cho đàn gia súc, gia cầm. Bảng 12: Số lượng đàn gia súc, gia cầm tỉnh Hải Dương giai đoạn 2000 -2009. (Đơn vị: nghìn con) Năm Trâu Bò Lợn Gia cầm 2000 18657 47403 855943 8034 2005 13815 60013 883552 7231 2006 9927 55879 614464 6686 2007 8456 43516 629414 6857 2008 8032 38205 597653 7122 2009 7220 37650 591380 7550 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009 a) Chăn nuôi gia súc Số lượng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh trong những năm qua có xu hướng giảm sút do ảnh hưởng của dịch bệnh thường xuyên diễn ra. Năm 2006, tăng khá về số lượng; đàn bò đạt 60013 con, tăng 26,6% (12610 con), đàn lợn đạt 883522 con, tăng 3,3% (28 029 con) so với năm 2005. Năm 2005 là năm diễn ra dịch bệnh trên đàn lợn (hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên lợn), tốc độ phát triển của ngành chăn nuôi lợn bị sụt giảm mạnh; đàn bò giảm 6,9%, đàn lợn giảm 30,5% (trong đó đàn lợn nái giảm 38,5%), đàn gia cầm giảm 7,5% so với năm 2006. Những năm tiếp theo, đàn trâu bò vẫn có xu hướng giảm, đàn gia cầm có xu hướng phục hồi nhưng còn chậm, đàn lợn vẫn có xu hướng giảm, khó phục hồi do dịch bệnh hay bùng phát và giá thức ăn chăn nuôi tăng cao trong vài năm gần đây. Tuy vậy, do áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, thời gian chăn nuôi rút ngắn, quay vòng nhanh và sản lượng xuất chuồng bình quân tăng nên sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2009 vẫn tăng lên so với năm 2005. b) Chăn nuôi gia cầm Chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là gia cầm cạn là thế mạnh của tỉnh. Số lượng đàn gia cầm của tỉnh năm 2009 là 7.122.467 nghìn con. Số lượng trứng các loại năm 2009 ddajt126.274 nghìn quả. Gia cầm được nuôi ở khắp các địa phương trong toàn tỉnh. Hình thức nuôi có sự thay đổi, ngoài kiểu chăn nuôi gia cầm như một hoạt động kinh tế phụ, kiểu kinh doanh gia cầm đã xuất hiện. Nhiều mô hình chăn nuôi mới đạt hiệu quả kinh tế cao như chăn nuôi nhiều loại gia cầm kết hợp nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gai cầm kết hợp làm vườn… Người dân đã chú trọng đầu tư chuồng trại chăn nuôi gai cầm với quy mô lớn. Bên cạnh đó, cơ cấu giống gia cầm cũng đang có sự chuyển đổi theo hướng tích cực: giảm tỉ trọng của các giống gia cầm địa phương cho năng suất thấp như gà ri…. Tăng tỉ trọng của nhóm gia cầm mới cho năng suất cao như: gà Tam Hoàng, ngan Pháp, vịt siêu thịt, siêu trứng… Trong cơ cấu giống gia cầm của tỉnh thì gà vẫn là giống nuôi chủ yếu, năm 2009, đàn gà chiếm 78,8% tổng đàn gia cầm, các loại gia cầm khác chỉ chiếm 21,2%. Trong những năm qua chăn nuôi của tỉnh Hải Dương nói riêng và cả nước nói chung gặp nhiều khó khăn nên số lượng đàn gia cầm trong những năm qua có nhiều biến động do có nhiều dịch bệnh bùng phát trên diện rộng hủy diệt hàng loạt đàn gia cầm, thậm chí còn ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, đặc biệt là dịch cúm gia cầm. Do đó, số lượng gia cầm nói chung và đàn gà nói riêng có xu hướng giảm. Tuy nhiên, đến năm 2009, số lượng đàn gia cầm nói chung và số lượng đàn gà nói riêng của tỉnh Hải Dương có tăng lên do người chăn nuôi đã có nhiều biện pháp phòng ngừa dịch bệnh, do vậy cũng hạn chế tổn thất khi dịch bệnh xảy ra. Chăn nuôi gia cầm được phát triển ở hầu hết các huyện trong tỉnh, trong đó, huyện Chí Linh có số lượng đàn gia cầm lớn nhất. Do chăn nuôi gia cầm mang lại hiệu quả kinh tế cao, cơ sở thức ăn (phụ phẩm của ngành trồng trọt, thức ăn công nghiệp…) được đảm bảo. Năm 2008, huyện Chí Linh có tổng số đàn gia cầm là 785.286 com, chiếm 11,5%. Thấp nhất là thành phố Hải Dương chỉ có 209.738 con, chiếm 3,1%, do thành phố Hải Dương cosoos lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ít mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nên chăn nuôi gia cầm không phát triển bằng các huyện khác trong tỉnh. c) Chăn nuôi khác Trong những năm gần đây, mô hình kinh tế trang trại VAC, VACR ngày càng được chú trọng. Hải Dương có điều kiện khí hậu thuận lợi cho cây cối siinh trưởng quanh năm, là điều kiện để phát triển nghề nuôi ong. Nuôi ong là một nghề truyền thống đã gắn bó lâu đời với người nông dân lại không tốn nhiều công lao động, vốn đầu tư không lớn, thu nhập khá cao, nuôi ong còn thụ phấn giúp cho cây trồng từ đó nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng. Bên cạnh đó, nhu cầu của con người về các sản phẩm từ việc nuôi ong là rất lớn: mật ong, sáp… nên tăng thu nhập cho người dân. Do đó, số lượng đàn ong của tỉnh liên tục tăng, kèm theo đó là sự gia tăng về sản lượng mật ong. Năm 2000, toàn tỉnh đạt 47 tấn mật ong, đến năm 2009 con số này đạt 110 tấn, tăng gấp 2,34 lần. Các huyện có nghề nuôi ong phát triển là huyện Chí Linh, huyện Thanh Hà… Do những huyện này có diện tích trồng vải lớn là cơ sở để phát triển nghề nuôi ong cho chất lượng mật ong tốt. Tuy nhiên, nghề nuôi ong ở tỉnh Hải Dương vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của tỉnh: giống ong có năng suất chưa cao, quy mô nuôi ong nhỏ. Ngoài nghề nuôi ong lấy mật còn có nghề nuôi tằm lấy kén cũng đang được phát triển, tuy nhiên, sản lượng tằm chưa ổn định do nhu cầu của thị trường về tơ tằm không ổn định. Sản lượng kén tằm có xu hướng tăng trong giai đoạn từ năm 2000 – 2005, tăng từ 369 tấn lên 1153 tấn tăng gấp 3,1 lần. Nhưng trong giai đoạn sau, ản lượng kén tằm có xu hướng giảm, năm 2008 sản lượng kén tằm giảm xuống còn 1040 tấn. Sản lượng kén tằm giảm do khoa học kĩ thuật phát triển nên ngày càng có nhiều loại vải có chất lượng tốt mà giá thành thấp hơn vải tơ tằm nên nhu cầu về kén tằm giảm. Nuôi tằm có năng suất lao động không cao so với chăn nuôi các giống vật nuôi khác. Do đó, trên địa bàn tỉnh Hải Dương còn rất ít xã có ngành chăn nuôi tằm phát triển. Hiện nay, ngành nuôi tằm của tỉnh chỉ được phát triển ở một số xã, thôn của huyện Kinh Môn có nghề trồng dâu tằm phát triển, ti

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTình hình phát triển nông nghiệp hải dương giai đoạn 2000 - 2009.docx
Tài liệu liên quan