PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. 1
2. Tình hình nghiên cứu. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 3
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn. 4
5. Phương pháp nghiên cứu. 4
6. Kết cấu: 4
NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG. 5
1.1. Khái niệm gia đình. 5
1.2. Vị trí, vai trò của gia đình Việt Nam truyền thống
và hiện đại đối với sự phát triển xã hội. 8
1.3. Chức năng của gia đình. 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ,
VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP. 14
2.1. Thực trạng gia đình Việt Nam hiện đại. 14
a. Tình trạng kết hôn. 14
b. Số lượng gia đình tăng nhanh, kết câu và quy mô
gia đình nhỏ dần. 15
c. Chức năng gia đình biến đổi từ khép kín đến xã hội hoá. 16
d. Hình thức gia đình ngày càng phong phú phức tạp. 17
e. Gia đình là hạt nhân văn hoá. 18
2.2. Nguyên nhân của thực trạng. 19
2.3. Các giải pháp nhằm phát triển gia đình hiện đại trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 20
2.3.1. Giải pháp về kinh tế, việc làm. 20
2.3.2. Giải pháp về các chính sách xã hội. 21
2.2.3. Giải pháp về giáo dục. 22
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2098 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Gia đình Việt Nam hiện đại trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm. Nó được hình thành trên cơ sở hôn nhân (tình yêu và tính giao) và quan hệ huyết thống có được từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng). Nó là một tổng thể xã hội mang tính toàn cầu, nhưng gia đình như thế nào lại phụ thuộc vào các nền văn hoá, các chế độ xã hội và bản sắc dân tộc. Chính vì thế mà không thể có một mô hình, một quan niệm duy nhất về gia đình cho mọi hoàn cảnh và mọi thời đại.
Ở nước ta, trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua, gia đình Việt Nam có sự chuyển biến hết sức mạnh mẽ. Nhưng về căn bản, nó vẫn được xây dựng trên cơ sở hôn nhân. Hôn nhân hiện tại vẫn mang ý nghĩa hết sức thiêng liêng đối với thế hệ trẻ. Hôn nhân được hình thành trên cơ sở tình yêu của đôi nam nữ, được gia đình hai bên đồng tình và được chính quyền xãc nhận. Sự đề cao tình yêu và tôn trọng ý kiến cha mẹ và pháp luật, chứng tỏ lớp trẻ hiện nay đang xây dựng một mô hình gia đình hạnh phúc, hài hoà giữa truyền thống và hiện tại (đương nhiên bây giờ còn có những gia đình không có con cái hoặc không sinh con, chỉ có hai vợ chồng khác dòng máu sinh sống; có gia đình nhiều chủng loại con cái: con anh, con tôi, con chúng ta; gia đình chỉ có cha mẹ và con nuôi; có gia đình chỉ có anh em chăm nuôi lẫn nhau....).
Về quy mô và loại hình gia đình cũng đang có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Hiện nay, số người trung bình tỏng một gia đình chỉ hơn bốn người chiếm tỷ lệ đa số. Nhìn chung, gia đình đo thị có số người ít hơn gia đình nông thôn, gia đình ở miền đồng bằng ít hơn gia đình ở miền núi và gia đình trẻ có số người ít hơn gia đình tuổi cao. Đặc biệt là gia đình hạt nhân có tỷ lệ khá cao, chiếm 68,46% tổng gia đình trong cả nước.
Rõ ràng, gia đình hai thế hệ đang chiếm ưu thế trong các loại gia đình hiện nay. Điều đáng chú ý là nhóm gia đình trẻ chiếm hầu như đa số các gia đình hạt nhân, qua điều tra cho thấy họ vừa mong muốn loại gia đình hai thế hệ, lại vừa muốn được gần gũi bố mẹ. Nghĩa là lớp trẻ vừa muốn có gia đình độc lập, lại vừa mjốn gần gũi, gắn bó chặt chẽ với bố mẹ và anh em.
Một chuyển biến khá rõ nét trong các gia đình trẻ ở nước ta hiện nay là sự bình đẳng giữa vợ chồng trong cuộc sống gia đình. người ta vẫn nghĩ rằng gia đình Việt Nam là gia đình gia trưởng (đành rằng trong gia đình người đàn ông vẫn được đề cao). Nhưng thực tế, sự phân công lao động và phân công vai trò trong gia đình đã có sự đổi mới mau lẹ. Đó là, những vấn đề lớn trong gia đình thì cả hai vợ chồng cùng bàn bạc chiếm 60 - 90%. Đặc biệt cao nhất là cùng bà bạc, quyết định hôn nhân, nghề nghiệp của con và số con trong gia đình chiếm từ 85 - 95%. Sự bình đẳng giới ở đô thị tốt hơn ở nông thôn, ở những người có trình độ văn hoá tốt hơn nhiều người có học vấn thấp.
Nhờ vậy, nếu muốn định nghĩa về gia đình theo hiện tại thì phải mở rộng ra nhiều lần để có thể thu thập được những kiểu, loại về gia đình phong phú hiện nay. Vì vậy trong thông điệp nhân quốc tế gia đình năm 1994, Liên hợp quốc đã nhấn mạnh rằng: Trên thực tế đặc điểm của các thể chế gia đình hiện nay là tính đa dạng của nó. Gia đình là một thể chế có tính toàn cầu, thể chế đó lại có hình thái khác nhau và thực hiện các chức năng của nó một cách khác nhau. Do đó, không thể có một quan niệm duy nhất về gia đình và không thể đưa ra một định nghĩa có thể áp dụng cho toàn cầu.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI.
Gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng của gia đình truyền thống (gia đình của nhân dân lao động), được hình thành và phát triển trong thời gian dài dựng nước và giữ nước của dân tộc. Như vậy, gia đình truyền thống Việt Nam có đặc điểm là nó gắn liền với xã hội nông thôn, với một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp, lấy sinh hoạt kinh tế trồng lúa nước là chính. Nó còn chịu sự chi phối của tư tưởng Khổng giáo, nó thường gắn bó chặt chẽ với họ hàng, làng xã mang tính chất phụ quyền gia trưởng. Kiểu gia đình truyền thống này có những mặt tích cực như:
Thứ nhất: Các thành viên rất coi trọng gia đình “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Luôn luôn quan tâm nhấn mạnh đến gia đình, coi gia đình là cơ cấu xã hội điển hình và là trung tâm của xã hội, “đất có thổ công, sông có hà bá”, hay “một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
Thứ hai: Quan hệ trong gia đình, kính trọng và biết ơn người sinh thành ra mình “công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Nề nếp trên, dưới, thương yêu đùm bọc nhau “anh em như thể chân tay, đói lành đùm bọc, dở hay đỡ đàn”.
Thứ ba: Phụ nữ thủy chung, đảm đang đóng góp cho gia đình, nó thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau trong lao động, chăm lo con cái, công việc gia đình (Việt Nam người đảm đang nhất là con dâu trưởng).
Bên cạnh đó, gia đình Việt Nam truyền thống còn có những mặt hạn chế:
Hạn chế đầu tiên là việc kết hôn do người trên nhất là do bố mẹ sắp đặt không chú ý đúng mức dến tình yêu của con cái (bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy). Về hôn nhân thì “trai năm thể bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Trong gia đình phong kiến theo tục tam tòng: tại gia tòng phụ, xuất xuát tòng phu, phu tử tòng tử.
Tiếp theo, phụ nữ không được coi trọng, suốt ngày gắn bó với nội trợ, chăm sóc chồng con, gia đình nhà chồng... không có điều kiện tham gia vào các công việc của xã hội. Vai trò của người phụ nữ chỉ được bó hẹp trong gia đình. Sự bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình diễn ra, trên bảo dưới phải nghe, phụ nữ không có ý kiến gì.
Tư tưởng đông con: càng đông con bao nhiêu càng phúc bấy nhiêu (trời sinh voi trời sinh cỏ, con đàn cháu đống).
Lễ nghi trong gia đình như cưới xin, ma chay, giỗ chạp còn rườm ra, tốn kém không văn hoá.
Vì vậy, việc xây dựng gia đình là một trong những vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Gia đình mới của Chủ nghĩa xã hội ra đời trên sự kế thừa những nét đẹp gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại về gia đình. Gia đình truyền thống được hun đúc lâu đời trong lịch sử dân tộc, bước vào thời kỳ đổi mới, gia đình ấy bộc lộ nhiều tích cực và cả tiêu cực. Nghệ thuật quản lý Xã hội Chủ nghĩa là biết xác định, duy trì và phát huy những nét đẹp và có ích , đồng thời tìm ra những hạn chế và tiến tới khắc phục những hủ tục của gia đình cũ. Tất nhiên kế thừa không phải là “phục cổ”. Những gì tiếp thu của gia đình quá khứ đều phải nhằm bổ sung và làm phong phú thêm gia đình Chủ nghĩa xã hội.
1.3. CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH.
Mực dù gia đình và các chức năng của gia đình ở các xã hội phát triển đã thay đổi căn bản so với quan niệm về gia đình ở vài thập niên trước đây, nhưng qua khảo sát chúng ta nhận thấy các chức năng chủ yếu của gia đình Việt Nam hiện nay vẫn hết sức được đề cao, nhất là các chức năng kinh tế, tái sản sinh ra các thành viên mới và giáo dục.
Công việc đổi mới đất nước đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế hộ gia đình trở thành một đơn vị sản xuất và kinh doanh độc lập. Có một nét đặc biệt trong quan hệ kinh tế gia đình là mọi thành viên trong gia đình đều huy động mọi nguồn lực, mọi tiềm năng, hy sinh cả lợi ích cá nhân đề làm giàu cho gia đình, cho lợi ích chung của gia đình.
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế cá thể và tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài, nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm số lượng công nhânhân vậtà doanh nghiệp Việt Nam.
Ở nông thôn Việt Nam và ở các vùng kinh tế của đất nước, gia đình làm nghề nông và làm nghề thủ công thì chức năng kinh tế của hộ gia đình là khá rõ nét. Riêng ở đô thị, nhất là đối với các gia đình công nhân viên chức làm công ăn lương thì chức năng chủ yếu là tổ chức đời sống của gia đình, họ chú ý hơn đến việc tạo dựng một gia đình có cuộc sống nề nếp, nợp lý, khoa học và văn minh trên cơ sở thu nhập thực tế của gia đình.
Như vậy, cùngvới sự phát triển chung của đất nước, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, kinh tế gia đình đang tiếp cạn nhanh chóng với công nghệ, khoa học kỹ thuật và phát triển ổn định lâu dài thì đó sẽ là điều kiện để gia đình thực sự là nguồn lực to lớn của sự phát triển đất nước.
Gia đình là nơi tái sản xuất ra con người, tái sản xuất sức lao động và nuôi dưỡng con người, tạo ra con người có thể chất tốt.
Tình dục thực chất là nền tảng sinh học mà gia đình được hình thành và xây dựng trên đó. Nó gắn liền với chức năng sinh đẻ truyền thống là một tỏng những chức năng cơ bản nhất của gia đình Việt Nam ngày nay. Nếu không có quan hệ tình dục giữa vợ và chồng và không sinh ra con thì khó có gia đình nào có thể tồn tại và hạnh phúc được. Cố nhiên, tình dục là lĩnh vực thầm kín nhất của đời sống con người, nhưng đó là khả năng hết sức mạnh mẽ đối với từng cá thể, là tổ ấm tạo ra hạnh phúc cho mỗi đời người nên không ở đâu, con người được sinh ra, được nâng niu, đùm bọc, dạy dỗ, được hưởng hạnh phúc, được chăm sóc để có một thể chất tốt, một tinh thần tốt như ở gia đình. Trên thực tế, gia đình Việt Nam có một sứ mệnh lớn lao là làm cho những thế hệ người Việt Nam sau này khoẻ mạnh hơn thế hệ trước và không những khoẻ mạnh hơn, mà còn phải cao hơn, đẹp hơn, thông minh hơn. Việc tái sản xuất ra con người có chất lượng không ai có thể làm thay chức năng của gia đình được. Cho nên, ở đây không phải chỉ là sinh đẻ, truyền giống mà còn là vấn đề nuôi dưỡng, tạo ra những con người Việt Nam cường tráng về thể lực, cao đẹp về tâm hồn thuộc về bổn phận và trách nhiệm của mỗi gia đình Việt Nam ngày nay.
Với chức năng giáo dục, gia đình là nơi nuôi dướng bảo vệ con người một cách toàn diện nhất đối với thế hệ tương lai của gia đình.
Gia đình được coi là trường học đầu tiên của mỗi cá nhân và cha mẹ là người thầy dạy đầu tiên cho con người lòng nhân ái, tình yêu thương, tính thiện, lòngvị tha....
Từ tình yêu thương tha thiết, cha mẹ cần phải dạy cho con thành người có ích cho xã hội, biết yêu thương con người, có hiếu với cha mẹ và các bậc tiền nhân. Thời đại ngày nay ngoài thể lực khoẻ mạnh, con người cần phải có trí tuệ, nhân cách đạo đức và cha mẹ là người phát hiện những năng lực, sở trường của con để khuyến khích, bồi dưỡng và phát huy.
Hiện nay, quan niệm về chức năng giáo dục của gia đình vẫn được coi là truyền thống và gia giáo. Gia đình có ý nghĩa đặc biệt dường như không thể là tạo lập nhân cách cho con người. Những vấn đề bức xúc của tệ nạn xã hội, của sự gia tăng ly hôn.... tronbg những năm qua càng khẳng định quan điểm giáo dục gia đình là rất quan trọng.
Ngoài ra, gia đình còn có chức năng kinh tế, chức năng tiêu dùng, chức năng giữ gìn và truyền thụ các giá trị văn hoá truyền thống để giáo dục, bồi dưỡng nhân cách các thành viên trong gia đình và dòng tộc.
Như vậy, vị trí và chức năng của gia đình được quy định một cách khách quan. Những tư tưởng quá nhấn mạnh đến gia đình, coi gia đình như là hình mẫu của mọi thiết chế.... hoặc hạ thấp gia đình, đánh đồng gia đình và xã hội, thậm chí đòi xoá bỏ gia đình đều là sai lầm và với mực độ khác nhau sẽ gây mâu thuẫn giữa gia đình và xã hội, ngăn cản sự phát triển của chính gia đình.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP.
2.1. THỰC TRẠNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.
Nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Gia đình Việt Nam cũng đang có những bước chuyển biến theo những định hướng của gia đình Xã hội Chủ nghĩa. Gia đình ở nước ta đã có những thay đổi đáng kể trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cụ thể:
a. Tình trạng kết hôn.
Ở nước ta vấn đề kết hôn được coi trong, nó là việc thiêng liêng của hai người, gia đình, họ mạc, láng giếng. Kết hôn là một trong ba vấn đề lớn nhất của đời người “tậu trâu, cưới vợ, làm nhà”.
Vấn đề kết hôn là vấn đề trăm năm đang đi vào lòng người cả nước, 99% là tổ chức kết hôn. Thành phố là 94%, đồng bằng 91%, miền núi trung du 91,3%. Để đi đến kết hôn, việc tìm hiểu giữa nam và nữ kỹ càng hơn thể hiện tính tự do, tiến bộ theo tiêu chí tự nguyện một vợ - một chồng bình đẳng có tính pháp lý, nữ 18 tuổi, nam 20 tuổi nay vận động nữ 22 tuổi, nam 25 tuổi. Việc hôn nhân do nam nữ quyết định không bên nào ép buộc bên nào, không được kết hôn trong những trường hợp: người đang có cợ, đang có chồng, người mất chức năng hành vi dân sự, người có dòng máu trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, bố với con dâu.... Vấn đề cơ bản việc kết hôn trong nước ta được thực hiện rất tốt.
Ở nước ta việc kết hôn phải đăng ký và do cơ quan nhà nước thực hiện, hiện nay ở nước ta có 92,3% các cuộc hôn nhân nào được đăng ký, thành phố là 93,5%, đồng bằng là 92,2%, miền núi 91,7%.
Hiện tượng tảo hôn ở địa phương vẫn còn, nữ là 2,41%, năm 2,15%. Cưỡng ép kết hôn là 10%, tình trạng không đăng ký kết hôn là 6,8%.
Về việc cưới xin tuy có định hướng và dư luận chấp nhận nhưng vẫn diễn ra phức tạp, tốn kém đặc biệt tình trạng ly hôn ngày càng tăng; năm 1991 có 22.632 vụ, năm 1992 có 29.252 vụ, năm 1993 có 30.000 vụ. Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1996 - 2000 có 45.044 vụ. Trong đó, tỷ lệ ly thân trong dân cư từ 13 tuổi trở lên là 0,7%, ngày nay là 1%.
b. Số lượng gia đình tăng nhanh, kết câu và quy mô gia đình nhỏ dần.
Qua mỗi một giai đoạn số lượng gia đình hàng năm ở nước ta tăng: năm 1921 dân số nước ta có 15,58 triệu người, năm 1960 là 30,17 triệu người, năm 1986 là 60,47 triệu người, hiện nay là hơn 80 triệu. Tốc độ phát triển gia đình tang nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế: năm 1979 nước ta có 9,7 triệu hộ gia đình, năm 1989 là 13 triệu hộ, năm 1992 là 13,7 triệu, đầu năm 2004 là 16 triệu hộ.
Hiện nay hầu như không có gia đình năm thế hệ mà chủ yếu là gia đình hai thế hệ gọi là gia đình hạt nhân; ở thành phố gia đình hạt nhân 82,3%, đồng bằng 81,7%, miền núi và trung du 80,6%. Thành phố gia đình ba thế hệ là 33,3%, đồng bằng 13%, miền núi và trung du 18%. Gia đình bốn thế hệ ở thành phố là 0,3%, đồng bằng 0,7%, miền núi và trung du là 0,4%.
c. Chức năng gia đình biến đổi từ khép kín đến xã hội hoá.
- Chức năng kinh tế và tiêu dùng.
Về mặt tiêu dùng trong gia đình sản xuất nước ta đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân, nhu cầu tiêu dùng có xu hướng tăng nhanh.
+ Ở thành phố 99% gia đình có ti vi, 77% có radio cát sét, 66,6% có video, 79% có tủ lạnh, 75,7% có điện thoại.
+ Ở Nông thôn 54,4% gia đình có ti vi, 30,7% có radio cát sét, 71,9% có xe đạp, 23,9% có giường tủ đắt tiền, 13,9% có xe máy.
+ Miền núi và tủng du 62,5% gia đình có ti vi, 25,5% có radio cát sét, 89,1% có xe đạp, 19,9% có xe máy.
Chức năng sinh đẻ:
- Số con trung bình của mỗi phụ nữ ở tuổi sinh đẻ ở nước ta (15 - 49 tuổi) ngày càn giảm: năm 1960 bình quân 6,36 con/phụ nữ, năm 1975 là 5,25 con/phụ nữ, năm 1994 là 3,1 con/phụ nữ, năm 1999 là 2,1 con/phụ nữ, năm 2002 là 2,28 con/phụ nữ.
Trong xã hội hiện đại mọi người phải hoạt động với cường độ mạnh, tốc độ cao chính vì lẽ đó mà họ không còn thời gian chăm lo giáo dục đối với con cái. Theo kết quả điều tra năm 2000 tại thành phố Hồ Chí Minh thì 17,8% trong số 900 hộ gia đình cho hay vì quá bận bịu với việc mưu sinh, họ không còn thời gian dành cho việc trò chuyện tâm sự với con cái chăm lo tới việc học hành của con. 35,2% trong sô 900 hộ gia đình cho biết họ cố gắng lắm họ cũng chỉ dành được 15 phút trong ngày cho con cái, một thời gian chỉ đủ hỏi hạn qua loa việc học hành và quan hệ bạn bè của con cái mà thôi.
Hầu hết con trẻ trong các gia đình hiện nay kể cả gia đình công nhân viên chức lẫn gia đình lao động tự do đều giao phó cho hệ thống trường học từ mẫu giáo đến trung học.
d. Hình thứcgia đình ngày càng phong phú phức tạp.
- Hình thức hôn nhân một vợ - một chồng là hình thức gia đình phù hợp nhất đối với sự phát triển mọi mặt của xã hội. Nó phù hợp cả về đạo đức cũng như đạo lý và coi nó như nội dung quan trọng của hôn nhân trong xã hội tiến bộ.
- Gia đình là một nửa hạt nhân tức là gia đình chưa có con cái hoặc con cái chưa trưởng thành nhưng có họ hàng đến ở cùng. Đây là gia đình rất phức tạp.
- Gia đình thiếu thành phần, chưa đầy đủ là gia đình thiếu vợ hoặc thiếu chồng, gia đình không thể có con, gia đình có hiện tượng ly thân ly hôn, gia đình có vợ hoặc chồng đi công tác xa, con cái đi xa vài năm....
- Gia đình hỗn hợp, gia đình có “con anh, con tôi, con chúng ta”, ở những gia đình này có nhiều việc cần phải giải quyết tế nhị thận trọng để được yên ổn gia đình.
- Gia đình có yếu tố nước ngoài do yếu tố ngoại giao gia đình có yếu tố nước ngoài không chỉ là chồng lấy vợ nước ngoài, cho con làm con nuôi nước ngoài.
- Ngoài ra còn có các hình thức gia đình khác như gia đình nông dân, gia đình đa giai cấp, đa thành phần kinh tế, gia đình đa dân tộc, gia đình đồng tính luyến ái, gia đình hôn nhân thử, gia đình không con.
e. Gia đình là hạt nhân văn hoá.
Trong tính truyền thống, tính hiện đại và cả tính đặc thù gia đình luôn là hạt nhân của tiếp biến văn hoá truyền thống và hiện đại, nó bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc, vun đắp qua lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự lực dân tộc, tinh thần đoàn kết ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình làng xã với nhau, cộng đồng làng xã nước ta bền chặt là bản sắc của văn hoá Việt Nam “thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”. Lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa đạo lý, giá trị này có thể coi là một trong những nội dung là cơ sở để giải quyết vấn đề gia đình.
Ngày 16/7/1998 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã an hành nghị quyết Hội nghị lần thứ năm (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dan tộc. nghị quyết chỉ rõ: “.... làm cho văn hoá thấm sâu vào tòn bộ đời sống và hoạt động xã hội vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng. Từng địa bàn dân cư vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp. Trình độ dân trí cao phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá vì mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy cùng với thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội gia đình phát triển theo những xu hướng mới, gia đình trở thành một trong những tiểu hệ thống của xã hội. Sự hoạt động sinh sống của nó là một bộ phận tự phát tương đối độc lập của xã hội có những xu hướng phát triển của riêng mình.
2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG.
Gia đình nước ta cũng đã thay đổi đáng kể theo hướgn gia đình Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thành tựu chưa nhiều, chưa thực sự sâu rộng và vững chắc, điều đó có nguyên nhân trực tiếp từ những tác hại của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, do hậu qủa của chiến tranh, của những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài.... về phía chủ quan, nguyên nhân sâu xa là việc xây dựng gia đình mới chưa thật đầy đủ, chưa thật quan tâm giữ gìn tinh hoa của gia đình truyền thống, chưa quan tâm đúng mức tình cảm của cá nhân, tiềm lực kinh tế của gia đình chưa được khai thác, trách nhiệm đối với gia đình và văn hoá gia đình chưa có vị trí xứng đáng trong nội dung của giáo dục ở nhà trường và trong xã hội.
Do mâu thuẫn trong quan điểm lối sống với sự tính toán làm ăn hiện nay khi lấy nhau không cân nhắc, tìm hiểu sơ sài, phụ bạc nhau lúc hàn vi, thương yêu nhau lúc có bổng lộc, hắt hủi phụ bạc nhau khi đi nước ngoài về giàu sang học đòi lối sống. Do mâu thuẫn trong tư tưởng cũng để lại, mê tín dị đoan theo tướng số, đó là sự ép duyên chạy theo đồng tiền sùng bái những lực lượng bệnh hoạn.
Do yêu tốc độ, thời đại công nghiệp hoá nên mọi người đi nhanh hơn, nói nhanh hơn, ăn cũng nhanh hơn. Còn tình yêu và hôn nhân của thanh niên cũng không ra khỏi quỹ đạo đó. Nếu hình dung một mối tình từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc giống như một quyển sách thì tình yêu của các thế hệ trước đây như cuốn tiểu thuyết dài với nhiều chương hồi còn tình yêu bây giờ giống như một truyện ngắn. Họ làm quen nhanh hơn, trao nhau nụ hôn nhanh hơn, quyết định đi đến hôn nhân nhanh hơn và đi đến ly dị cũng nhanh hơn.
Ngoài ra có các nguyên nhân khác như tâm lý muốn có con trai lối dõi, di dân tự do.... Từ những vấn đề này cho thấy trong thực tế gia đình mới ở nước ta đang ở mức báo động. Do vậy yếu tố gia đình mới và cũ còn tồn tại xen kẽ vào nhau. Xã hội với cơ cấu giai cấp không thuần nhất và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nên gia đình cũng có nhiều dạng khác nhau bị chi phối bởi tư tưởng và tâm lý các giai tầng khác nhau đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC.
Qua các phần đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rõ gia đình có tầm quyết định quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta nói riêng. Song như phần trên đã trình bày thực trạng gia đình Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế, nhìn chung chưa đáp ứng được nhiệm vụ phát triển của nước ta hiện nay và cả trong tương lai. Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, các điều kiện để hình thành gia đình mới không xuất hiện và có tác dụng đầy đủ lập tức mà chỉ có thể hoàn chỉnh dần từng bước. Đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp để phát triển gia đình Việt Nam hiện đại trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2.3.1. Giải pháp về kinh tế, việc làm.
Cần phải có những chính sách nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động mà trước hết phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm phát huy mặt mạnh của các thành phần kinh tế góp phần giải quyết công ăn việc làm, giải quyết số lao động dưa thừa và tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội lựa chọn ngành nghề. Đặc biệt quan tâm tạo việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, vì ở lĩnh vực này số lao động chiếm tỷ lệ cao nhưng chỉ số sử dụng lại thấp, vẫn còn một lực lượng lớn lao động chưa có việc làm hoặc bán việc làm. Để làm được điều này cần có công tác quy hoạch hoặc kế hoạch hoá dài hạn về lao động, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu nông nghiệp, chú trọng đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội ở nông thôn. Chú trọng tạo việc làm cho người lao động đã qua đào tạo, không để tình trạng làm hợp đồng, làm ca, làm tạm thời.... cần tăng vốn đầu tư, tạo việc làm để người lao động đảm bảo cuộc sống gia đình của mình. Trước mắt no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc chính là chuẩn mực cần vươn tới của gia đình mới của nước ta. Sự no ấm phải là kết quả của lao động cần cù, sáng tạo việc làm ổn định. Gia đình hạnh phúc không phải là cái gì trừu tượng mà là tổng hoà những nét đẹp thường ngày của cuộc sống gia đình.
2.3.2. Giải pháp về các chính sách xã hội.
Bên cạnh giải pháp về kinh tế, việc làm thì giải pháp về các chính sách xã hội cũng góp phần không nhỏ vào việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các chính sách xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau nhưvấn đề chăm sóc sức khoẻ về dân số, kế hoạch hoá gia đình.
Nói về sức khoẻ thì sự cường tráng về thểchất, sự thoải mái về tâm hồn, vừa là nhu cầu của bản thân của mỗi con người, vừa là vốn quý đề tạo ra cái tài sản trí tuệ và vật chất cho toàn xã hội. Trong văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã viết: “Trí tuệ là tài sản quý nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khoẻ là tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó”. Muốn gia đình phát triển tốt cần phải chăm lo sức khoẻ cho mọi thành viên trong gia đình, phải quan tâm xây dựng và củng cố cơ sở y tế, và làm tốt công tác y tế dự phòng, phòng các bệnh dịch, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, và phát động mạnh mẽ phong trào thể dục thể thao trong quần chúng.... bên cạnh vấn đề sức khoẻ thì nâng cao chất lượng dân số cũng cần được quan tâm và phát triển.
Quan tâm một cách thiết thực và toàn diện hơn nữa đến phụ nữ, phụ nữ vừa là mục tiêu vừa là điều kiện quan trọng để xây dựng và củng cố gia đình Việt Nam hiện đại. Những quan điểm lớn về giải phóng phụ nữ đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Cần tích cực hơn để đạt được trong những thực tế mục tiêu là có kế hoạch này đưa ra. Qua đó, phụ nữ Việt Nam có điều kiện làm tốt công việc gia đình và làm tròn trách nhiệm xã hội.
2.2.3. Giải pháp về giáo dục.
Giáo dục trẻ em là điều kiện tất yếu để xã hội tồn tại và phát triển. Muốn xã hội ngày càng một tiến lên, người lớn đồng thời phải làm hai công việc có quan hệ khăng khít hỗ trợ lẫn nhau: đảy mạnh lao động sản xuất để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và chăm lo nuôi dạy con cái để đào tạo kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giáo dục con em ta thành lớp người lao động mới là trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân trong đó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Gia đình Việt Nam hiện đại trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá - thực trạng và giải pháp.doc