Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay

Mục Lục

Lời nói đầu

Chương 1 Tổng quan về thị trường Tài chính

1.1 Vai trò của thị trường Tài chính

1.1.1 Khái niệm

1.1.2 Chức năng

1.1.3 Vai trò

1.2 Các chủ thể của thị trường Tài chính

1.2.1 Các chủ thể đi vay

1.2.2 Các chủ thể cho vay

1.3 Cấu trúc của thị trường Tài chính

1.3.1 Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần

1.3.2 Thị trường cấp 1 và cấp 2

1.3.3 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn

1.4 Các công cụ trên thị trường Tài chính

1.4.1 Các công cụ trên thị trường tiền tệ

1.4.2 Các công cụ trên thị trường vốn

1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường Tài chính

1.5.1 Các yếu tố nội tại

1.5.2 Các yếu tố kinh tế chung

1.5.3 Các nhân tố kinh tế xã hội

1.5.4 Tình hình chung của các công ty

Chương 2 Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam hiện nay

2.1 Quá trình phát triển thị trường Tài chính Việt Nam

2.2 Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam

2.2.1 Các công cụ của thị trường

2.2.2 Cấu trúc thị trường

2.2.3 Các chủ thể của thị trường

2.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường

2.3 Đánh giá thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam hiện nay

2.3.1 Những kết quả đạt được

2.3.2 Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân

Chương 3 Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường Tài chính Việt Nam

3.1 Định hướng phát triển thời gian tới

3.2 Giải pháp hoàn thiện và phát triển

3.2.1 Giải pháp

3.2.2 Kiến nghị

Kết luận

 

doc66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3981 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp Các nhà kinh tế tham dự cuộc hội thảo do ngân hàng châu Á (ADB) tổ chức tại Manina (Philipin) tháng 10 năm 1997 đã đi đến kết luận là khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trong 3 năm hay cũng đồng thời dự báo với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông nam Á sẽ chỉ đạt từ 3-4% trong 2 năm 1997 và 1998. Kết quả đã làm cho một ố dòng đầu tư dự định vào khu vực này đã đổi hướng sang Mỹ La tinh đang được coi là khu vực kinh tế mới nổi. Dự đoán này làm cho thị trường tài chính khu vực kém sôi động, giá cả các loại cổ phiếu, trái phiếu sụt giảm mặc dầu còn nhiều nguyên nhân khác. Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng quy mô của sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng là mức tăng % hàng năm của biến số này. Như vậy tốc độ phản ánh diễn biến kinh tế của giai đoạn hiện tại và dự đoán sức khỏe của nền kinh tế trong tương lai. Nếu tốc độ tăng trưởng cao thì cơ hội thu lợi nhuận sẽ lớn các nhà đầu tư tin vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế và mở rộng đầu tư nhu cầu về vốn sẽ lớn nâng lãi suất lên cao. Câu hỏi đặt ra là tại sao trong thời gian qua từ 1991 đến 2007 ở Việt Nam tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng lên đến 8-9% mà lãi suất không ngừng được điều chỉnh theo xu hướng giảm xuống. Câu hỏi này có thể được trả lời dưới nhiều góc độ trước hết là lạm phát phi mã được đẩy lùi, mặt khác là từ khi ngân hàng nước ta thực hiện chế độ ngân hàng hai cấp vào năm 1991 với chính sách mở của nền kinh tế xuất hiện một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài làm cho thị trường tài chính nước ta bước đầu tiếp cận được với thị trường tài chính quốc tế làm lãi suất của ta gần với lãi suất quốc tế hơn (hiện nay khoảng 8,2%/năm). Tuy nhiên gần đây nhất để chống lạm phát , ngân hàng TW Việt Nam và các NHTM liên tục gia tăng lãi suất để hút nguồn tiền đồng vào , cân đối tỷ giá VND với các đồng tiền khác nhằm tránh sự trượt giá và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế có liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là số % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động. Người thất nghiệp được hiểu là người có khả năng và sẵn sàng làm việc ở một mức lương nhất định nhưng không kiếm đựơc việc làm. Khi thất nghiệp ở mức cao sản xuất sút kém tài nguyên không được sử dụng hết thu nhập dân cư giảm sút. Nạn thất nghiệp là vấn đề nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường. Một điều hiển nhiên là tỷ lệ thất nghiệp cao làm cho một số người thu nhập, có nhu cầu đầu tư vốn giảm xuống ảnh hưởng một phần tới cung về vốn hay về cầu trái khoán. - Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái nếu hiểu theo nghĩa rộng là số đồng nội tệ cần thiết để mua một đồng ngoại tệ thì khi tỷ giá hối đoái tăng lên cao thì nhà đầu tư cảm thấy trái phiếu của họ ở các nước láng giềng giữ giá cao hơn và ngược lại khi tỷ giá hối đoái xuống thấp thì của cải của họ đầu tư vào các thị trường tài chính nước ngoài dường như bị mất giá trị. Do đó đây là một trong những cơ sở để xác định trái khoán của quốc gia này có hấp dẫn công chúng của quốc gia khác hay không là nguyên nhân dịch chuyển đường cầu trái khoán do đó ảnh hưởng tới lãi suất. Tuy nhiên sự thay đổi quá lớn trong tỷ giá hối đoái cũng sẽ làm cho những nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy yên tâm vì tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế nơi mà họ đang có ý định mua trái khoán trên thị trường tài chính nước này. Sự sụt giảm giá trị đồng tiền ở hàng loạt các quốc gia Đông Nam Á thời gian quâ đã khiến người ta lầm tưởng đến nền kinh tế địa ốc bong bóng xà phòng của Nhật Bản vào đầu những năm 80. Giờ đây các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngần ngại hơn khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu, trái phiếu của các quốc gia Đông Nam Á so với thời kỳ trước khủng hoảng tài chính tiền tệ. - Triển vọng và các lĩnh vực của nền kinh tế Trong thực tế khó có quốc gia nào liên tục giữ vững tốc độ tăng trưởng một cách đều đặn vì có một nhân tố mang tính qui luật được các nhà kinh tế học gọi là chu kỳ kinh doanh .Chu kỳ kinh doanh được biểu diễn trên đồ thị sau: C A 0 B Tốc độ tăng trưởng Thời gian Trong đó đỉnh của đường cong đánh dấu một sự phát triển phồn thịnh của nền kinh tế còn đáy của đường cong đánh dấu một giai đoạn suy thoái thường gắn với một cuộc khủng hoảng kinh tế. Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng :1918 - 1921; 1929 - 1933; 1970 - 1971; 1971 – 1982 và gần đây nhất là cuộc đại suy thoái 2008-? Trong đó cuộc khủng hoảng 1929 - 1933 trong các nước tư bản có lẽ là cuộc khủng hoảng qui mô và có sức tàn phá ghê gớm nhất đẩy nền kinh tế các nước tụt hậu đến 10 năm. Vậy chu kỳ kinh tế ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính như thế nào? Khi nền kinh tế được dự đoán là thịnh vượng của sản xuất hàng hoá và dịch vụ gia tăng, có thể là đang trong giai đoạn đi từ điểm B đến điểm C trong đồ thị - nhu cầu vay vốn cho sản xuất kinh doanh tăng và cũng tăng cầu về mặt hàng này. D1 i% D2 i2 B A i1 Q1 Q2 Thị trường trở nên sôi động "trăm người bán, vạn người mua" và thông thường thì lãi suất sẽ tăng lên như đồ thị bên ở Việt Nam, mặc dù đời sống nhân dân ta còn chưa cao nhưng ta có truyền thống là tiết kiệm,đặc biệt là từ khi nước ta thực hiện chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế đã khấm khá lên rõ rệt tạo điều kiện tăng khả năng tích luỹ trong nhân dân. Tỷ lệ tích luỹ ở nước ta năm 2007 là 20,4% và người ta dự đoán rằng còn có khoảng 40 ngàn tỷ VND nhàn rỗi chưa được huy động và khoảng 4 tỷ USD đang trôi nổi trong dân cư ,làm sao để nguồn vốn này phát huy tác dụng, các công cụ tài chính của ta đã thực sự hấp dẫn chưa? Tuy nhiên không phải suy thoái của nền kinh tế đều diễn ra đồng đều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế hay trong điều kiện bình thường thì cũng có ngành kinh doanh phát đạt có ngành lại chật vật với những khó khăn. Do đó với một nhà đầu tư họ còn phải lựa chọn đưa của cải đến ngành nào, lĩnh vực nào có lợi nhuận cao nhất. Như vậy lãi suất trái khoán lại còn chịu ảnh hưởng của các hoạt động riêng biệt. Có một thực tế là bất chấp sự khủng hoảng trì trệ của một số ngành khác, ngành công nghệ thông tin đang phát triển một cách nhanh chóng và đã đưa Bill - Gate ông chủ của công ty Microsoft lên vị trí giàu nhất thế giới với tài sản 72 tỷ USD theo đánh giá của Fortune (11-2007) - Ngân sách chính phủ và thái độ với các biến số vĩ mô Năm điều kiện để gia nhập liên minh tiền tệ châu Âu là thiếu hụt ngân sách nhỏ hơn 3% GDP, tổng nợ chính phủ ít hơn 60% GDP, lạm phát dưới 2,72%, lãi suất dài hạn dưới 8,23%/năm và đã tham gia cơ chế tỷ giá ngoại hối, trong đó điều kiện thâm hụt ngân sách không quá 8% là điều kiện khó khăn đối với nhiều nước đây là số lớn khi chúng ta biết rằng GDP của liên minh này khoảng trên 4 ngàn tỷ USD, và năm 1997 có thể sẽ là năm đầu tiên thâm hụt ngân sách của chính phủ Hoa kỳ giảm xuống dưới 100 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách có thể được bù đắp từ nhiều nguồn song chủ yếu là phát hành tín phiếu kho bạc hay trong dài hạn bằng phát hành trái phiếu chính phủ. Chắc hẳn đây là thị trường qui mô to lớn và có sức hấp dẫn cao vì chủ thể phát hành có uy tín bậc nhất sẽ cạnh tranh gay gắt với các công cụ khác trên thị trường tài chính. Như vậy chính phủ cũng là một người bán trên thị trường tài chính, một chủ thể đặc biệt và khổng lồ góp phần quyết định lượng cung trái khoán trên thị trường. Khi chính phủ cần thiết phải có một khoản tiền phục vụ cho nhu cầu nào đó thì chính phủ sẽ phát hành tín phiếu muốn cho công cuộc huy động được nhanh chóng ngoài uy tín của mình chính phủ sẽ nâng lãi suất của mình tới một mức hấp dẫn để bán hết số hàng hoá của mình trên thị trường. Dân chúng sẽ đổ xô đi mua loại tín phiếu này và kết quả là các công ty cũng phải nâng lãi suất trái phiếu của mình lên nếu không dân chúng sẽ giành hết phần ưu ái cho chính phủ, do đó nhân tố ngân sách chính phủ có lúc cũng sẽ quyết định lãi suất trên thị trường tài chính trên phạm vi quốc gia đó. Mặt khác dân chúng cũng quan tâm đến thái độ của chính phủ trong việc giải quyết điều chỉnh các biến số vĩ mô như tỷ lệ lạm phát hay tỉ giá hối đoái. Chính phủ kiên quyết kìm giữ tỉ lệ lạm phát hay cho tỉ lệ này nhích lên một chút ít để kích thích các nhà sản xuất ở trong nước, chủ trương của chính phủ là ổn định tỷ giá hối đoái trong thời gian tới hay là muốn thay đổi để kích thích xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu. Vì vậy các mục tiêu của chính phủ cũng sẽ ảnh hưởng tới các biến số vĩ mô và ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính theo cơ chế như trên. - Kinh tế thế giới và kinh tế khu vực Do xu hướng hội nhập của các nền kinh tế trên thế giới nên cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á 1997-1999 đã lan rộng và ảnh hưởng tới tất cả các thị trường và dẫn đến suy thoái kinh tế trên thế giới. Chúng ta biết rằng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ với các nước Châu á chiếm tới 30% tổng kim ngạch, sau cuộc khủng hoảng cơ hội kiếm tiền ở các nước này không dễ dàng như trước nữa dân chúng còn muốn xài hàng đắt tiền của Mỹ nữa hay không? Nhật Bản chiếm 80% thị phần ô tô ở Châu Á khi các nước này không còn đủ khả năng mua sắm xe Nhật ồ ạt như trước thì kinh tế Nhật có bị ảnh hưởng hay không? và Nhật Bản, dân tộc cho vay lớn nhất trên thế giới có ý định giúp các chi nhánh ngân hàng của họ ở Đông Nam Á hoạt động vững vàng hơn sau cuộc khủng hoảng bằng cách các công ty đa quốc gia của Nhật bản thu hồi vốn trên khắp thị trường tài chính trên thế giới thì tình hình sẽ ra sao? Và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-? Đang xảy ra , giá dầu giảm , thị trường đóng băng , các công ty đua nhau rút vốn để bảo toàn , cắt giảm nhân công , thị trường đi vào giảm phát , liệu còn ai sẽ mua và dùng hàng đắt tiền khi mà hầu bao họ ngày càng giảm đi và nỗi lo cơm áo gạo tiền tăng dần? Tấm gương thị trường tài chính sẽ phản ánh toàn bộ những biến động trong nước bức tranh kinh tế thế giới. Với những nhà kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính hoạt động của họ trên tầm cỡ quốc tế thì những thông tin ở phạm vi này sẽ là những dữ liệu quí giá trong quyết định đầu tư mua bán các công cụ tài chính trên thị trường. Như vậy các nền kinh tế trên thế giới có một mối gắn bó hữu cơ với nhau, và khi một sự kiệndiễn ra rất dễ gây ra phản ứng dây truyền, lãi suất của các công cụ tài chính mà chúng ta đang giữ trong tay cũng không nằm ngoài mối liên hệ này có nghĩa là nó còn chịu ảnh hưởng của những diễn biến cách chúng ta hàng vạn dặm. Các nhân tố kinh tế xã hội : Xu thế hoà bình hợp tác ngày nay đã thay thế cho xu hướng đối đầu trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Các hoạt động ngoại giao diễn ra sôi động giữa các quốc gia điều đó cũng thật dễ hiểu bởi vì kinh tế và chính trị là hai yếu tố đi song hành, kinh tế hỗ trợ và quyết định chính trị và chính trị mở đường cho kinh tế. Vậy các hoạt động ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính như thế nào hãy xem xét bằng một vài thực tế chuyến viếng thăm của chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa sang Hoa kỳ là chuyến thăm được nhiều người mong đợi, đặc biệt là giới doanh nghiệp, ngoài ý nghĩa chính trị cuộc viếng thăm còn mang ý nghĩa kinh tế đẩy tới một bước sự hợp tác giữa hai nền kinh tế lớn. Có lợi nhuận nhất trong cuộc viếng thăm này có lẽ là công ty Boeing, Boeing sẽ cung cấp cho Trung Quốc số lượng máy bay trị giá lên tới 4,5 tỉ USD. Liệu rằng sau này hợp đồng giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty này có tăng lên không? Theo các chuyên gia kinh tế thì để hấp thụ được một đồng vốn của đầu tư nước ngoài thì nước sở tại cần phải có từ 1 đến 2 đồng tương ứng. Như vậy là nảy sinh nhu cầu nguồn vốn lớn trong nước để hấp thụ dòng đầu tư này, cho nên cung về trái khoán sẽ tăng làm tăng lãi suất theo lý thuyết trên. Thị trường tài chính cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố tâm lý. Mặc dù theo lý thuyết kinh tế thì mọi thứ đều đáng nhưng yếu tố tâm lý nhiều khi lại đi ngược với dự đoán. Trong lúc giá trái khoán đang xuống dốc thì có nhà đầu tư vẫn tung tiền thu gom về bất chấp những lời tiên đoán có khủng hoảng kinh tế. Các yếu tố tâm lý cũng chịu ảnh hưởng bởi nhân tố chính trị. Sau khi Thái Lan xảy ra đảo chính tháng 9/2006. Nền kinh tế đã lâm vào suy thoái, đồng Bạt liên tục mất giá. Trên thị trường tài chính nhiều khi chỉ một lời tuyên bố của những người có tên tuổi cũng ảnh hưởng tới lãi suất của các hàng hoá của nó. Cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á 1997-1999 đã gây chấn động các thị trường tài chính trên toàn thế giới thậm chí làm sụt cả chỉ số Dove - Jone và thị trường chứng khoán New york phải ngừng giao dịch trong 30 phút. Trước tình hình đó vào ngày 29 - 10 - 97. Tổng thống Mỹ Bill lintơn đã xuất hiện trên thị trường chấn an các nhà đầu tư bằng các thông báo rằng nền kinh tế Hoa kỳ đang trong giai đoạn phát triển, thất nghiệp đang ở mức thấp và hệ thống ngân hàng vững mạnh, ngay sau lời tuyên bố các thị trường chứng khoán trên thế giới như được hồi phục chỉ số Dove - Jone tăng 4,7%, Heng Shang (HongKong) tăng 18,7%, Franfurt (Đức) tăng 3,5%. Như vậy, yếu tố chính trị xã hội là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến lãi suất của các công cụ tài chính trên thị trường. Tình hình chung của các công ty : Theo các phân tích trên đó thì chỉ là các nhân tố chung ảnh hưởng đến lãi xuất của các công cụ tài chính. Nhưng lãi xuất cụ thể của công cụ phát hành của một công ty không hoàn toàn phụ thuộc vào những nhân tố trên. Với những đầu tư nhỏ thì tình hình của công ty là nhân tố quyết định xem có đem của cải của mình ra mua các hàng hoá được công ty phát hành không. Trước khi quyết định đầu tư thì người mua phải cân nhắc và xem xét tình hình làm ăn kinh doanh của công ty có phát đạt hay không? có tương lai sáng sủa hay không? có lẽ là người ta sẽ không ngần ngại lắm khi quyết định đầu tư mua cổ phiếu hay trái phiếu của công ty do GEROGE-SOROS người bị tình nghi dính líu đến cơn khủng khoảng tài chính tiền tệ ở châu áđiều hành khi đưọc nghe dẫn chứng về biện tài kinh doanh của ong ta" nếu ai đó đã đầu tư 100 ngàn USDvào năm 1989 khi SOROS thành lập quỹ định lượng và đầu tư trực tiếp vào đó các phần lãi được chia của mình thì người đó sẽ thu được cả thay khoảng130 triệu USDvào năm 1994 vì vậy khi biết những tin tốt lành về công ty người ta sẽ tìm mua những cổ phiếu trái phiếu của công ty làm cho cầu về những trái khoán của công ty phát hành tăng lên. Do vậy, đứng dưới góc độ vi mô thì công ty mới là yếu tố chủ yếu quyết định đến thái độ của nhà đầu tư. Ngày nay cùng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật mỗi phát minh có thể cho ra đời một ngành mới vậy các công ty đang hoạt động trên hàng ngàn lĩnh vực cho nên mỗi công ty ngoài những đặc trưng riêng của nói còn mang đặc trưng của lĩnh vực mà nó hoạt động. Do đó các loại hình, qui mô của các công ty là muôn hình muôn vẻ tồn tại, hợp tác và cạnh tranh lẫn nhau. Để đáp ứng lại các tín hiệu thị trường mỗi công ty có phản ứng khác nhau, có các chiến lược kinh doanh khác nhau. Vì vậy cho nên nhu cầu về vốn tại mỗi thời điểm của công ty cũng không giống nhau. Nếu xét theo những tiêu thức này thì lãi suất quy mô nhỏ từng công ty phát hành cũng diễn biến không ngừng. Chương 2 Thực trạng thị trường Tài chính ở Việt Nam hiện nay 2.1 Quá trình phát triển của thị trường Tài chính Việt Nam : Giai đoạn 1986 – 1997 Đại hội Đảng VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Trong những năm sau đó , nền kinh tế VN đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, mức tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1986-1997 đạt 8-9%, lạm phát kìm chế ở mức thấp, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. TTTC Việt Nam được hình thành trong thời kỳ đổi mới, ngày càng gia tăng về quy mô; đồng bộ về cơ cấu, hiện đại hơn về công nghệ, nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế không thể thiếu được trong tổng thể nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong tạo động lực định hướng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cả hiện tại lẫn tương lai... Giai đoạn 1998 – 2006 Khủng hoảng kinh tế ở khu vực châu á xảy ra , các nước như Thái Lan , Philippines , Malaysia , Indonesia và Hàn Quốc.Nguyên nhân là sự rút vốn hàng loạt của các công ty đa quốc gia , các quốc gia thiếu dự trữ ngoại tệ cùng các chính sách kinh tế quá cũ, v.v… đã gây ảnh hưởng xấu đến tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam.Các công cụ tài chính lỗi thời , lạc hậu cùng sự kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài cũ bị thay thế , sửa đổi , bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ cao 7-8% năm .Đồng thời với sự góp mặt của thị trường CK , sự gia tăng hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh doanh vốn của các ngân hàng TM , luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cùng sự nóng lên của thị trường BĐS đã góp phần giúp nền kinh tế Việt Nam khởi sắc và bùng nổ. Giai đoạn 2007 – nay Sau 1 thời gian dài tăng trưởng liên tục và nóng , từ đầu năm 2008 đến trung tuần tháng 6 , sự tụt dốc không phanh của thị trường CK ,sự mất giá của VND cùng sự tăng giá của USD và vàng , sự nguội lạnh đến đóng băng của thị trường nhà đất đã thực sự ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế Việt Nam.Ngay lập tức NHTW Việt Nam cùng các NHTM đã tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát , kết hợp các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã có hiệu quả.Chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu năm 2008 cao từ 15-20%/tháng thì đến giữa năm đã giảm chỉ còn 4-5%/tháng.Nhưng đồng thời trên thế giới , cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lại xảy ra đúng vào lúc nhân dân ta đang chống chịu với đà lạm phát.Giá dầu giảm , các công ty bảo hiểm và ngân hàng lớn của thế giới đồng loạt phá sản , các công ty đa quốc gia rút vốn , cắt giảm nhân lực v.v… gây ra đà giảm phát lớn chưa từng có trong lịch sử , đẩy hàng triệu người mất việc , các công ty lâm vào cảnh kinh doanh khó khăn , giá cả đắt đỏ ,v.v…Trong tình hình đó Nhà nước Việt Nam đã kịp thời sửa đổi các chính sách tiền tệ và công cụ tài chính hiện hành để phù hợp với cuộc chiến chống khủng hoảng kinh tế thế giới và đà lạm phát trong nước. 2.2 Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam : 2.2.1 Về các công cụ của thị trường : - Trái phiếu kho bạc ( tín phiếu kho bạc ) Được phát hành từng đợt , cách nhau nhiều năm , với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường tại thời điểm phát hành , với thời hạn từ 5-10 năm , nhằm huy động vốn cho các công trình trọng điểm của nhà nước , tuy nhiên cách phát hành còn khép kín khiến cho việc huy động hiệu quả ko được cao. - Kỳ phiếu ngân hàng Được các NHTM hiện nay tập trung phát triển với tầm vóc và quy mô ngày càng lớn , được xem là 1 kênh huy động vốn hiệu quả và nhanh như tiền gửi ngân hàng. - Tiền gửi ngân hàng Là kênh huy động vốn chính của các NHTM hiện nay , với đặc điểm lãi suất thay đổi liên tục , được sự bảo hộ lớn từ NHTW nên tiền gửi ngân hàng được xem là 1 kênh đầu tư an toàn nhưng kém hiệu quả trong thời điểm hiện tại khi tình hình lạm phát vẫn còn có xu hướng quay trở lại. - Cổ phiếu Là 1 kênh đầu tư vốn mới , khi TTCK được thành lập năm 2001 , cổ phiếu được biết đến như là 1 kênh đầu tư vốn của các đại gia lắm tiền nhiều của .Nhưng sau đợt bùng phát TTCK từ năm 2006-2007 , TTCK ngày càng được xem như 1 kênh huy động vốn quan trọng và hiệu quả cho nền kinh tế khi quy mô và số lượng các mã CK được lên sang và số lượng tiền gd ngày 1 lớn hơn.Tuy nhiên , nhận thức được đây là 1 thị trường đẩy rủi ro nên Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách quản lý hiệu quả. - Các công cụ tài chính khác Việt Nam hiện nay ngoài các công cụ tài chính trên thì chưa có nhiều ứng dụng các công cụ tài chính.Tuy nhiên công cụ tài chính phái sinh nổi lên được xem là công cụ có triển vọng nhất trong thời gian sắp tới khi các ưu điểm như phân tán rủi ro , bảo toàn vốn và tạo ra lợi nhuận với 2 loại hợp đồng thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts). 2.2.2 Về cấu trúc của thị trường : - Thị trường nợ Việt Nam, một trong những thị trường mua bán nợ nổi bật nhất châu Á, đang thu hút các quỹ trái phiếu toàn cầu vì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ngày một tăng cũng như mức định giá tín nhiệm ngày một cao hơn. Fortis Investments, thuộc công ty dịch vụ tài chính của Bỉ, đang tích cực gia tăng đầu tư vào trái phiếu Việt Nam đồng. Oppenheim, thuộc ngân hàng tư nhân lớn nhất ở châu Âu cũng có kế hoạch trái phiếu Việt Nam khi quốc gia này bán trái phiếu USD lần thứ hai Giới đầu tư được tăng cường thêm quyết tâm hướng tới thị trường Việt Nam bởi dự báo của chính phủ về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế sáu năm liên tiếp vượt quá 7% cũng như tư cách thành viên của WTO. Việt Nam đang thu hút rất nhiều tiền để kiềm chế ""mức độ quá tải"" trên thị trường trái phiếu và chứng khoán, các nhà phân tích thuộc Credit Suisse nhận xét trong một báo cáo gần đây. Mức chênh lệch lãi suất giữa trái phiếu Việt Nam và Mỹ đã giảm xuống chỉ còn 1,32% so với mức chênh lệch 2,56% khi mà Chính phủ Việt Nam phát hành hồi tháng 10/2005 (mức lãi suất khi đó là 6,875%, đáo hạn 2016). Giới đầu tư đang rất chú tâm vào dự báo lãi suất trong khoản nợ của quốc gia. Trái phiếu USD của Việt Nam đã trở lại mức 9,6% trong năm ngoái, theo số liệu của J.P. Morgan Chase. Lãi suất trái phiếu Việt Nam thời hạn 10 giảm 0,45% xuống còn 8,35% trong năm nay. Chỉ Thái Lan có mức lãi suất giảm lớn hơn trong số 11 thị trường hấp dẫn nhất châu Á. Lãi suất trái phiếu tiền đồng Việt Nam đã khôi phục ở mức 0,25% trong tháng 12, mức tăng hàng tháng lớn nhất trong hơn 11 năm qua. Lãi suất trái phiếu USD của Việt Nam giảm 0,25% tương tự như mức giảm của trái phiếu Indonesia, ít hơn mức 0,87% của trái phiếu Pakistan, và mức 0,91% của trái phiếu Thổ Nhĩ Kỳ. Tỉ lệ lãi suất giảm ít hơn khiến giới đầu tư đánh giá trái phiếu của Việt Nam có ít rủi ro hơn. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Việt Nam đã thông báo đạt thặng dư trong tài khoản vãng lai vào năm 2005 - lần đầu tiên trong vòng bốn năm. Chính phủ Việt Nam tỏ ra khá lạc quan rằng, nước này sẽ đạt tỉ lệ cao hơn khi giao dịch thương mại mở rộng. Tháng 9 vừa qua, Standard & Poor"s đã nâng Việt Nam 1 bậc trên bảng xếp hạng nợ ngoại tệ dài hạn lên BB, 2 bậc dưới mức đầu tư. Tháng 1 năm nay, Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO sau một năm cam kết đầu tư nước ngoài tăng 49% đạt 10,2 tỉ USD và dự trữ tiền tệ tăng tới 11,5 tỉ USD. Chỉ số chứng khoán chuẩn của Việt Nam đã tăng 52% - cao nhất trên thế giới. Trong tháng này, Việt Nam có thể bán khoảng 1 tỉ USD trái phiếu (theo Vietnam Investment Review). Trong năm 2006, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 8,2%, đồng thời giành được nhiều cam kết đầu tư, xây dựng nhà máy sản xuất từ các tập đoàn lớn như Intel - nhà sản xuất chip bán dẫn lớn nhất thế giới và Posco, nhà sản xuất thép Hàn Quốc. Chính phủ Việt Nam dự báo mức tăng trưởng kinh tế trong năm nay sẽ đạt khoảng 8,5% - Thị trường vốn cổ phần Có lịch sử hình thành và phát triển lâu nhất ở Việt Nam , nhưng đến nay , với sự bùng phát mạnh mẽ của TTCK và thị trường tiền tệ cùng các công cụ tài chính của ngân hàng , thị trường vốn cổ phần tuy vẫn phát triển nhưng so với mặt bằng chung thì có phần giảm sút .Nguyên nhân là sự cạnh tranh cùng các yếu tố kinh tế chính trị xã hội .Tuy nhiên thị trường vốn cổ phần vẫn chiếm 1 phần quan trọng trong huy động vốn sản xuất ở Việt Nam hiện nay. - Thị trường cấp 1 ( sơ cấp ) Hay còn gọi là thị trường OTC , đã phát triển mạnh mẽ và bùng nổ trong giai đoạn CK lên ngôi 2006-2007.Tuy nhiên việc tham gia của quá nhiều thế lực và đại gia đã biến thị trường OTC gần như đóng kín với nhà đầu tư phổ thông. Thị trường sơ cấp Việt Nam thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy động vốn cho đầu tư , ngoài ra còn giúp chính phủ huy động vốn cho các công trình trọng điểm bằng việc phát hành trái phiếu. - Thị trường cấp 2 ( thứ cấp ) Đây là thị trường sôi động nhất trong năm 2006-2007 khi CK lên ngôi cùng thị trường OTC.Tuy nhiên , sự tham gia 1 cách thiếu hiểu biết của nhà đầu tư Việt Nam đã gây nên hậu quả là “bong bóng CK” khiến TTCK Việt Nam tụt dốc không phanh trong năm 2008.Ở thị trường này , chủ yếu các giao dịch là giao dịch cổ phiếu , các giấy tờ có giá và 1 phần nhỏ trái phiếu chính phủ.Tuy nhiên hình thức trao tay và tin đồn đã gây nên sự thổi phồng về giá khiến không ít nhà đầu tư hiểu lầm và chịu thiệt.Đây cũng là thị trường được quản lý chặt chẽ nhất của Nhà nước Việt Nam. - Thị trường tiền tệ Mới phát triển không lâu ở Việt Nam , mang yếu tố ngắn hạn ,nhưng đã mang lại 1 số hiệu quả tích cực cùng các ưu điểm và các con số ấn tượng , như dự đoán trước được rằng , đây sẽ là thị trường sôi động nhất sau TTCK.Với sự tham gia tích cực của các NHTM , thị trường tiền tệ sắp tới sẽ đóng vai trò tăng tính lỏng cho các khoản vốn và đưa nó vào lưu thông 1 cách nhanh nhất góp phần thúc đẩy đầu tư và sản xuất. - Thị trường vốn Đây là thị trường thứ 2 , mang yếu tố dài hạn , là cặp song hành với thị trường tiền tệ để góp phần quay vòng vốn và tái đầu tư.Tuy nhiên với yếu tố dài hạn , sự rủi ro của các công cụ tài chính cùng yếu tố khách quan của người Việt Nam khiến thị trường này còn nằm ngoài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22597.doc