Đề tài Giải pháp mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG DÀI HẠN 2

I-/ TÍN DỤNG - CÁC LOẠI HÌNH TÍN DỤNG: 2

1-/ Một số khái niệm cơ bản. 2

2-/ Các loại hình tín dụng: 4

II-/ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN. 7

1-/ Các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn. 7

2-/ Vai trò của vốn tín dụng trung và dài hạn. 9

III-/ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN

CỦA NGÂN HÀNG. 12

1-/ Nhân tố khách quan. 12

2-/ Nhân tố chủ quan. 14

3-/ Nhân tố ngoại lai. 16

IV-/ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG. 18

1-/ Nhóm chỉ tiêu định tính. 18

2-/ Các chỉ tiêu định lượng. 19

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY 24

I-/ GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ NHNN & PTNT HÀ TÂY. 24

II-/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NHNN & PTNT HÀ TÂY. 25

1-/ Huy động vốn. 25

2-/ Cho vay vốn: 27

3-/ Cho vay trung dài hạn. 28

4-/ Một số vấn đề tồn tại. 29

III-/ TRIỂN VỌNG VÀ THÁCH THỨC CỦA NHNN & PTNT HÀ TÂY NHẰM MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN. 31

1-/ Những khó khăn thách thức: 32

2-/ Lợi thế và triển vọng phát triển. 33

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG QUY MÔ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NHNN & PTNT HÀ TÂY 35

I-/ GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHNN & PTNT HÀ TÂY. 35

1-/ Tăng cường liên kết với các ngân hàng thương mại khác. 35

2-/ Tăng cường thu hút tiền gửi trung dài hạn. 36

3-/ Nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ tín dụng. 37

4-/ Cải tiến quy trình cho vay, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. 38

5-/ Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn. 39

II-/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ VĨ MÔ. 41

1-/ Thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 41

2-/ Ngân hàng Nhà nước phát huy vai trò tham mưu cho cấp uỷ chính quyền địa phương và các ngân hàng thương mại trong quá trình xây, thẩm định, lựa chọn dự án đầu tư. 42

3-/ Thực hiện điều chỉnh lãi suất cho vay trung dài hạn. 44

4-/ Quy trách nhiệm trong quan hệ tín dụng. 44

III-/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHNN & PTNT TỈNH HÀ TÂY. 45

KẾT LUẬN 46

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứng các hoạt động tài trợ nhập khẩu của ngân hàng thương mại và nó là nguồn thu chủ yếu của nhiều ngân hàng thương mại hiện nay. Việc thay đổi lãi suất hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các ngân hàng theo chiều hướng thắt chặt hay nới lỏng đều có những ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến hoạt động ngân hàng. Ngược lại, với định hướng đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước, kích cầu trong nền kinh tế, những chính sách mới ra đời có thể đem lại một luồng gió mới cho hoạt động ngân hàng tạo ra nhiều cơ hội mới cho ngân hàng thương mại phát triển, mở rộng đa dạng hoá các loại hình hoạt động. Sẽ không có ngân hàng nếu không có các doanh nghiệp, bởi lẽ doanh nghiệp là bạn hàng lớn nhất, quan trọng nhất đối với ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, các nghiệp đoàn, hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam chưa phát triển xứng đáng với sức mạnh của nó nhưng trong tương lai không xa nó sẽ phát triển và có những ảnh hưởng đáng kể đối với các hoạt động của ngân hàng. Chúng ta thường thấy các doanh nghiệp lớn thường đứng sau là một ngân hàng mạnh nhưng chúng ta lại ít để ý rằng đằng sau mỗi ngân hàng hùng mạnh đều là các tập đoàn lớn chúng có thể sở hữu một phần tài sản của ngân hàng, chúng cũng có khi chỉ đơn thuần là một khách hàng có quan hệ làm ăn truyền thống với ngân hàng. Tuy vậy chính chúng ta là những khách hàng vay và uỷ thác một phần tài sản chính của chúng ta cho ngân hàng quản lý. Sự ra đi của chúng có thể gây ra sự giảm sút to lớn cho doanh số cũng như lợi nhuận của ngân hàng và sự giảm sút uy tín của ngân hàng trên thị trường. Ngày nay không một ngân hàng nào có thể phủ nhận quyền lực to lớn của các tổ chức đánh giá ngân hàng. Do tính khách quan trong những đánh giá của họ nên những thông tin về sự đánh giá của họ được sự thừa nhận rộng rãi và quay trở lại, khiến các ngân hàng phải tìm mọi cách để đảm bảo có được sự đánh giá tốt trong các báo cáo đó. Một sự hạ bậc trong bảng đánh giá chắc chắn sẽ kéo theo sự sụt giảm trong niềm tin của các tổ chức vào ngân hàng đó. Doanh số và lợi nhuận tụt giảm là một hậu quả tất yếu. Sẽ là không đầy đủ nếu chúng ta bỏ qua các ảnh hưởng đối với ngân hàng do chính các ngân hàng thương mại gây ra. Do cùng hoạt động trên một lĩnh vực, những hành vi do họ gây ra đều có ảnh hưởng tương đối trực tiếp tới các ngân hàng. Mức độ cạnh tranh gay gắt trong ngành sẽ đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng được cho mình những chiến lược kinh doanh tốt để có thể phát triển một cách vững chắc trong môi trường kinh doanh mới. IV-/ Chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng. 1-/ Nhóm chỉ tiêu định tính. Cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học, kinh tế từ xưa đến nay với nhiều phương thức khác nhau đã đúc kết xác lập thành một số nguyên tắc tín dụng căn bản, chung nhất. Thứ nhất, vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Mọi khách hàng đến vay vốn tại ngân hàng đều phải trình phương án sản xuất kinh doanh, chứng minh phương án đó là khả thi và có hiệu quả. Phải có chương trình kế hoạch cụ thể tiến hành thực hiện phương án kinh doanh đó. Ngân hàng thẩm định dự án sản xuất kinh doanh theo các nội dung như: cơ sở pháp lý và tính đúng đắn của bộ hồ sơ, khả năng tiêu thụ sản phẩm gồm thị trường tiêu thụ hiện tại, giá cả, khả năng tiêu thụ trong tương lai,... năng lực sản xuất kinh doanh gồm hệ thống máy móc thiết bị, chất lượng sản phẩm,... khả năng cung cấp và tính ổn định của các yếu tố đầu vào, tình hình tài chính của doanh nghiệp, việc đánh giá được thực hiện thông qua một số chỉ tiêu từ đó rút ra kết luận về thực trạng doanh nghiệp. Thứ hai: vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất khi quyết định cho vay ở bất kỳ một ngân hàng nào. Để thu hồi gốc và lãi đúng hạn, ngân hàng phải phân tích, dự đoán những khả năng rủi ro có thể xác định khả năng và ý muốn trả nợ của người vay, trong đó tập trung vào phân tích khả năng hoàn trả. Thứ ba: vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương. Theo quan điểm truyền thống, thế chấp chỉ là một điều kiện cần, nhằm mục đích thiết lập cơ sở pháp lý cho một nguồn thu nợ thứ hai khi ngân hàng thương mại vì một lý do nào đó mất đi nguồn thu nợ thứ nhất. Thế chấp chỉ là một điều kiện răn đe nhiều hơn là một biện pháp đảm bảo cho khoản vay thu hồi trong tương lai. Ba nguyên tắc tín dụng trên đây là hình thành như một quy luật phát triển nội tại của tín dụng, là “điều luật” bất khả xâm phạm, tước bỏ, tách rời trong quan hệ tín dụng. Thực tế cho thấy, một khi cả ba nguyên tắc hoặc một trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ hoặc quá nhấn mạnh đến nguyên tắc này tuỳ tiện với nguyên tắc kia thì sớm muộn đều dẫn đến phá vỡ quan hệ tín dụng. Cho nên khi nói đến chất lượng tín dụng, vai trò “bà đỡ” của tín dụng ngân hàng đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế là nói đến tín dụng theo đúng nghĩa của nó tức là chất lượng bao giờ cũng phải gắn bó chặt chẽ, bắt nguồn từ chất lượng tuân thủ nghiêm ngặt ba nguyên tắc tín dụng trên. Tuy nhiên do tính chất của các chỉ tiêu này là tương đối khó lượng hoá nên việc cho điểm đánh giá hoạt động tín dụng thông qua chỉ tiêu này sẽ có thể dẫn đến sai lầm nếu dựa trên quan điểm có thể là chủ quan của một vài cá nhân. Việc đánh giá có thể không đúng với thực tế khách quan nếu nhìn từ một khía cạnh hay một khoảng thời gian nào đó. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả, chất lượng của hoạt động tín dụng, bên cạnh việc sử dụng chỉ tiêu định tính thì nhất thiết phải sử dụng các chỉ tiêu về mặt định lượng sau đây. 2-/ Các chỉ tiêu định lượng. Các chỉ tiêu định lượng là những chỉ tiêu được lượng hoá, số học hoá để nhằm có cơ sở so sánh đối chiếu để từ đó có thể đưa ra những đánh giá, nhận định chính xác hơn về hoạt động tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng là bao gồm cả hoạt động huy động vốn lẫn hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên trên giác độ xem xét đánh giá hoạt động tín dụng cho vay trung dài hạn thì chỉ cần xem xét một số chỉ tiêu cơ bản sau đây: * Chỉ tiêu phân tích tình hình huy động vốn. Vốn tự có của một ngân hàng thương mại chỉ chiếm từ 5%-10% tổng nguồn vốn hoạt động của nó. Phần vốn đem vào hoạt động kinh doanh chủ yếu là vốn huy động. Vì vậy tình hình vốn huy động như thế nào sẽ phản ánh tiềm lực, năng lực tham gia hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó. Chỉ số 1 : Theo quy định hiện hành của luật ngân hàng tại Việt Nam thì chỉ số này chỉ được phép nhỏ hơn hoặc bằng 20. Phân tích chỉ tiêu này sẽ cho biết khả năng thu hút được bao nhiêu đồng vốn từ một đồng vốn tự có. Nó cũng nói lên sự chấp hành, tuân thủ luật pháp của ngân hàng đó. Như vậy một ngân hàng muốn bành trường quy mô hoạt động, nó phải tìm cách nâng vốn tự có và các quỹ của mình để tăng thu hút, huy động vốn. Tuy nhiên nếu đánh giá một ngân hàng như một thành viên của cả hệ thống ngân hàng thì chỉ tiêu đơn lẻ này không có ý nghĩa. Nó chỉ có ý nghĩa khi đem so sánh với các chỉ tiêu của các ngân hàng khác để có thể thấy được sức mạnh, khả năng can thiệp thị trường và tiềm lực của ngân hàng đó. Trong số nguồn vốn huy động, loại nguồn vốn có vai trò quan trọng nhất đối với cho vay trung dài hạn chính là nguồn vốn trung dài hạn. Chỉ số 2: Chỉ số này nói lên tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn trong toàn bộ số vốn huy động của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng, nó sẽ góp phần quyết định hiệu quả hoạt động tín dụng trung dài hạn. Nếu một ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao, điều này có nghĩa là ngân hàng sẽ có một nguồn đầu vào thấp, tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng, tuy nhiên điều này là ngân hàng tự đặt mình vào tình trạng đầy rủi ro nếu dùng nguồn vốn này để đầu tư cho trung dài hạn. Nguồn vốn trung dài hạn mà một ngân hàng có thể có được gồm tiền gửi thời gian dài, trái phiếu trung dài hạn, nguồn vốn vay dài hạn từ Nhà nước hay các tổ chức quốc tế và có thể có cả một phần ổn định từ các khoản tiền gửi tiết kiệm. Ngân hàng thương mại muốn mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trung dài hạn cần quan tâm đến chỉ tiêu này và tìm cách nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn. * Chỉ tiêu phân tích quy mô và hiệu quả hoạt động cho vay dài hạn. Chỉ tiêu phân tích quy mô: Để đánh giá quy mô của tín dụng trung dài hạn có thể dựa trên chỉ tiêu sau đây: Chỉ số 1: Chỉ tiêu này cho biết quy mô của tín dụng trung dài hạn là lớn hay nhỏ trong mối tương quan với tín dụng ngắn hạn. Nếu số này rất nhỏ so với chỉ số tương ứng của tín dụng thì có nghĩa là ngân hàng đó chỉ tập trung cho vay ngắn hạn mà ít quan tâm đến cho vay trung dài hạn. Điều này sẽ hạn chế khả năng phát triển của ngân hàng trong tương lai về cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Xu hướng hiện nay của các ngân hàng thương mại là nâng dần chỉ số này, mở rộng cho vay trung dài hạn. Tuy nhiên việc nâng dần chỉ số này tới một mục tiêu nhất định nào đó không phải là một mục đích dễ dàng mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như nhu cầu tín dụng, khả năng vốn của ngân hàng, khả năng trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng. Ngoài ra người ta còn có thể đánh giá quy mô tín dụng trung dài hạn trên cơ sở so sánh tổng tài sản của ngân hàng. Chỉ số 2: Chỉ tiêu này cho biết quy mô của loại tài sản sinh lơi cho vay trung dài hạn trong tổng tài sản ngân hàng. Kết cấu tài sản của một ngân hàng thương mại bao gồm: Nhóm 1: Tài sản dự trữ. - Dự trữ sơ cấp. - Dự trữ thứ cấp. Nhóm 2: Tài sản kinh doanh. - Kinh doanh ngắn hạn. - Kinh doanh trung dài hạn. Nhóm 3: Tài sản cố định. Như vậy việc xem xét, đánh giá quy mô tín dụng cho vay trung dài hạn trên cơ sở kết hợp cả hai chỉ tiêu trên là rất cần thiết. Các chỉ tiêu này sẽ không chỉ nói lên mối quan hệ tín dụng trung dài hạn đối với toàn bộ hoạt động của ngân hàng khả năng sinh lời của chúng và khả năng trở thành sức bật cho sự phát triển của ngân hàng. Chỉ tiêu phân tích hiệu quả: Một quy mô tín dụng lớn đồng nghĩa với một thị trường rộng mở, khả năng can thiệp thị trường lớn và một sức mạnh tài chính mạnh mẽ là mong muốn của nhiều ngân hàng. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến việc mở rộng quy mô mà không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả hoạt động tín dụng thì ngân hàng chắc chắn sẽ bước vào bờ vực của sự phá sản. Đây chính là bài học kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sau một thời gian ồ ạt mở rộng quy mô tín dụng cho vay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đều lần lượt rơi vào tình trạng mất vốn, sự quá hạn gia tăng, chất lượng món vay sút kém, hàng loạt các vụ đổ bể lớn xảy ra. Một trong các nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do các ngân hàng đã không quan tâm đến chất lượng và hiệu quả tín dụng. Để đánh giá chất lượng và hiệu quả tín dụng ta có thể xem xét một số chỉ tiêu sau đây. Chỉ số 3: Theo chỉ tiêu khống chế của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn là <=5% tổng dư nợ. Tuy nhiên để đối phó với quy định này, các ngân hàng thương mại luôn tìm cách giảm hoặc hạn chế nợ quá hạn bằng những phương pháp rất nguy hiểm như giả thu giả chi hay cho vay đảo nợ tạo ra một doanh số thu nợ giả tạo để không hoặc có ít nợ quá hạn. Ngân hàng có thể hợp thức hoá toàn bộ chứng từ sổ sách từ khâu thu nợ của khế ước cũ, lập khế ước cho vay lại, lập bảng kê thu chi tiền mặt, vào sổ nhật ký quỹ đầy đủ rất khó phát hiện. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm vì nó lại đẩy ngân hàng lún sâu vào tình trạng rủi ro cao hơn và chất lượng cũng như hiệu quả giảm sút hơn. Như vậy đáng lý ra chỉ tiêu này là một chỉ tiêu quan trọng và có ý nghĩa trong việc phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng thì do những nguyên nhân đã nêu trên mà chỉ tiêu này có thể mất đi ý nghĩa của nó. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng cần phải dựa trên chỉ tiêu này kết hợp với nhiều chỉ tiêu khác. Việc đánh giá hoạt động tín dụng trung dài hạn cũng có thể được áp dụng tương tự bằng cách đánh giá, xem xét nợ quá hạn của tín dụng trung dài hạn so với dư nự của tín dụng trung dài hạn. Một chỉ tiêu nữa không thể không nhắc tới khi đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng trung dài hạn là tốc độ tăng trưởng này cao và đều đặn có nghĩa là hoạt động cho vay năm sau cao hơn năm trước. Còn nếu tốc độ này giảm hoặc có sự biến động bất thường thì hoạt động cho vay đang gặp vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh lại một lần nữa các chỉ tiêu này cần được xem xét trên cơ sở kết hợp với các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu đánh giá thu nhập và khả năng sinh lời. Các doanh nghiệp chỉ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận, ngân hàng thương mại cũng vậy lợi nhuận chủ yếu mà một ngân hàng thương mại có được là từ hoạt động tín dụng. Do vậy các chỉ tiêu về thu nhập và khả năng sinh lời cũng là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng. Các chỉ tiêu đó là: Chỉ số 1: Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chung của cả ngân hàng. Nó cho phép đánh giá mức độ hiệu quả của việc sử dụng tài sản cố định của nhà quản lý ngân hàng. Bằng việc so sánh chỉ số này với chỉ số của các ngân hàng khác, nó cho phép đánh giá, cho điểm, xếp hạng giữa các ngân hàng cùng hệ thống. Mức lợi nhuận thấp có thể do tài sản của ngân hàng chưa được sử dụng hiệu quả nhiều món vay chất lượng thấp, chi phí cao,... Để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng trung dài hạn nói chung thì còn có thể sử dụng chỉ tiêu sau đây. Chỉ số 2: Chỉ số này càng cao có nghĩa là một đồng vốn đầu tư dài hạn đem lại một tỷ lệ cao tiền lãi trước thuế và lãi vay. Trên cơ sở so sánh chỉ số này giữa các ngân hàng với nhau cũng sẽ cho thấy mức độ hiệu quả khác nhau và cho phép đánh giá tương đối chính xác. Ngoài tất cả các chỉ tiêu trên, khi xem xét đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng trung dài hạn còn cần lưu ý thêm một chỉ tiêu khác. Đó là sự đóng góp của tín dụng trung dài hạn trong việc lôi kéo thêm khách hàng, nâng cao trình độ thẩm định của cán bộ tín dụng, thúc đẩy thêm sự ứng dụng công nghệ mới, tăng cường sức cạnh tranh, uy tín và hiệu quả ngân hàng. Nếu như hoạt động tín dụng trung dài hạn ngoài việc đem lại lợi nhuận cho ngân hàng còn làm tốt các đóng góp trên thì chắc chắn hiệu quả hoạt động tín dụng sẽ là toàn diện hơn. Chương II Thực trạng công tác tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà tây I-/ Giới thiệu sơ lược về NHNN & PTNT Hà Tây. NHNN & PTNT tỉnh Hà Tây được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 7/2000 trên cơ sở sát nhập 8 đơn vị thuộc NHNN Hà Sơn Bình và 6 đơn vị thuộc NHNN thành phố Hà Nội. Về mô hình tổ chức toàn tỉnh có 14 chi nhánh NHNN huyện thị, 17 phòng giao dịch và tiết kiệm. Từ một NH bao cấp chuyển hẳn sang thương mại gặp không ít khó khăn. Trong bối cảnh nền kinh tế tiền tệ lạm phát cao, doanh nghiệp Nhà nước, các đơn vị kinh tế tập thể là đối tượng khách hàng chính của NHNN lần lượt bị giải thể và tan rã, phương tiện phục vụ kinh doanh và cơ sở vật chất thiếu và lạc hậu, đội ngũ cán bộ công nhân viên đông, trình độ bất cập. Khi sát nhập tính tổng nguồn vốn huy động của NH là 77,9 tỷ, dư nợ cho vay các thành phần kinh tế là 46,2 tỷ. Trong đó chủ yếu là dư nợ cho vay doanh nghiệp quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm 89%, nợ quá hạn là 7,8 tỷ chiếm 16,8% tổng dư nợ, kết quả tài chính lỗ 5,2 tỷ. Có thể nói lúc đó NHNN & PTNT Hà Tây đứng trên bờ vực thẳm. Trước thực trạng đó, trong những năm qua NHNN & PTNT Hà Tây đã kiên trì và quyết tâm đi theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, UBND tỉnh, HĐND tỉnh và NH cấp trên, sự ủng hộ giúp đỡ của các ngành, các cấp với sự nỗ lực cố gắng từ tập thể lãnh đạo đến CNV toàn chi nhánh đã từng bước khắc phục khó khăn. Phát triển kinh doanh đa năng, đổi mới công cụ điều hành, sắp xếp lại mô hình tổ chức, tinh giản bộ máy quản lý thực hiện phương châm “đi vay để cho vay”. Tổ chức khoán tài chính đến nhóm và người lao động, lấy hiệu quả kinh tế và mục tiêu sinh lời làm thước đo trong kinh doanh. Trong những năm qua kết quả kinh doanh của NHNN & PTNT Hà Tây đã có những bước chuyển biến và đi lên rõ rệt. NH đặt ra định hướng đối với hoạt động tín dụng NH mình như sau: - Mở rộng cho vay đối với các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó đặc biệt chú trọng tới các khách hàng quốc doanh, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước. - Thực hiện đầu tư có trọng điểm, chú ý đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn có nhiều triển vọng phát triển, tăng cường tài trợ, đầu tư cho phát triển nông nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp. - Tăng cường thực hiện nỗ lực nhằm mở rộng quy mô tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn. - Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn để mở rộng tín dụng và là thước đo để đánh giá hoạt động tín dụng. - Củng cố tăng cường uy tín vị thế của ngân hàng trên thị trường nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. II-/ Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNN & PTNT Hà Tây. 1-/ Huy động vốn. Huy động vốn là một bộ phận của hoạt động tín dụng NH. Xét về mặt này NHNN & PTNT Hà Tây đã thực hiện tương đối tốt. Theo báo cáo tổng kết công tác kinh doanh dịch vụ của NH các số liệu cho thấy sự tiến bộ của công tác huy động vốn của NH. Có thể thấy tình hình huy động vốn một số năm gần đây qua bảng số liệu sau đây: Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 SL % SL % SL % I. Tổng nguồn vốn 679,857 100 838,940 100 1283,526 100 - Tổng TCKT-TD 121,473 17,9 110,526 13,2 95,578 7,4 - Tổng tiết kiệm 71,613 10,5 125,662 15 170,016 13,2 - Tổng kỳ phiếu 464,850 68,4 550,057 65,6 652,963 50,9 1 năm 235,876 34,7 261,973 31,2 362,103 28,2 - Tổng kho bạc 16,401 2,4 51,295 6,1 54,526 4,3 - Tiền vay TCTD 5,520 0,8 1,400 0,1 310,433 24,2 Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNN & PTNT Hà Tây thì tiền gửi kỳ phiếu chiếm bộ phận chủ yếu 50,9% ngay trong bản thân cơ cấu tiền gửi kỳ phiếu thì tiền gửi kỳ phiếu có thời hạn 1 năm chiếm tỷ trọng lớn - 18,2 trong tổng nguồn vốn huy động. Nếu làm một phép so sánh đơn giản giữa tiền gửi kỳ phiếu và tiền gửi tiết kiệm thì có thể thấy rõ tiền gửi kỳ phiếu cao gấp 3 lần so với tiền gửi tiết kiệm. Xét về tốc độ tăng trưởng thì tiền gửi kỳ phiếu tăng qua các năm tuy nhiên xét về % tăng trưởng so với tổng nguồn thì nó lại giảm. Tỉnh Hà Tây là một địa bàn rộng, đông dân cư nhưng đây lại không phải là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh lớn không phải là khu thương mại lớn. Các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế. Chính vì vậy việc thanh toán giữa các doanh nghiệp phần lớn thực hiện bằng tiền mặt chứ việc mở tài khoản tại ngân hàng để thanh toán không trở thành nhu cầu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ mở tài khoản khi có nhu cầu xin vay vốn ngân hàng. Chính vì vậy lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng không cao. Lượng tiền gửi tiết kiệm của NHNN Hà Tây tăng qua các năm. Tuy nó chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động nhưng cũng đã thể hiện sự tiến bộ trong công tác huy động vốn nhàn rỗi trong tầng lớp dân cư bằng các chính sách lãi suất hợp lý của ngân hàng và sự tin tưởng của nhân dân về ổn định tỷ giá của đồng Việt Nam. Với một nguồn vốn huy động đưa vào sử dụng có khối lượng lớn NHNN & PTNT Hà Tây được đánh giá là một ngân hàng điển hình về công tác huy động vốn. Điều này có nghĩa là NHNN Hà Tây đang có trong tay một nguồn vốn rất ổn định, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, đa dạng các hình thức hoạt động kinh doanh và rất thuận lợi cho vay trung dài hạn. Nhưng mặt trái ngược của thuận lợi này là: chính vì nguồn vốn chủ yếu là tiền gửi kỳ phiếu và lãi suất của loại tiền gửi này cao hơn rất nhiều so với loại tiền gửi khác. Và như thế nguồn đầu vào của NH là nguồn vốn có chi phí cao, ngân hàng sẽ phải gánh chịu một lượng tiền lãi trả hàng năm rất lớn. Bài toán đặt ra cho cán bộ ngân hàng là: nếu như ngân hàng không sử dụng tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này thì số tiền mà NH đang nắm giữ sẽ không phải là điều kiện phát triển cho NH mà trở thành một gánh nặng cho NH và như thế ngân hàng không những không có lãi mà còn lỗ và gặp rất nhiều khó khăn. Ngược lại lượng vốn dồi dào sẽ giúp cho ngân hàng lôi kéo thêm khách hàng, mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh, mở rộng quy mô và phát triển theo chiều sâu hơn. Tất cả những yếu tố này sẽ dẫn đến một kết quả là lợi nhuận của ngân hàng sẽ gia tăng. Tất cả các lập luộn trên đây là để nhấn mạnh và chỉ rõ ràng tại sao ở NHNN & PTNT Hà Tây việc tìm ra giải pháp và phương pháp thực hiện để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng lại quan trọng như vậy. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung dài hạn là một trong các giải pháp đó. Sau đây chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng của hoạt động cho vay vốn. 2-/ Cho vay vốn: Cho đến nay lợi nhụân mà NHNN & PTNT Hà Tây thu được từ rấtnhiều nghiệp vụ khác nhau,tuy nhiên lợi nhuận chủ yếu mà ngân hàng thu được đó là từ nghiệp vụ cho vay vốn. Vì vậy tại NHNN & PTNT Hà Tây, nói đến công tác sử dụng vốn là nói đến cho vay vốn. Xem xét tình hình cho vay vốn theo thành phần kinh tế của NHNN & PTNT Hà Tây ta thấy như sau: Bảng 2: tình hình cho vay theo thành phần kinh tế ĐV: Tỷ đồng. 1999 2000 2001 D. số % D. số % D. số % I Cho vay 676,545 837 784,5 - Quốc doanh 106,708 15,8 158 19 148,199 19 - Ngoài quốc doanh 569,837 84,2 679 81 636,301 81 II Thu nợ 605,443 785 701,3 - Quốc doanh 103,335 17 132 17 138,55 19,8 - Ngoài quốc doanh 502,108 83 653 83 562,75 80,2 III Dư nợ 674,5 726 810 - Quốc doanh 57,5 8,5 77 10,6 95,5 11,8 - Ngoài quốc doanh 617 91,5 649 89,4 714,5 88,2 Trong ba năm 1999-2000-2001 doanh số cho vay của NHNN & PTNT tăng tuy nhiên chỉ trong hai năm 1999-2000 doanh số cho vay tăng đáng kể 160,455 tỷ đồng nhưng bước sang năm 2001 doanh số cho vay giảm 52,5 tỷ. Song song với tình hình cho vay, tình hình thu nợ cũng tỷ lệ thuận với cho vay. Năm 2000 thu nợ tăng 179,557 tỷ so với năm 1999 nhưng năm 2001 thu nợ giảm so với 2000 là 83,7 tỷ đồng nhưng dư nợ lại tăng qua các năm cụ thể năm 2000 tăng 51,5 tỷ, 2001 tăng 84 tỷ so với năm 2000. Có thể nói đó là một dấu hiệu khả quan trong lĩnh vực kinh doanh của NHNN & PTNT Hà Tây, giúp cho ngân hàng ổn định và phát triển trong những năm tiếp theo. Xem xét riêng cho từng thành phần kinh tế cho thấy thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong doanh số cho vay. Điều này có thể giải thích. Các doanh nghiệp quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tây không phải là những doanh nghiệp lớn, quy mô nhỏ, tuy nhiên doanh số cho vay và thu nợ cũng tăng qua các năm nhưng dư nợ cũng tăng mạnh điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang gặp khó khăn khi nền kinh tế nước ta bước sang nền kinh tế thị trường. Hơn thế nữa đây là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mục đích chủ yếu là đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp. Đối tượng cho vay chủ yếu của NHNN & PTNT Hà Tây chủ yếu là kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ sản xuất, phát triển nông nghiệp, các ngành nghề truyền thống. Nói tóm lại đối tượng chính của NHNN & PTNT ny là lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ trọng của ngành nông nghiệp chiếm 83,6% tổng cho vay của ngân hàng. Các ngành khác như công nghiệp, xây dựng, dịch vụ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Với mục đích chủ yếu phục vụ nông nghiệp NHNN & PTNT Hà Tây đã đầu tư chăn nuôi gia cầm, chương trình ứng dụng công nghệ mới, tập trung đổi mới thiết bị công nghệ, phương tiện vận tải, nguyên liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp,... góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế chung của tỉnh tăng trưởng. Nhìn chung tình hình tăng trưởng của hai thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh đều khả quan điều đó chứng tỏ NHNN & PTNT Hà Tây đã góp phần tạo nên sự hài hoà cân bằng giữa hai thành phần kinh tế này, thúc đẩy phát triển quy mô của kinh tế quốc doanh đồng thời với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh với quy mô nhỏ bé hơn. 3-/ Cho vay trung dài hạn. Bảng 3: Cho vay vốn theo thời hạn ĐV: Tỷ đồng. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 D. số % D. số % D. số % I Cho vay 676,545 837 784,5 - Ngắn hạn 504,822 74,6 490,006 58,5 526,112 67 - Trung dài hạn 171,723 25,4 346,994 41,5 258,388 33 II Thu nợ 605,443 785 701,3 - Ngắn hạn 492,278 81,3 513,526 65,4 500,245 71,3 - Trung dài hạn 113,165 18,7 271,474 34,6 201,055 28,7 III Dư nợ 674,5 726 810 - Ngắn hạn 429,5 63,7 376 51,8 409,5 50,5 - Trung dài hạn 245 36,3 350 48,2 400,5 49,5 Nhìn vào tốc độ tăng trưởng qua các năm thì NHNN & PTNT Hà Tây đã có cố gắng rất nhiều trong việc nâng cao mở rộng quy mô cho vay vốn tín dụng trung dài hạn. Tốc độ tăng mà ngân hàng đạt được về cho vay là 102% so với năm 1999, trong năm 2001 tốc độ này có giảm nhưng cũng chiếm tỷ trọng lớn 33% tổng số cho vay. Trong năm 2001, NHNN & PTNT Hà Tây đã thực hiện cho vay trung dài hạn để đổi mới công nghệ thiết bị máy móc, phương tiện vận tải nguyên liệu phục vụ sản xuất, đáng chú ý trong năm đã đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất xi măng Sài Sơn đặt công suất 6 vạn tấn/năm và đầu tư cho dự án công ty cơ khí thực phẩm Phú Xuyên với số vốn ở giai đoạn đầu là 8 tỷ đồng, tạo ra sản phẩm mới cho xã hội, khép kín đầu tư sản xuất, chế biến và tiêu thụ s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0241.doc