Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định và pháp triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU . 1

Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦACHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐẾN

NỀN KINH TẾ . 5

1. Cơ sở lý luận về chính sách lãi suất . 5

1.1. Lãi suất . 5

1.1.1. Định nghĩa và phân loại lãi suất . 5

1.2. Chính sách lãi suất của NHTW . 10

1.2.1. Khái niệm chính sách lãi suất . 10

1.2.2. Mục tiêu của chính sách lãi suất . 10

1.2.3. Công cụ và cơ chế truyền dẫn . 12

2. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến ổn định và phát triển kinh tế 14

2.1. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến lạm phát . 14

2.2. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư 15

2.3. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu . 16

2.4. Tác động của lãi suất đến phân bổ nguồn lực . 17

3. Bài học kinh nghiệm: Chính sách lãi suất của Trung Quốc hậu khủng hoảng kinh tế . 18

3.1. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC)18

3.2. Chính sách lãi suất của Trung Quốc hậu khủng hoảng kinh tế . 18

Chương II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐỐI

VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 2002 ĐẾN NAY . 23

1. Vài nét về chính sách lãi suất năm 2000 - 2001 . 23

2. Thực trạng tác động chính sách lãi suất đến ổn định và phát triển kinh tế

Việt Nam từ 06/2002 đến nay . 25

2.1. Chính sách lãi suất giai đoạn 2002 - 06/2007 . 25

2.1.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2002 – 06/2007 . 25

2.1.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 2002-06/2007 . 26

2.1.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 28

2.2. Giai đoạn nửa sau 2007 đến nửa đầu 2008 (07/2007 - 06/2008) . 31

2.2.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 07/2007 – 06/2008 . 31

2.2.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2007 -06/2008 . 32

2.2.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 33

2.3. Giai đoạn nửa sau 2008 đến nửa đầu 2009 (07/2008 - 06/2009) . 37

2.3.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 07/2008 – 06/2009 . 37

2.3.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2008 – 06/2009 . 38

2.3.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 39

2.4. Giai đoạn cuối 2009 – 6 tháng đầu năm 2010 (07/2009 – 06/2010) . 43

2.4.1. Kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 07/2009 – 06/2010 . 43

2.4.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2009 – 06/2010 . 44

2.4.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế . 46

3. Đánh giá chung về tác động của chính sách lãi suất đến ổn định và phát

triển kinh tế ở Việt Nam từ2002 đến nay . 50

3.1. Những kết quả đạt được . 50

3.2. Những tồn tại và hạn chế . 51

3.3. Nguyên nhân những tồn tại và hạn chế . 53

Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT

NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY . 56

1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam và thế giới 2010 - 2015 . 56

1.1. Dự báo tình hình kinh tế thế giới 2010 - 2015 . 56

1.2. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam 2010 – 2015 . 57

2. Mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam đến năm 2015. 60

3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định

vàphát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay . 61

3.1. Giải pháp trước mắt, điều hành chính sách lãi suất khôi phục kinh

tếthời kỳ hậu khủng hoảng . 61

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất trong dài hạn . 66

3.2.1. Nhóm giải pháp điều hành chính sách lãi suất ổn định và có tính

dài hạn . 66

3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo điều hành chính sách lãi suất linh

hoạt vàkịp thời . 72

3.2.3. Các giải pháp hỗ trợ khác . 81

KẾT LUẬN . 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 85

PHỤ LỤC . 88

pdf96 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3706 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định và pháp triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quý III/2009 nền kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa thật sự chắc chắn và không đồng đều ở các khu vực. Quý I/2010 chứng kiến tốc độ tăng trưởng toàn cầu là 5%29. Tuy nhiên những lo ngại về khủng hoảng tài chính và nợ công ở các nước EU đã gây ra những lo ngại về suy thoái kép ở khu vực này. Thương mại và luồng vốn quốc tế giảm nhưng có xu hướng tăng dần. Cho đến cuối tháng 9 năm 2009, lạm phát trên toàn thế giới vẫn ở mức thấp, một số nước thậm chí còn rơi vào thiểu phát.Sau đó, lạm phát có dấu hiệu tăng dần ở hầu hết các quốc gia, giá cả hàng hóa tăng cùng với đà phục hồi kinh tế. Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu tốt hơn so với nhiều nước khác. GDP tăng 5,32% trong năm 2009 trong đó quý IV đã đạt mức 6,9%19. Đà tăng này được tiếp tục duy trì trong hai quý đầu năm 2010 với dự đoán GDP tăng 6,16% so với cùng kỳ20. Động lực tăng trưởng kinh tế và niềm tin thị trường vẫn được duy trì. Tiêu dùng cuối cùng tăng trưởng khá. Xuất khẩu 2009 giảm, nhưng đến nay tăng trưởng xuất khẩu đã phục hồi, bằng khoảng 30% tốc độ tăng trưởng hàng năm của giai đoạn trước khủng hoảng. Nguồn vốn FDI giảm mạnh so với năm 2008 nhưng đang có xu hướng tăng trở lại. Lạm phát giảm xuống 6,88% năm 200919 và mặc dù có một số dấu hiệu đáng lo ngại về khả năng bùng phát lạm phát cuối năm 2009, đầu năm 2010, nhưng cho tới nay mức tăng CPI vẫn ở mức vừa phải. Gói kích cầu năm 2009 cộng thêm với kế hoạch ngân sách vốn đã phình to, dẫn đến bội chi ngân sách lớn hơn nhiều so với những năm trước, mức thâm hụt chung cho cả năm 2009 là 8,4% GDP20. 4 4 2.4.2. Chính sách lãi suất giai đoạn 07/2009 – 06/2010 Cuối năm 2009, NHNN đã điều hành linh hoạt các công cụ của CSLS, tiếp tục nới lỏng một cách thận trọng nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua suy thoái. Từ tháng 12/2009 cho dến hết quý II/2010, CSLS được điều chỉnh theo hướng thắt chặt nhằm ngăn chặn nguy cơ lạm phát quay trở lại và bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD. Công cụ lãi suất Lãi suất VND diễn biến khá phức tạp và có xu hướng tăng trong nửa cuối của năm 2009. Trong đó lãi suất cơ bản đã được điều chỉnh từ 7%/năm lên 8%/năm (25/11/2009) và tiếp tục duy trì mức lãi suất này đến hết tháng 6/2010. Lãi suất tái chiết khấu được tăng từ 5% lên 6%, lãi suất tái cấp vốn từ 7% lên 8%/năm (25/11/2009). Bên cạnh đó ngày 26/02/2010 NHNN đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn. Cơ chế này cũng áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia đình của khách hàng vay; các hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Biểu đồ 13. Lãi suất của Ngân hàng nhà nước (Nguồn: NHNNVN) Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 4 5 Tiếp nối mục tiêu kích thích nền kinh tế, cuối năm 2009, NHNN tiếp tục duy trì tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VND dưới 12 tháng ở mức 3%, 12-24 là 1%. Đến hết năm 2009, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng được duy trì ở mức 1,2%/năm. Ngoài ra, lãi suất tiền gửi vượt DTBB bằng ngoại tệ đối với các TCTD và của kho bạc nhà nước tại NHNN cũng duy trì ở 0,1% /năm. Ngày 18/1/2010, NHNN đã điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD 23. Theo đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn có kỳ hạn dưới 12 tháng và tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại tệ áp dụng cho các NHTMNN (không bao gồm NHNN&PTNT), NHTMCP, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương ứng từ 7% và 3% xuống còn 4% và 2% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Nghiệp vụ thị trường mở Năm 2009, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt thị trường mở với kỳ hạn, lãi suất hợp lý để kiểm soát chặt chẽ khối lượng vốn khả dụng, tiền cung ứng, ổn định lãi suất và đảm bảo an toàn thanh khoản của các TCTD. Bên cạnh đó NHTW cũng thực hiện hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ VND cho các ngân hàng mở rộng tín dụng, đồng thời ổn định tỷ giá và giảm bớt tình trạng mất cân đối về nguồn, sử dụng nguồn ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng. Số thành viên tham gia NVTTM tiếp tục tăng, tính đến cuối năm 2009 có 61 thành viên và kết thúc quý I/2010 số thành viên tham gia đã lên tới con số 63. Số phiên giao dịch được thực hiện năm 2009 là 329 phiên, trong đó số phiên mua chiếm 80% với 261 phiên. Tổng khối lượng trúng thầu đạt 996.980,5 tỷ đồng, xấp xỉ mức trúng thầu của năm 2008. Tuy nhiên khối lượng mua cao hơn năm 2008 và gấp gần 9 lần khối lượng bán kỳ hạn. Bên cạnh đó, lãi suất NVTTM được điều chỉnh phù hợp với cung cầu vốn và lãi suất cơ bản của NHNN hơn, với mức lãi suất trúng thầu bình quân trong giao dịch mua và bán tương ứng là 7,3%/năm và 7,21%/năm. Bước sang quý I/2010, NHNN vẫn tiếp tục nỗ lực bơm tiền qua kênh thị trường mở, với 100 phiên mua và khối lượng giao dịch đạt 320.573 tỷ đồng. Trong tháng 2/2010, mỗi ngày NHNN hỗ trợ thanh khoảng cho các NHTM từ 12.000 – 15.000 tỷ 4 6 đồng, đồng thời nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường 2 phiên/ngày. Lãi suất hình thành qua những phiên đấu thầu ổn định ở 8%/năm, bằng với lãi suất tái cấp vốn hiện hành, tập trung chủ yếu ở kỳ hạn 14 ngày. Tuy nhiên đến tháng 3, lượng tiền Ngân hàng Nhà nước “bơm” qua thị trường mở liên tục giảm mạnh. Khối lượng đăng ký trong quý I/2010 chỉ chiếm một nửa khối lượng NHNN chào mua. Từ tháng 4/2010 NHNN bắt đầu tăng cường hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại trở lại qua nghiệp vụ thị trường mở với lượng vốn hỗ trợ đang duy trì ở mức cao. Trong tháng 5/2010, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức thành công 3 phiên phát hành trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn từ 3 - 5 năm, huy động được 8.125 tỉ đồng, lãi suất 10,9%/năm trong đó đối tượng mua trái phiếu Chính phủ phần lớn là các TCTD. 2.4.3. Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế Tác động đến lạm phát Tác động của các biện pháp nới lỏng tiền tệ nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế thực hiện từ đầu năm 2009 đã làm tăng khối lượng tiền cung ứng và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. TPTTT theo đó tăng liên tục qua các tháng trong năm. Tính đến ngày 31/12/2009, TPTTT (tính theo M2) ước tăng xấp xỉ 26,0% so với tháng 12/2008. Điều này đã thúc đẩy nhu cầu vay tốn đầu tư và tiêu dùng 6 tháng cuối năm 2009. Cầu tăng thêm cộng với sự phục hồi giá cả quốc tế và sự mất giá của tiền đồng đã gây áp lực lớn làm tăng giá trong nước. CPI cuối năm 2009 tăng mạnh đưa CPI cả năm lên mức 6.88% 14 . CPI quý I/2010 tăng 9,6% đã làm lung lay mục tiêu lạm phát 7% năm 2010 mà Quốc hội đưa ra. Tuy nhiên sang quý II/2010, các chính sách bình ổn giá và thắt chặt tiền tệ đã bắt đầu phát huy tác dụng, các biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát của NHNN đã làm cho tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại, cung tiền giảm dần làm cho CPI bình quân tháng đã sụt giảm từ 1,35% xuống còn 0,21% 14 4 7 Biểu đồ 14. Các cân đối tiền tệ (thay đổi so với cùng kỳ, đv: %) (Nguồn: Báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 10/06/2010, tr19 –WB) Tác động đến đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng Việc duy trì các mức lãi suất ở mức thấp trong một thời gian dài cùng với tác động của chính sách kích cầu năm 2009 đã khiến cho dư nợ tín dụng tăng trưởng, làm cho nhu cầu đầu tư và sản xuất tăng mạnh. Giá các mặt hàng nguyên liệu, máy móc thiết bị trên thế giới giảm càng khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đẩy mạnh sản xuất. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 đã tăng 15,3% so với năm 2008, và bằng 42,8% GDP. Trong đó khu vực FDI chiếm 25,7%, chỉ giảm 5,8% so với cùng kỳ. Cuối năm 2009, sang đầu năm 2010, mặc dù NHNN đã có những biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động tín dụng để hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nóng, khiến cho dư nợ tín dụng giai đoạn này giảm, nhưng đầu tư trong nước vẫn không hề giảm, ngược lại còn tăng 13,4% so với cùng kỳ. Đặc biệt khu vực FDI đã tăng 11,8%, chiếm 26,5% tổng đầu tư toàn xã hội. Chính sách kích cầu kết hợp với xu hướng giảm mạnh của giá cả hàng hóa quốc tế cũng giúp đẩy mạnh nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhập siêu tăng mạnh trong cả bốn quý vừa qua. Ngược lại, tiết kiệm giai đoạn này lại có xu hướng giảm.Các NHTM gặp rất nhiều khó khăn trong huy động vốn. Mặc dù lãi suất huy động thực tế đã lên tới 12 – 13% (kể cả chi phí khuyến mại…) nhưng trong ba tháng đầu năm 2010, vốn huy động 4 8 của các NHTM và TCTD chỉ tăng 1,45% so với cuối năm trước, và bằng ½ mức tăng dư nợ cho vay, càng tạo áp lực huy động vốn. Việc sử dụng linh hoạt công cụ nghiệp vụ thị trường mở cuối năm 2009, đầu năm 2010 của NHNN đã giúp khắc phục khó khăn thanh khoản cho các NHTM, từng bước điều chỉnh giảm dần mặt bằng lãi suất cho phù hợp với diễn biến kinh tế và quy luật thị trường, đưa mức tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm về mức ổn định hợp lý, ước tính khoảng 10,52%. Điều này cũng xóa đi những lo ngại về lãi suất cho vay vốn quá cao (phổ biến từ 16 – 18% trong quý I/22010) và lượng vốn tín dụng đưa ra thấp (chỉ tăng tăng 2,95% so với cuối 2009) sẽ làm ảnh hưởng xấu, làm hạn chế sự phát triển sản xuất, và làm giảm đầu tư. Việc tổ chức thành công 3 phiên phát hành trái phiếu Chính phủ trong tháng 5/2010 là những tín hiệu tích cực chuẩn bị cho việc hạ dần lãi suất huy động, đồng thời kéo lãi suất cho vay đi xuống. Tác động đến phân bổ nguồn lực Việc tiếp tục duy trì trần lãi suất của NHNN trong một thời gian dài (đến hết ba tháng đầu năm 2010) đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động tín dụng trong nước. Lãi suất không phản ánh được quan hệ cung – cầu trên thị trường, các TCTD tìm cách lách “trần cho vay” bằng các khoản phí và yêu cầu phiền hà đối với khách hàng khiến việc tiếp cận nguồn vốn đối với các doanh nghiệp là rất khó khăn. Bên cạnh đó những bất cập trong cơ chế “lãi suất trần” đã làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động của các TCTD. Nguồn vốn huy động ngắn hạn tăng lên, trong khi nhu cầu vốn vay trung – dài hạn là rất lớn, điều này có thể làm rủi ro mất cân đối kỳ hạn vốn tăng. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng tín dụng nóng cuối năm 2009 có thể tạo ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng tài sản và tỷ lệ nợ xấu (tỷ lệ nợ xấu trung bình là 1,9% cuối năm 2009; của NHTMNN là 2,08%; NHCP là 1,77% 20 ). Sau khi thông tư số 07/2010/TT-NHNN được áp dụng, lãi suất đã dần được trả về cho thị trường, qua đó khơi thông được nguồn vốn tín dụng trung – dài hạn và mang lại lợi ích cho các TCTD (đem lại doanh thu, cơ hội kinh doanh...), và cho các doanh 4 9 nghiệp (tiếp cận vốn dễ dàng, sử dụng vốn một cách hợp lý, hiệu quả hơn…) và tăng cường hiệu quả phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế. Tác động đến tỷ giá và ngoại thương Với chính sách hỗ tợ lãi suất và kích cầu sản xuất, nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh trong năm 6 tháng cuối năm 2009. Nhập siêu tăng nhưng không được bù đắp bằng các nguồn thu ngoại tệ khác đã kéo theo cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, việc duy trì mức lãi suất thấp trong thời gian dài gây ra những kỳ vọng của thị trường là tiền đồng có thể bị phá giá đã dẫn đến tình trạng thiếu ngoại tệ đặc biệt trầm trọng từ tháng 5 đến tháng 7, và một lần nữa vào tháng 11/2009. Những động thái trên đã gây nên áp lực đáng kể đối với tỉ giá. Tiền đồng luôn được giao dịch ở tỉ giá sàn của biên độ giao dịch trong một thời gian dài và chênh lệch giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỉ giá thị trường tự do tăng từ 3 – 6% tùy từng thời kỳ. Biểu đồ 15. Sự yếu đi của tiền đồng giai đoạn cuối 2009 – đầu 2010 (Nguồn: Báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 12/2009, tr16 – WB) Từ tháng 3/2010 trở lại đây, những dấu hiệu khả quan cho thấy nguồn thu ngoại tệ (từ kiều hối, FDI, FPI, du lịch…) đều tăng, cùng với các biện phát tăng cường xuất 5 0 khẩu và thắt chặt tiền tệ của NHNN áp lực tỷ giá đã giảm xuống, thị trường ngoại hối trở lại tương đối ổn định. 3. Đánh giá chung về tác động của chính sách lãi suất đến ổn định và phát triển kinh tế ở Việt Nam từ2002 đến nay 3.1. Những kết quả đạt được Thứ nhất, chính sách điều hành lãi suất của NHNN trong thời kỳ nghiên cứu đã ngày càng phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế vĩ mô từng giai đoạn cụ thể của nền kinh tế. Trong thời gian vừa qua, bám sát theo diễn biến và mục tiêu kinh tế vĩ mô - tiền tệ, NHNN đã từng bước chuyển đổi cơ chế lãi suất thỏa thuận sang cơ chế trần lãi suất và áp dụng lãi suất thỏa thuận cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp nhằm thực hiện lộ trình tự do hóa lãi suất. Trong đó, cơ chế trần lãi suất 150% lãi suất cơ bản thực sự đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc bình ổn lãi suất trong điều kiện lãi suất biến động bất lợi, đặc biệt ở thời điểm (tháng 6/2008) khi mà nhu cầu vốn tín dụng tăng nhanh, áp lực tăng lãi suất lớn, trong khi đó lại phải đảm bảo duy trì lãi suất thấp hợp lý để ổn định vĩ mô và kích thích kinh tế. Việc hoạch định và điều chỉnh chính sách lãi suất dần phù hợp với nguyên tắc thị trường. Trong quá trình thực thi chính sách điều hành lãi suất, NHNN đã chú trọng tới các yếu tố khác ngoài lãi suất thị trường như lạm phát, tỷ giá hối đoái, thanh khoản, rủi ro, kỳ hạn và quan hệ cung – cầu vốn thị trường. Thứ hai,các công cụ thực thi chính sách lãi suất gián tiếp bao gồm nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu bước đầu đã được sử dụng tương đối hiệu quả.Kẻ từ tháng 5/2008 đến nay (sau khi NHNN áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản), có thể thấy nghiệp vụ thị trường mở là công cụ được sử dụng hiệu quả nhất, đóng vai trò như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của NHNN. Việc điều hành công cụ thị trường mở đã được thực hiện một cách thận trọng, linh hoạt trên cơ sở theo dõi sát diễn biến vốn khả dụng, diễn biến kinh tế- tiền tệ, bám sát mục tiêu điều hành CSTT, góp phần đáng kể vào kết quả thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, NHNNcũng đã tích cực sử dụng 5 1 công cụ lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đóng vai trò làm lãi suất trần - sàn trên thị trường liên ngân hàng.Khung lãi suất trên cùng với lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được NHNN sử dụng để định hướng lãi suất thị trường vận động phù hợp với mục tiêu của chính sách lãi suất. Thứ ba, mục tiêu giữ ổn định lãi suất nhằm góp phần thực hiện chủ trương chống suy giảm kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô về cơ bản đã thành công nhờ chính sách điều hành lãi suất thận trọng. Thông qua cơ chế dẫn truyền, các cân đối vĩ mô quan trọng của nền kinh tế đặc biệt là tăng trưởng và lạm phát đã diễn biến theo chiều hướng tích cực mặc dù phải sau một thời gian triển khai thực hiện, chính sách lãi suất mới phát huy tác dụng. Cho đến nay, tình hình kinh tế đã có dấu hiệu khả quan hơn.Kinh tế trong nước tăng trưởng tuy không cao nhưng cũng nằm ở mức độ tương đối khi mà các nền kinh tế trên thế giới thậm chí có nhiều quốc gia còn đang tăng trưởng âm hoặc rất thấp.Trong điều kiện bối cảnh kinh tế nhiều biến động khó lường và phức tạp do chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu thì việc sử dụng các công cụ chính sách lãi suất khi thì thắt chặt khi thì nới lỏng cho ta thấy sự can thiệp quyết liệt của NHNN cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát ở một con số. Ngoài ra, thị trường tài chính tuy chưa thực sự ổn định nhưng đã khởi sắc và hoạt động của các ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục. 3.2. Những tồn tại và hạn chế Nhìn chung, các chính sách điều hành lãi suất NHNN đưa ra đã đạt được những thành công nhất định trong kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tài chính và góp phần tăng trưởng suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, những tác động trái chiều của chính sách này cũng còn ảnh hưởng không nhỏ tới các chủ thể tham gia thị trường, thông qua đó tác động tới nền kinh tế. Những tồn tại hạn chế trong điều hành chính sách lãi suất hiện nay như sau: Thứ nhất, việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN còn mang nặng tính hành chính.Trong thời gian vừa qua, mặc dù đóng vai trò là một trong những công cụ 5 2 quan trọng trong việc bình ổn và định hướng thị trường trong điều kiện kinh tế bất ổn nhưng công cụ lãi suất cơ bản đi đôi với cơ chế trần lãi suất vẫn là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của NHTM. Chính vì vậy mà nó không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Lãi suất không còn phản ánh đúng cung – cầu thị trường khi mà các NHTM tìm cách lách luật để tăng lãi suất cho vay vào thời điểm cuối năm 2009, đầu năm 2010 là một minh chứng cho thấy lãi suất cơ bản đã mất dần tác dụng vốn có của nó là hướng dẫn lãi suất thị trường. Việc điều hành chính sách lãi suất còn thể hiện tính hành chính ở chỗ quyết định của NHNN về việc tăng tính thanh khoản cho các NHTM và việc kêu gọi tinh thần trách nhiệm của các ngân hàng (đặc biệt là NHTMQD) thường đóng vai trò rất quan trọng. Vì thế, mặc dù trong quý I/2010, là quý mà các phương tiện thanh toán thường phải cung ứng rất mạnh để đáp ứng nhu cầu chi tiêu bằng tiền cao trong dịp Tết nguyên đán và lãi suất cơ bản chỉ được điều chỉnh tăng nhẹ (từ 7% - 8%), nhưng tình trạng mở rộng tín dụng của các ngân hàng đã được kiềm chế rất mạnh, do các NHTM lo ngại không đạt được chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 25% mà NHNN đề ra. Thứ hai, việc sử dụng các công cụ trong điều hành chính sách lãi suất vẫn còn nhiều hạn chế, chưa chủ động và kém linh hoạt. Trong suốt một thời gian dài kể từ khi được áp dụng lần đầu tiên (năm 2000) đến trước khi khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra, lãi suất cơ bản gần như không có vai trò gì trong việc đinh hướng lãi suất thị trường. Ngược lại, khi thời kỳ suy thoái đã đi qua, việc duy trì lãi suất cơ bản cùng trần lãi suất trong một thời gian quá dài trong điều kiện thị trường tài chính đang từng bước tự do hoá đã cản trở sự phát triển của các định chế tài chính, đi ngược lại nguyên tắc thị trường. Trong khi đó, việc thiếu nhất quán trong thực hiên CSLS cũng thể hiện ở nhiều mặt. Sau khi đã cởi trói trần lãi suất cho vay cho các NHTM bằng quy định cho vay với lãi suất thỏa thuận các khoản tín dụng trung và dài hạn thì NHNN vẫn giữ nguyên trần lãi suất huy động không được vượt quá 12%. Mức trần này không đủ hấp dẫn người gửi 5 3 tiền, gây khó khăn cho các NHTM trong việc huy động vốn để phục vụ nhu cầu tín dụng. Thứ ba, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa CSLS với chính sách kinh tế vĩ mô khác. CSLS lả một bộ phận nằm trong CSTT và mục tiêu của CSLS nằm trong mục tiêu chung của CSTT của mỗi quốc gia. Tuy nhiên thực trạng CSTT nói chung, CSLS nói riêng trong mói quan hệ với CSTK thời gian qua cho thấy, mặc các chính sách này đã được tận dụng tối đa và phối hợp khá chặt chẽ, nhưng giới hạn chính sách đang cản trở những tác động tích cực và làm nảy sinh nhiều hệ lụy cho thời gian tới. CSTT nói chung linh hoạt hơn so với CSTK, NHNN có thể sử dụng các công cụ của CSTT nhằm điều tiết cung tiền trong ngắn hạn, làm thay đổi lãi suất, từ đó điều chỉnh mức lạm phát, gây tác động lên năng suất lao động và tăng trưởng GDP tiềm năng trong dài hạn. Tuy nhiên, rất khó thay đổi CSTK do Chính phủ lập kế hoạch chi tiêu, thuế và thâm hụt ngân sách, kế hoạch ngân sách hàng năm do Quốc hội thông qua, điều này tạo ra sự lệch pha so với CSTT. Trong chừng mực nào đó, còn thiếu sự phối hợp trong quá trình điều hành hai chính sách này, chưa có sự nhất quán giữa việc xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ với chính sách lãi suất của NHNN. Bên cạnh đó, NHNN cũng không nắm được các khoản thu chi lớn của ngân sách nhà nước, nên bị động trong việc kiểm soát cung tiền trước tác động của các dòng tiền trong khu vực Chính phủ. Từ tháng 6/2007 đến tháng 7/2008, NHNN đã thực hiện CSTT thắt chặt để chống lạm phát, nhưng CSTK vẫn duy trì mức bội chi như thường lệ, nỗ lực chống lạm phát vì thế không đạt được hiệu quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng hoảng bị đẩy lùi. Nói đúng hơn, trong khi CSTT thắt chặt thì CSTK lại nới lỏng, khiến áp lực lạm phát và lãi suất tăng. 3.3. Nguyên nhân những tồn tại và hạn chế Thứ nhất, Năng lực điều hành của NHNN ở tầm vĩ mô chưa thật sự linh hoạt, thích ứng kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế. Việc thu thập, phân tích thông tin ở NHNN còn chậm. Thông tin chưa được công khai, minh bạch ở từng NHTM và ngay 5 4 cả ở NHNN hệ thống chỉ tiêu đánh giá cũng chưa đồng bộ với thông lệ quốc tế. Do đó, NHNN thiếu cơ sở để đưa ra những dự báo và xác định khối tiền cần thiết cho nền kinh tế. Sự phối hợp các công cụ, các giải pháp chưa thật sự mang lại hiệu quả cao. Việc sử dụng các công cụ của CSLS thường là đi sau những diễn biến thực tế, thường dựa vào các dấu hiệu thị trường chứ chưa có những định hướng dài hạn có hiệu quả cũng như các giải pháp mang tính đồng bộ. Thứ hai, Thị trường tiền tệ chưa phát triển và chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường. Thị trường tài chính Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, song mức độ phát triển còn thấp, thị trường còn có sự phân đoạn, vốn luân chuyển chưa thông suốt, giữa các thành viên thị trường thiếu sự gắn kết chặt chẽ, rủi ro đạo đức nhiều... do vậy mà sự phản ứng chính sách còn méo mó, thiếu đồng thuận. Thêm vào đó, năng lực giám sát thị trường tài chính của các cơ quan quản lý còn hạn chế. Do vậy việc điều tiết lãi suất thị trường của NHNN là rất khó khăn. Thứ ba, còn nhiều khó khăn trong kiểm soát cung tiền do áp lực dòng vốn từ bên ngoài chảy vào và những đặc điểm từ bên trong. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thị trường tài chính phát triển ở mức độ thấp, việc kiểm soát lạm phát thường thực hiện thông qua việc kiểm soát cung tiền. Tuy nhiên do nền kinh tế bị đô la hóa cao (trên 30%), ngoài nhân tố MB do NHNN điều tiết tăng lên, nguồn ngoại tệ huy động trong dân tăng hoặc dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều cũng tác động mạnh khiến M2 tăng lên. Do vậy, đối với nền kinh tế đôla hoá NHTƯ kiểm soát M2 sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nhiều so với nước không bị đôla hoá. Thứ tư, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả và đồng bộ giữa Bộ Tài chính và NHNN trong thực thi CSTK và CSLS. Khi lạm phát leo thang, CSLS được điều chỉnh theo hướng thặt chặt thì CSTK lại tiếp tục được nới lỏng, thâm hụt ngân sách tăng chi đầu tư phát triển mở rộng… 5 5 Việc phối hợp thiếu đồng bộ này đã hạn chế rất lớn tác động của chính sách lãi suất, không những không kiềm chế được lạm phát mà còn gây áp lực lớn lên TTTT và gây ra xáo trộn trong thực thi CSTT quốc gia Chi NSNN ngày càng lớn để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao khiến nhu cầu huy động vốn của Chính phủ càng lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của hệ thống NHTM. Ở một số thời điểm nhất định, do nhu cầu huy động vốn cấp thiết, các đợt phát hành trái phiếu chính phủ đã phá vỡ quy luật cung cầu của TTTT, gây sức ép nặng nề trong việc điều hành lãi suất của NHNN. Trước năm 2000, việc lãi suất trái phiếu chính phủ cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng gây ra nhiều khó khăn cho hệ thống NHTM trong việc huy động tiền gửi ngân hàng, gây áp lực buộc hệ thống NHTM phải nâng lãi suất tiền gửi, gây ra xáo trộn trong thực thi CSTT quốc gia. Thứ năm, NHNN có mức độ độc lập thấp. Luật NHNN chưa trao đầy đủ chức năng và thẩm quyền cho NHNN với tư cách là một NHTW. NHNN chủ yếu điều hành khối lượng tiền cung ứng trong phạm vi được Chính phủ cho phép trong năm. Tính cam kết của NHNN đối với các mục tiêu không cao. Hàng năm NHNN đặt ra kiểm soát lạm phát ở mức cụ thể, nhưng trên thực tế thường không đạt được mức lạm phát đó. Nhiều các vấn đề về tổ chức và hoạt động của NHNN được giao cho Chính phủ qui định hoặc viện dẫn tới các qui định khác của pháp luật. Quyền hạn của Thống đốc bị chia sẻ và thể hiện khá mờ nhạt. Khả năng điều tiết thị trường tiền tệ còn hạn chế do NHNN chưa kiểm soát được các luồng tiền tệ trong nền kinh tế như luồng ngoại tệ, các khoản thu chi ngân sách nhà nước, hoạt động ngân hàng của các quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác. 5 6 Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam và thế giới 2010 - 2015 1.1. Dự báo tình hình kinh tế thế giới 2010 - 2015 Theo WB, GDP của các nước đang phát triển được kỳ vọng tăng trưởng gấp 2 lần các nước có thu nhập cao mỗi năm từ năm 2010 – 201530. Tuy nhiên, những bất ổn trên thị trường tài chính hiện nay ở các nước châu Âu có thể khiến mức tăng trưởng thậm chí thấp hơn mong đợi. Một kịch bản khác nữa được WB đưa ra là Chính phủ các nước có thu nhập cao, đặc b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfGiải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định và pháp triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan