DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ .1
1.1. Các khái niệm .1
1.1.1. Thương mại điện tử (E-commerce) .1
1.1.2. Dịch vụ ngân hàng điện tử (electronic banking hay E-banking).1
1.2. Các hình thái phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử .2
1.2.1. Website quảng cáo (Brochure-ware).2
1.2.2. Thương mại điện tử (E-commerce) .2
1.2.3. Kinh doanh điện tử (E-business) .2
1.2.4. Ngân hàng điện tử (E-banking) .2
1.3. Các dịch vụ và sản phẩm của ngân hàng điện tử .3
1.3.1. Các dịch vụ của ngân hàng điện tử: .3
67 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6137 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại ở tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chi tiết thi hành luật giao dịch
điện tử trong hoạt động tài chính.
- Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 quy định về giao dịch điện tử trong hoạt
động Ngân hàng.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ ban hành và ban hành hệ thống văn bản pháp lý khá đồng bộ liên quan đến công tác bảo mật thông tin trong hoạt động ngân hàng:
- Thông tư số 09/2003/TT-NHNN ngày 5/8/2003 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện một số quy định tại Nghị định 55/2003/NĐ-CP ngày 23/8/2003 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng internet.
- Quyết định số 04/2006/QĐ-NHNN ngày 18/1/2006 của Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế an toàn, bảo mật hệ thống CNTT trong ngành Ngân hàng.
- Quyết định số 35/2006/QĐ-NHNN ngày 31/7/2006 của Ngân hàng Nhà nước quy định về
các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động NHĐT.
- Quyết định 39/2006/QĐ-NHNN hành 28/8/2006 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về
ban hành Quy chế quản lý và sử dụng mạng nội bộ NHNN.
Sáng 17-9- 2009, tại trường Chính trị tỉnh, Sở Tư pháp phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bình Dương đã tổ chức Hội nghị triển khai Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành cho lãnh đạo các Sở, Ủy ban, ban, ngành, các trường đại học, cao đẳng, doanh nghiệp, cán bộ tư pháp các huyện thị, xã phường trên địa bàn tỉnh. Qua đó thấy được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo trong việc nâng cao sự hiểu biết của mọi người đối với các giao dịch điện tử cũng như đưa các văn bản pháp luật phổ biến đến mọi người hơn.
2.1.2. Điều kiện công nghệ kỹ thuật:
Với tính chất đặc thù, hoạt động ngân hàng gắn bó chặt chẽ với CNTT; CNTT là nền tảng kỹ thuật quan trọng để thực hiện các mặt hoạt động nghiệp vụ ngân hàng. Thực tế cho thấy, ứng dụng nhanh công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng được xem là chìa khóa để các ngân hàng phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Trong tiến trình ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực, cũng như quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt, có thể nói ngân hàng
nào nhanh chóng nắm bắt, chiếm lĩnh và làm chủ CNTT, ngân hàng đó sẽ chiếm lĩnh thị trường,
tử.
- Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 hướng dẫn thi hành Luật giao dịch điện
18
đứng vững trong cạnh tranh. Với phương châm từng bước ứng dụng và đổi mới công nghệ theo
hướng hiện đại, tự động hóa phục vụ sự nghiệp đổi mới hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã cung cấp được những sản phẩm, dịch vụ vừa đa dạng vừa đáp ứng sự nhanh chóng, tiện lợi cho khách hàng. Đến nay, hơn 80% nghiệp vụ ngân hàng được xử lý trên máy tính ở các mức độ khác nhau. Hầu hết các nghệp vụ đã được chuyển từ xử lý trên máy tính đơn lẻ sang phương thức xử lý trên mạng. Nhiều giao dịch ngân hàng (chuyển tiền điện tử, thẻ thanh toán và rút tiền tự động ATM, Mobile banking, Home banking, Internet banking…) được xử lý trực tuyến trên môi trường máy tính và mạng internet, và đang từng bước được triển khai trên diện rộng.
Được như trên chính là nhờ sự phát triển nhanh chóng cùng chất lượng ngày càng nâng cao của hệ thống CNTT và truyền thông ở nước ta. Theo ông Houlin Zhao, Phó Tổng thư ký Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) tại Diễn đàn CNTT Thế giới 2009 (WITFOR 2009) diễn ra vào ngày 26 - 28/8/2009 tại Hà Nội thì 5 năm trước đây, Việt Nam thua xa các nước trong khu vực về phát triển CNTT nhưng nay Việt Nam đã thu hẹp khoảng cách và trong một số lĩnh vực như truy cập Internet và sử dụng CNTT, Việt Nam thậm chí còn vượt cả Phillippines, “Sự phát triển CNTT-TT (gồm điện thoại di động, cố định và Internet, băng rộng) ở Việt Nam đã vượt qua nhiều nước châu Á khác”.
Theo số liệu chính thức cung cấp tại Diễn đàn WITFOR 2009, năm 2008, doanh thu ngành CNTT-TT Việt Nam đạt trên 10 tỷ USD, tỷ lệ sử dụng Internet đạt khoảng 25% và phổ cập điện thoại ở mức độ cao. Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có những động thái khuyến khích cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông – yếu tố quyết định giúp giảm giá cả dịch vụ. Thực tế, xu hướng giá viễn thông, Internet tại Việt Nam liên tục giảm, ngày càng tạo điều kiện truy cập cho mọi người dân. Người dân ở các vùng nông thôn có thể dễ dàng truy cập Internet và các dịch vụ viễn thông khác với giá cả phải chăng.
2.1.3. Điều kiện con người:
2.1.3.1. Trình độ và mức sống của người dân:
Mức sống của người dân là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xem xét và phát triển dịch NHĐT. Nếu người dân có mức thu nhập thấp hay nói cách khác là có ít tiền thì họ sẽ không quan tâm đến các dịch vụ ngân hàng, họ sẽ dùng tiền mặt để thanh toán thay vì dùng các phương thức giao dịch tự động. Do vậy, phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của ngừời dân luôn là yếu tố tiên quyết cho sự phát triển NHĐT.
Hiện nay, mức sống của người dân trên địa bàn tỉnh Bình Dương cũng đã được nâng lên
khá nhiều, kinh tế phát triển với sự xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp, các siêu thị, các
19
cá nhân có nhu cầu về giao dịch, thanh tóan ngày càng tăng, điều này đòi hỏi các ngân hàng phải
hoàn thiện hệ thống của mình, trong đó NHĐT là một mảng rất quan trọng và mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, mức độ nhu cầu về dịch vụ NHĐT còn phụ thuộc vào số lượng người sử dụng thường xuyên và thành thạo internet, chi phí và tốc độ truy cập internet cũng như các mạng di động, sự hiểu biết và tin tưởng của người tiêu dùng về chất lượng dịch vụ ngân hàng… “Với 86 triệu dân trong đó giới trẻ có độ tuổi dưới 35 chiếm trên 65% dân số và số người sử dụng internet hiện đã vượt 20 triệu người, số thuê bao di động đạt gần 60 triệu, Việt Nam luôn được đánh giá là thị trường mới nổi giàu tiềm năng cho các dịch vụ trực tuyến và di động. Số chủ thẻ và chủ tài khoản tiền gửi thanh toán ở Việt Nam đạt trên 15 triệu và có tốc độ tăng trưởng lên đến 200% hàng năm trong 3 năm (2006, 2007, 2008). Tuy nhiên, việc thanh toán trong lĩnh vực bán lẻ và TMĐT của người dân vẫn chủ yếu bằng tiền mặt”. (Nguyễn Chiến Thắng, 2009)
2.1.3.2. Sự hiểu biết và chấp nhận dịch vụ NHĐT:
Hiện nay, thói quen sử dụng tiền mặt và tính “ì” của khách hàng trong việc sử dụng các dịch vụ mới chính là một trở ngại lớn trong sự phát triển của dịch vụ NHĐT. Sự phổ biến của các dịch vụ NHĐT liên quan chặt chẽ tới sự chấp nhận của khách hàng hơn là những gì mà phía mời chào cung ứng dịch vụ đưa ra. Vì thế, sự hiểu biết của đông đảo khách hàng về các dịch vụ NHĐT và ích lợi của các dịch vụ này là hết sức cần thiết. Rõ ràng, các dịch vụ NHĐT là các dịch vụ hiện đại và tốt. Tuy vậy, chúng ta không thể cho rằng có các dịch vụ tốt là đủ. Để xúc tiến các dịch vụ NHĐT các Ngân hàng cung cấp các dịch vụ này cần phải làm cho khách hàng biết rằng có những dịch vụ như vậy và hướng dẫn họ sử dụng các dịch vụ đó.
2.1.3.3. Nguồn nhân lực của ngân hàng:
Các hệ thống thanh toán điện tử đòi hỏi một lượng lớn lao động được đào tạo tốt về CNTT- TT để cung cấp các ứng dụng cần thiết, đáp ứng yêu cầu hỗ trợ và chuyển giao các tri thức kỹ thuật thích hợp. Thiếu các kỹ năng để làm việc trên Internet và làm việc với các phương tiện hiện đại khác, hạn chế về khả năng sử dụng tiếng Anh - ngôn ngữ căn bản của Internet cũng là những trở ngại cho việc phát triển các dịch vụ thanh toán điện tử.
Hiện nay, đáp ứng nhu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực về TMĐT, nhiều trường cũng đã đưa TMĐT vào giảng dạy. Theo kết quả điều tra “Tình hình đào tạo TMĐT tại các trường đại học và cao đẳng năm 2008” của Cục thương mại điện tử và Công nghệ thông tin cho thấy trong số 108 trường tham gia khảo sát, có 49 trường đã triển khai hoạt động đào tạo TMĐT, gồm 30
trường đại học và 19 trường cao đẳng. Thời gian triển khai đào tạo TMĐT các trường được tính
20
từ mốc năm 2003. Tuy nhiên, số lượng giảng viên giảng dạy vừa thiếu về số lượng vừa chưa đáp
ứng được nhu cầu đào tạo, giảng dạy thiếu sự gắn kết giữa học và hành, có sự khác biệt đáng kể về nội dung và chất lượng của giáo trình giảng dạy giữa các trường… Kết quả của cuộc điều tra trên cũng chỉ ra rằng chỉ có 15% trường đại học và cao đẳng có giảng viên được đào tạo chuyên ngành TMĐT; 45% có giảng viên khác được bồi dưỡng thêm về TMĐT, 50% trường có giảng viên tự nghiên cứu để giảng dạy; Về giáo trình, có 13 trường đại học và cao đẳng có quy định thống nhất, 36 trường do giảng viên tự biên soạn…
Bên cạnh đó, nhân viên của ngân hàng cũng cần được trang bị tốt những kiến thức về nghiệp vụ để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao trong lĩnh vực phát triển nhanh chóng là ngân hàng, tạo sự đa dạng, nhanh chóng, tiện lợi của những sản phẩm, dịch vụ. Đồng thời, sự năng động, thân thiện của nhân viên cũng rất cần thiết để đưa những sản phẩm, dịch vụ mới đến với khách hàng, để những sản phẩm, dịch vụ này ngày càng phổ biến hơn.
2.2. Tình hình phát triển dịch vụ NHĐT trong các NHTM ở Bình Dương hiện nay:
Bình Dương hiện nay đang là một trong những tỉnh thành có tốc độ phát triển cao nhất cả nước, do đó nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng của người dân ở đây cũng ngày càng nhiều hơn. Nắm bắt được điều đó hiện nay các ngân hàng ở Bình Dương cũng đang ra sức thúc đẩy, phát triển các dịch vụ của ngân hàng mình, và dịch vụ NHĐT là một trong những dịch vụ đang được chú ý phát triển đặc biệt trong những năm gần đây:
2.2.1. Dịch vụ Call Centre:
Call Centre là một dịch vụ khá đơn giản, khách hàng khi có những thắc mắc chỉ cần điện thoại đến tổng đài chung của ngân hàng sẽ được giải đáp. Và do sự đơn giản này nên nhiều ngân hàng hiện nay đã phát triển dịch vụ này từ rất sớm và đạt được những thành quả nhất định trong những năm qua:
- Ở ngân hàng Á Châu (ACB), khi khách hàng phát sinh yêu cầu sử dụng một số dịch vụ của Ngân hàng, truy vấn thông tin hoặc yêu cầu giải đáp thắc mắc sẽ thực hiện gọi đến số điện thoại của tổng đài 083.8247247 hoặc 1800.577.775 (miễn phí cuộc gọi) để đặt lệnh thực hiện dịch vụ hoặc yêu cầu được tư vấn, hướng dẫn. Dịch vụ này được ngân hàng ACB phát triển từ năm 2003 và đến nay nó đã trở nên phổ biến đối với người dân, đem lại những lợi ích nhất định cho ngân hàng và khách hàng.
- Với ngân hàng Ngoại thương (VCB), trung tâm dịch vụ khách hàng 24x7 (Vietcombank
Contact Center) tại tổng đài 1900545413 nhấn phím 0 (và 38243524/ 38245716 đối với thuê bao
Viettel, thuê bao quốc tế) được thành lập năm 2008. Ngoài việc quản lý kênh dịch vụ VCB-
21
Phone B@nking, trung tâm còn đảm nhiệm một chức năng rất quan trọng là tư vấn trực tiếp khi
khách hàng gọi tới nhằm giải đáp, ghi nhận những thắc mắc của khách hàng liên quan tới sản phẩm, dịch vụ và chất lượng phục vụ của Vietcombank. Đồng thời, dựa trên ứng dụng công nghệ hiện đại, Trung tâm Dịch vụ khách hàng 24x7 của Vietcombank còn chủ động liên hệ với khách hàng nhằm thông báo tình hình tài chính, ngày đến hạn các khoản tiền hoặc các chương trình khuyến mại, sản phẩm, dịch vụ mới.
- Ngoài 2 ngân hàng lớn kể trên, hiện nay cũng đã có thêm rất nhiều ngân hàng triển khai dịch vụ Call Centre như: ngân hàng An Bình với tổng đài 08.38365.365 hoặc 1900.571.581; ngân hàng Đông Á tổng đài 1900.545464… với những cải tiến quan trọng, đáp ứng nhu cầu phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.
2.2.2. Dịch vụ Phone Banking:
Song song với dịch vụ Call Centre thì dịch vụ Phone Banking cũng đã có những bước phát triển rất tốt trong những năm gần đây khi mà các ngân hàng đã triển khai dịch vụ này từ rất sớm và liên tục có những bước cải tiến.
- Một trong những ngân hàng triển khai dịch vụ Phone Banking khá tốt ở Bình Dương mà ta có thể kể đến đó là VCB với Dịch vụ ngân hàng 24 x7 qua điện thoại VCB–Phone B@nking, chỉ cần gọi điện đến tổng đài 1900545413, khách hàng có thể tra cứu thông tin tài khoản, thực hiện một số giao dịch thẻ, thực hiện một số giao dịch điện tử… Sau nhiều lần nâng cấp, cải tiến và lần gần đây nhất là vào năm 2009, dịch vụ VCB – Phone B@nking đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu và đem lại sự hài lòng cho khách hàng, đưa VCB trở thành một trong những ngân hàng phát triển dịch vụ Phone Banking tốt nhất hiện nay.
- Ngoài ra cũng có thể kể đến một số ngân hàng khác ở Bình Dương đã phát triển dịch vụ
Phone Banking khá tốt như là Ngân hàng Sài Gòn thương tín (SCB) với tổng đài tự động
1900.5555.88, giúp khách hàng có thể truy vấn thông tin tỷ giá vàng, ngoại tệ, lãi suất tiền gửi hiện hành, truy vấn thông tin địa chỉ các điểm đặt máy ATM của SCB, truy vấn thông tin 05 giao dịch sau cùng và số dư trên các tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tài khoản tiền vay mà khách hàng sở hữu…; hay ACB với tổng đài khu vực TP HCM (08) 8.279.999 giúp khách hàng truy cập các thông tin về tỷ giá hối đoái, thông tin về lãi suất các sản phẫm tiền gởi hiện hành, thông tin giá chứng khoán, các thông báo sản phẫm mới nhất của Ngân Hàng, và
các thông tin khác….
22
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
2005 2006 2007 2008 2009 dự kiến 2010
(nguồn: ngân hàng Ngoại thương Bình Dương)
- Bên cạnh VCB, vào tháng 6/2009 HD Bank triển khai gói dịch vụ SMS Banking cho phép khách hàng tra cứu, nhận thông tin tài khoản ngân hàng qua điện thoại di động, bằng cách dùng điện thoại di động nhắn tin theo cú pháp quy định của HD Bank, gửi tới số 8049. Với dịch vụ này, ngân hàng sẽ thông báo khi có biến động số dư tài khoản hoặc người sử dụng có thể tra cứu
2.2.3. Dịch vụ Mobie Banking – SMS Banking:
Trong các dịch vụ của NHĐT thì dịch vụ Mobie Banking – SMS Banking được nhiều người tiêu dùng biết đến và sử dụng nhiều nhất do những tính năng tiện ích của nó, bạn chỉ cần 1 chiếc điện thoại di động và có thể giao dịch với ngân hàng qua chiếc điện thoại đó. Dịch vụ này hiện nay đang được các ngân hàng ở Bình Dương ra sức phát triển và đã đạt được những bước tiến đáng kể trong những năm vừa qua.
- Vào năm 2005, VCB đã cho ra đời gói dịch vụ ngân hàng qua tin nhắn VCB-SMS B@nking: đáp ứng nhu cầu 24x7 của khách hàng đối với các giao dịch truy vấn số dư tài khoản, xem chi tiết các giao dịch gần nhất, nhận trợ giúp từ ngân hàng đối với các thông tin về tỉ giá, lãi suất, điểm giao dịch của VCB, nạp tiền điện thoại di động từ tài khoản tại ngân hàng,…
Từ khi ra đời đến nay tốc độ phát triển của dịch vụ này đã tăng trung bình trên 50%/năm, cụ thể vào năm 2009 đã tăng thêm 6706 khách hàng sử dụng dịch vụ (tương đương 75,05%) đạt
15641 khách hàng, và dự kiến vào năm 2010 sẽ tăng thêm 9385 khách hàng sử dụng tương ứng với tốc độ tăng trưởng 60% (nguồn: kế hoạch dịch vụ bán lẻ năm 2010 ngân hàng Ngoại thương Bình Dương)
Biểu đồ: Số khách hàng sử dụng SMS Banking ở VCB Bình Dương
23
https://homebanking.acb.com.vn, khách hàng có thể thực hiện chuyển khoản, chuyển tiền, thanh
toán hóa đơn điện, nước, điện thoại, chuyển đổi ngoại tệ… một cách dễ dàng. Bằng việc áp dụng công nghệ bảo mật tương đối cao và an toàn, dịch vụ này hiện nay đang được rất nhiều các doanh nghiệp tin tưởng và ưa chuộng sử dụng, điều này đã góp phần nâng cao uy tín và doanh thu cho ngân hàng ACB. Và việc đầu tư phát triển tốt dịch vụ này là một trong những nguyên nhân giúp ACB là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam được nhận 6 giải thưởng ngân hàng tốt nhất ở Việt Nam năm 2009.
- Bên cạnh ACB thì Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) cũng đã phát triển dịch vụ Home Banking khá tốt, với Techcombank HomeBanking, giờ đây khách hàng không phải trực tiếp đến Ngân hàng mà vẫn quản lý được giao dịch của mình mọi lúc, mọi nơi thông qua nhiều phương tiện. Tuy không có nhiều tiện ích bằng dịch vụ Home Banking của ACB nhưng Techcombank HomeBanking cũng đã thu hút được rất nhiều khách hàng, đem lại một số thành
công nhất định cho ngân hàng.
website:
qua
dịch
giao
các
hiện
thực
và
ký
đăng
việc
với
ACB,
là
số dư tài khoản, sao kê chi tiết 5 giao dịch gần nhất, tra cứu tỷ giá ngoại tệ … chỉ bằng một tin
nhắn.
- Với ngân hàng ACB, dịch vụ Mobile Banking của họ cho phép khách hàng (có tài khoản hay chưa có tài khoản tại ACB) dùng điện thoại di động nhắn tin theo mẫu quy định của Ngân hàng đến tổng đài 997 yêu cầu Ngân hàng cung cấp các dịch vụ: thông tin về tài khoản tiền gửi thanh toán, thông tin thẻ, thông tin về tỷ giá, chứng khoán… và thanh toán các hoá đơn, chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán qua thẻ bằng tin nhắn điện thoại di động.
Ngoài các ngân hàng trên, cũng có thể kể thêm một số ngân hàng cũng đã phát triển dịch vụ Mobile Banking khá tốt như là Ngân hàng Nam Việt với tổng đài nhận tin nhắn 997, hay ngân hàng SCB với tổng đài nhận tin nhắn 1900.5555.88 (đối với các thuê bao di động MobiFone và VinaFone) hoặc 0168.999.7655 (đối với các thuê bao di động khác), ngân hàng Đông Á với tổng đài nhận tin nhắn 8149; và một số ngân hàng khác nữa.
2.2.4. Dịch vụ Home Banking:
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dương dịch vụ Home Banking còn là một dịch vụ tương đối mới mẻ đối với các ngân hàng, chưa có nhiều ngân hàng thực hiện triển khai dịch vụ này, vì vậy nó chưa được phổ biến lắm đối với người dân, tuy nhiên trong những năm gần cũng đã có một số ngân hàng chú trọng phát triển dịch vụ này, đem lại một số đột phá nhất định:
- Đi đầu và đạt được những thành quả nổi bật trong việc phát triển dịch vụ Home Banking
24
Gần đây, vào ngày 8/3/2010 ACB đã nâng cấp dịch vụ Internet Banking của mình với 2
chức năng vượt trội: Thêm phương thức bảo mật mới và thêm tiện ích cho phép khách hàng tự tạo tài khoản tiền gửi Đầu tư trực tuyến với lãi suất cực hấp dẫn, đã đem lại cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn.
ACB đã áp dụng công nghệ bảo mật đường truyền SSL và firewall đem lại sự an tâm cho
khách hàng khi thực hiện giao dịch với ngân hàng. Và điều này cũng đã làm cho số lượng sử
Thông tin về biểu phí, lãi suất tiết kiệm, tỷ giá hối đoái
Thông tin về giá chứng khoán.
Bảng giá vàng trực tuyến của sàn giao dịch vàng.
Đăng ký thẻ trên mạng.
Đăng ký vay trên mạng.
Xem và in giao dịch từng tháng
Kiểm tra số dư tài khoản, số dư thẻ
+
+
+
+
+
+
+
- Về dịch vụ này cũng phải kể đến các ngân hàng BIDV, Việt Á… những ngân hàng này
cũng đã cung cấp dịch vụ Hombanking và ngày càng hoàn thiện để đem lại những tiện ích hơn nữa cho khách hàng. Nhìn chung tuy hiện nay chỉ có rất ít ngân hàng triển khai dịch Home Banking, nhưng với những tiện ích mà nó đem lại cho cả khách hàng lẫn ngân hàng, cũng như những thành công của các ngân hàng đã triển khai dịch vụ này, hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều hơn các ngân hàng thực hiện triển khai và phổ biến dịch vụ này, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
2.2.5. Dịch vụ Internet Banking:
Internet Banking là một dịch vụ mà hiện nay hầu hết các ngân hàng đều đã triển khai và đang phát triển. Với những tiện ích rõ nét mà nó đem lại, Internet Banking đã được người dân tin dùng và ngày càng phổ biến hơn. Trang web của các ngân hàng hiện đã được quan tâm cải thiện với gần như đầy đủ thông tin cùng những tiện ích cần thiết.
- ACB là một trong những ngân hàng đầu tiên triển khai dịch vụ Internet Banking ở Việt Nam vào năm 2003. Với dịch vụ này, khách hàng có thể truy cập vào website www.acb.com.vn để lấy các thông tin và thực hiện các giao dịch sau:
+ Thông tin sản phẩm, dịch vụ mới của Ngân hàng một các nhanh chóng (sản phẩm tiền gửi thanh toán, sản phẩm tiền gửi tiết kiệm, sản phẩm tín dụng, sản phẩm NHĐT, thanh toán
quốc tế, các dịch vụ thẻ…), các thông tin của công ty địa ốc, chứng khoán, sàn giao dịch vàng…
25
dụng dịch vụ Internet Banking của ngân hàng tăng vọt trong những năm gần đây, đem lại một
doanh thu to lớn cho ngân hàng.
- Cũng cùng phát triển dịch vụ Intenet Banking vào năm 2003 nhưng ngân hàng Techcombank lại không đạt được nhiều thành công như ngân hàng ACB do cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế nên dịch vụ chưa đem lại nhiều tiện ích. Tuy nhiên vào năm 2007, Techcombank bỏ ra hơn 1 triệu USD để phát triển dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Điển hình là việc triển khai gói dịch vụ F@st i-bank cho phép khách hàng có thể thực hiện các giao dịch ngân hàng như: Chuyển khoản giữa các tài khoản trong và ngoài hệ thống Techcombank (có thể chuyển khoản lên tới 500 triệu đồng/giao dịch); Tra cứu số dư và các giao dịch tài khoản; Quản lý và tra cứu các khoản vay, khoản tiết kiệm; Thanh toán hàng hóa và dịch vụ (vé máy bay, các loại thẻ nạp tiền tại https://vcard.vn…), Hơn thế nữa, khách hàng còn có thể đặt lệnh thanh toán tự động hay đăng ký các sản phẩm, dịch vụ khác của ngân hàng.
F@st i-bank được áp dụng bởi công nghệ bảo mật RSA, công nghệ đạt tiêu quốc tế kết hợp với sự hỗ trợ của hệ thống corebanking thế hệ mới nhất T24.R6 do nhà cung ứng hàng đầu thế giới Temenos (Thuỵ Sĩ) thực hiện. Công nghệ này được kiểm nghiệm về tính an toàn, hiệu quả đáp ứng nhu cầu khắt khe về sử dụng dịch vụ tài chính, ngân hàng tại các ngân hàng hàng đầu thế giới nên đã đem lại sự an tâm cho khách hàng.
Với những tính năng đầy tiện ích, F@st i-bank đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về một phương thức sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiện lợi và an toàn, phù hợp với xu hướng “số hoá” của cuộc sống. Kể từ khi ra mắt từ tháng 8/2007, lượng khách hàng sử dụng sản phẩm này liên tục gia tăng, từ 1.226 năm 2008 (tính gộp cả mấy tháng cuối năm 2007) lên 3.278 năm
2009 và dự kiến đến hết năm 2010, Techcombank sẽ có trên 4.500 khách hàng. (theo
- Một ngân hàng nữa cũng rất chú trọng đến trang web của ngân hàng mình đó chính là ngân hàng Đông Á. Vừa qua, trang web của Ngân hàng Đông Á vừa được người tiêu dùng bình chọn hai giải nhất, một của website TMĐT mô hình B2C (doanh nghiệp - người tiêu dùng) và một của dịch vụ hỗ trợ hoạt động TMĐT trong chương trình bình chọn “Website và dịch vụ TMĐT được người tiêu dùng ưa thích nhất năm 2009” do Sở Công Thương TPHCM phối hợp với Văn phòng phía Nam của Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam tổ chức. (Nguồn:
- Đối với ngân hàng VCB, vào năm 2006 VCB triển khai gói dịch vụ ngân hàng trực tuyến
qua Internet VCB-iB@nking: đáp ứng nhu cầu 24x7 của khách hàng đối với các giao dịch truy
26
vấn số dư, in sao kê tài khoản, thanh toán chuyển khoản, thanh toán hóa đơn, kiểm soát tình hình
chi tiêu thẻ tín dụng, truy vấn về tỉ giá, lãi suất, mạng lưới điểm giao dịch, các thông tin về sản phẩm, dịch vụ, v.v. tại bất cứ nơi đâu có kết nối Internet. Ngoài tên và mật khẩu truy cập tĩnh để sử dụng ngân hàng trực tuyến qua Internet VCB-iB@nking, VCB còn cung cấp mật khẩu một lần sinh ngẫu nhiên OTP giúp khách hàng có thể an tâm tuyệt đối khi thực hiện giao dịch chuyển khoản, thanh toán qua Internet.
VCB là một trong những ngân hàng phát triển dịch vụ Internet Banking rất tốt, điều này thể hiện qua việc gia tăng số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ này trong những năm gần đây. Số khách hàng sử dụng dịch vụ Internet Banking tính đến năm 2009 của VCB là 4210 khách hàng, trong đó chỉ tính riêng năm 2009 là 2042 khách hàng, và kế hoạch vào năm 2010 con số này sẽ tăng thêm 2374 khách hàng (nguồn: kế hoạch dịch vụ bán lẻ năm 2010 ngân hàng Ngoại thương Bình Dương)
- Ở ngân hàng Công Thương (Vietinbank), với mục đích đem đến những tiện ích đa dạng, các giá trị gia tăng mới trên nền tảng công nghệ hiện đại cho khách hàng, sau một thời gian thử nghiệm, bắt đầu từ năm 2006 VietinBank đã chính thức triển khai dịch vụ vấn tin tài khoản ATM qua Internet. Trải qua quá trình tìm tòi, cải tiến, từ tháng 01/2010, VietinBank chính thức triển khai dịch vụ đăng ký SMS Banking qua Internet. Với tiện ích này, VietinBank là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam triển khai dịch vụ đăng ký vấn tin ATM qua Internet. Ngoài ngân hàng công thương, hầu hết các ngân hàng khác khi muốn đăng ký truy vấn tài khoản trên trang web của ngân hàng đều phải đến phòng giao dịch của ngân hàng thực hiện.
- Riêng đối với các ngân hàng có yếu tố nước ngoài thì dịch vụ Internet Banking là một trong những điểm mạnh của họ, với điều kiện về cơ sở vật chất, công nghệ kỹ thuật rất tốt, khối NHTM có yếu tố nước ngoài thực hiện dịch vụ Internet Banking với các tiện ích và chất lượng vượt trội so với NHTM Việt Nam, điển hình là việc HSBC Việt Nam được Global Finance bình chọn là ngân hàng có dịch vụ Inernet banking tốt nhất Việt Nam năm 2009.
- Ngoài các ngân hàng trên, còn rất nhiều ngân hàng khác cũng đã triển khai dịch vụ Internet Banking, ta có thể kể đến như là Ngân hàng Đông Á bằng cách truy cập vào trang web: https://ebanking.dongabank.com.vn để thực hiện các giao dịch, hay ngân hàng HD với trang web: www.hdbank.com.vn, An Bình Bank với trang web: https://ebanking.abbank.vn. Nhìn chung, ta
có thể thấy dịch vụ Internet Banking đã được chú trọng và phổ biến ở hầu hết các ngân hàng.
27
>1
NH xuất nhập khẩu (Eximbank)
1
NH HSBC
>8
NH Quân đội (MB bank)
60
NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn
8
NH Sacombank
68
NH Ngoại Thương
4
NH Quốc tế (VIB)
25
NH Công Thương
45
NH Phương Đông
50
NH Đông Á
34
NH BIDV
2
NH An Bình
24
NH Techcombank
7
NH Á Châu
(Nguồn: tự tổng hợp của nhóm tác giả)
Tuy nhiên, hiện nay một số ngân hàng ở Bình Dương vẫn chưa có máy ATM riêng mà dùng chung hệ thống ATM của ngân hàng khác (như ngân hàng thương mai cổ phần Sài Gòn-Hà Hội, Tiên phong bank…) hoặc có ít máy ATM và dùng máy ATM của ngân hàng khác kết nối ngân hàng mình (như trường hợp HSBC, 7 máy ATM của Techcombank kết nối HSBC).
Bên cạnh đó, việc thanh toán hàng hóa, dịch vụ…tại các điểm chấp nhận thẻ dường như chưa được phát tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại ở tỉnh Bình Dương.doc