LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ 2
1.1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế. 2
1.1.1 Khái niệm về tập đoàn kinh tế. 2
1.1.2. Đặc điểm hình thành tập đoàn kinh tế ở Việt Nam 5
1.2. Hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế 8
1.2.1. Nguyên tắc thành lập tập đoàn kinh tế 8
1.2.2. Bài học kinh nghiệm về hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế của một số nước trên thế giới 8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 13
2.1. Định hướng phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam 13
2.1.1. Sự cần thiết hình thành tập đoàn kinh tế 13
2.1.2. Quan điểm của Đảng và Chính phủ về hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế 14
2.2. Thực trạng hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế 19
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 24
3.1. Đánh giá mô hình tập đoàn kinh tế 24
3.1.1. Những kết quả đạt được và hạn chế của mô hình tập đoàn 24
3.1.2. Đánh giá chung về tập đoàn kinh tế 29
3.2. Giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế 30
3.2.1. Về vai trò của Nhà nước. 30
3.2.2. Về bước đi và con đường hình thành. 36
3.2.3. Về cơ cấu tổ chức của các TĐKT. 37
3.2.4. Về quản lý các TĐKT. 39
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 41
42 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển và phát huy vai trò của tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rưởng và tích luỹ để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, vấn đề cấp bách là phải có những bước tiến mới trong đổi mới và phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Đây là quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước bằng cách phân loại doanh nghiệp để củng cố, sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hóa các hình thức sở hữu, giải thể hoặc phá sản. Việc sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng như vậy sẽ tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, mở ra con đường thúc đẩy ra đời của tập đoàn kinh tế.
Mặt khác, thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế thị trường là chấp nhận sự cạnh trang gay gắt trên toàn cầu, đặc biệt là cạnh tranh với các nước trong khu vực, trong khi xuất phát điểm của nước ta còn thấp và việc giành được chỗ đứng trên thị trường thế giới còn khó khăn. Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần phải có những doanh nghiệp có quy mỗ rất lớn, với trình độ kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Đảm nhận vai trò quan trọng đó phải là các tập đoàn kinh tế của Việt Nam.
Sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường só sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, bối cảnh mới của thế giới và khu vực, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài mà tìm ra phương hướng và giải pháp để hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế của Việt Nam trên cơ sở thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế. Vì vậy, ngày 7/3/1994, theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 90, 91/TTg về “Thí điểm thành lập các tập đoàn kinh doanh” để làm tiền đề nhằm phát triển thành các tập đoàn kinh tế sau này. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu mốc trong việc sắp xếp lại các Tổng Công ty và thí điểm thành lập các tập đoàn kinh doanh ở nước ta. Đây cũng là biện pháp hết sức đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta nhằm đưa đất nước vào “guồng máy” của sự phát triển.
Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đến tháng 2/2001 cả nước có 17 Tổng Công ty 91 dó Chính phủ quản lý Tổng Công ty 90 và 76 Tổng Công ty 90 do các bộ quản lý với 1.392 đơn vị thành viên hạch toán độc lập, chiếm 24% tổng số doanh nghiệp cả nước, nắm giữ 66% về vốn, 61% về lao động (riêng 17 Tổng Công ty 91 có 532 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 9% số lượng doanh nghiệp Nhà nước, 56% tổng vốn kinh doanh, 35% lao động). Đa số các Tổng Công ty được tổ chức lại từ các liên hiệp xí nghiệp đã được thành lập theo mô hình cũ.
Thực tế hoạt động của các Tổng Công ty thời gian qua đã mang lại một số kế quả như:
- Phần lớn, các Tổng Công ty đã chủ động xây dựng kế hoạch phát triển Tổng Công ty đến năm 2010, chủ yếu hướng vào phát triển nội lực là chính. Nhiều Công ty đã xây dựng được chiến lược phát triển kỹ thuật – công nghệ nhằm tăng năng lực canh tranh, hạn chế đầu tư dàn trải.
- Việc thành lập các Tổng Công ty tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn va thực hiện điều phối các nguồn lực hợp lý, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng vị thế doanh nghiệp trên trường quốc tế.
- Có sự hỗ trợ về vốn, công nghệ, thị trường trong và ngoài nước, tăng khả năng đấu thầu cho các doanh nghiệp thành viên.
Sự hoạt động của các Tổng Công ty đã nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần mở rộng thị phần xuất nhập khẩu.
Đảm bảo cân đối nền kinh tế: Hầu hết các Tổng Công ty đảm nhận vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu cung cấp các sản phẩn chủ yếu, điều hòa giá cả, phân phối hàng hóa, góp phần ổn định kinh tế –xã hội .
Bên cạnh những thành công mà các Tổng Công ty đem lại cho nền kinh tế trong thời gian qua, chúng vẫn còn tồn tại một số yếu kém như:
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế Xã hội, cụ thể tình trạng thiếu vốn ở các Tổng Công ty và doanh nghiệp là phổ biến, năng xuất lao động còn thấp, chi phí sản xuất lớn làm cho giá thành cao, hàng hóa chưa có sức cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới.
- Nội dung sở hữu về vốn chưa được xác định rõ ràng giữa Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Tổng Công ty chưa điều tiết được vốn giữa các đơn vị thành viên theo mục tiêu đầu tư phát triển chung của toàn Tổng Công ty. Do đó bộ máy Tổng Công ty còn mang nặng tính chất hành chính trung gian, chưa thực sự làm được vai trò của bộ máy quản lý và điều hành hoạt động của Tổng Công ty. Kết quả là nhiều Tổng Công ty được hình thành bằng “Phép cộng số học” đơn thuần các doanh nghiệp thành viên lại với nhau, nên chúng không có quan hệ mật thiết trong sản xuất kinh doanh hoặc về công nghệ tài chính. Nhiều Tổng Công ty biến thành cơ quan quản lý hành chính cấp trên mà không có tác dụng gì đối với các doanh nghiệp thành viên. Quan hệ Tổng Công ty với các thành viên mới chỉ là hình thức, chưa có nội dung. Trong hoạt động chưa tạo ra mối quan hệ dính kết giữa Tổng Công ty và các đơn vị thành viên.
- Về địa vị pháp lý và thành phần Hội đồng quản trị quy định chưa phù hợp, chưa rõ ràng, khó phân biệt quyền hạn và trách nhiệm giữa Hội đồng quản trị với Tổng Giám đốc, do đó có sự tranh chấp quyền lực giữa Hội đồng quản trị với Tổng Giám đốc.
- Trong mối quan hệ kinh tế với các tập đoàn kinh doanh nước ngoài còn nhiều hạn chế cả về năng lực và nhận thức.
- Cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhất là cơ chế tài chính chưa tạo điều kiện huy động đa dạng các nguồn vốn. Do đó chậm đổi mới quy trình công nghệ, sản phẩm kém cạnh tranh, khả năng mở rộng sản xuất bị hạn chế. Chính vì vậy mà hoạt động của các Tổng Công ty đạt hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trong sự nghiệp đối mới nền kinh tế.
Như vậy, chúng ta chưa có các tập đoàn kinh tế theo đúng nghĩa của nó và việc hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh vẫn là yêu cầu bức thiết đặt ra cho nền kinh tế nước ta. Hơn nữa nền kinh tế Việt Nam về cơ bản cũng đã hội tụ được một số yếu tố cho phép thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế lớn như:
- Trình độ tích tụ, tập trung và liên kết kinh tế ở một số ngành đã đạt mức nhất định. Những ngành này đều giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đảm bảo những yêu cầu cần thiết cho thị trường và có triển vọng phát triển. Chính sự ra đời của các TĐKT lớn sẽ thúc đẩy hơn nữa trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất.
- Đội ngũ các chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý điều hành đã được nâng cao về trình độ trí thức, chuyên môn, vững vàng bản lĩnh chính trị, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới. Tiềm lực khoa học - công nghệ đã được nâng lên đáng kể: từ năm 1997 đến nay, nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ của cả nước đã tăng gấp nhiều lần. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ đại học đạt tăng và hàng năm bổ sung thêm khoảng 180.000 người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ đã tăng lên đáng kể. Trình độ, năng lực cán bộ trong một số ngành và trình độ đội ngũ cán bộ nghiên cứu cơ bản đã được nâng cao. Nhìn chung đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ đã có khả năng làm chủ và thích nghi với công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới, ở một số lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
- Nước ta đã mở rộng quan hệ ngoại giao và quan hệ thương mại với nhiều nước trên thế giới. Do thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987 và đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần qua các giai đoạn cho phù hợp….nên đã thu hút được khá nhiều các tập đoàn kinh tế nước ngoài vào hoạt động, mở rộng các mối quan hệ kinh tế. Vì vậy các Tổng công ty và các doanh nghiệp của nước ta đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình cả trên thị trường trong nước và nước ngoài, dủ sứ mạnhh vươn lên trên con đường hội nhập thế giới.
- Sự phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đã góp phần làm cho nền kinh tế phát triển sống động hơn. Sự phát triển của chúng không chỉ góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước mà còn tạo tiền đề tạo ra các yếu tố để liên kết các doanh nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước tại Việt Nam, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của đất nước; là trung tâm tạo công ăn việc làm, thu hút hơn 210.000 lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp và hàng chục nghìn lao động trong các công đoạn phụ trợ cho sản xuất chính; góp phần đào tạo, nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới…
- Về môi trường kinh doanh: chúng ta đã có hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy tương đối chặt chẽ, cụ thể và ngày cang được hoàn thiện cho phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế.
Trên cơ sở những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi như vây, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa IX đã chỉ rõ: “Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc doanh, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh”.
Để các tập đoàn kinh tế phát triển bền vững, đạt được những mục tiêu đề ra, chúng ta cần phải khắc phục được những khuyết điểm đã mắc phải khi xây dựng các Tổng công ty trước đây đồng thời học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của các nước khác, tiêu biểu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan – các nước đã đi trước chúng ta trong việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế của nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
2.2. Thực trạng hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế
Trong thời kì đầu của cải cách doanh nghiệp, chính phủ Việt Nam đã nhận thấy tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, marketing và đổi mới công nghệ. Điều này là để thích ứng với sự phân tách nặng nề về ngành và thị trường giữa các cơ quan hành chứ nính nhà nước. Các hoạt động trong nhiều ngành thường được thực hiện theo kế hoạch chứ không phải là hoạt động tự thân của các doanh nghiệp, do đó không cần phải có các tập đoàn doanh nghiệp. Kể từ khi thực hiện cải cách, hệ thống kế hoạch hoá tập trung bắt đầu bị phá bỏ cùng với mức độ cải cách kinh tế và mở cửa ngày càng sâu rộng, nhu cầu điều phối ở cấp độ doanh nghiệp tăng nhanh. “Cùng quản lý”, hình thức đầu tiên của tập đoàn kinh tế bắt đầu xuất hiện để đáp ứng yêu cầu này.
Quá trình hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam đã trải qua 5 giai đoạn khác nhau:
Giai đoạn 1: Sự phôi thai của các tập đoàn kinh tế.
Đặc điểm chính của giai đoạn này là tạo điều kiện cho việc cùng quản lý giữa các doanh nghiệp có liên quan mà không làm thay đổi cơ cấu sở hữu. Cải cách doanh nghiệp đã mang lại nhiều quyền tự chủ hơn cho các doanh nghiệp nhà nước. Các lãnh đạo doanh nghiệp bắt đầu chịu trách nhiệm tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trở nên quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Việc cùng quản lý đã loại bỏ được những rào cản giữa các lĩnh vực và các ngành công nghiệp, tái thiết lại ngành công nghiệp tạo điều kiện cho chuyên môn hoávà tránh được những trùng lặp về dự án. Tuy nhiên, những hạn chế của việc cùng quản lý cúng rất lớn. Sự thay đổi cơ cấu sở hữu, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan hành chính nhà nước (chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước) và sự thay đổi của hoạt động tài chính và cách thức phân chia lợi nhuận là không được phép.
Giai đoạn 2: Sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước được khuyến khích thành lập các tập đoàn kinh tế mà không có bất kì một hạn chế nào về địa bàn, lĩnh vực và ngành nghề. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “tập đoàn kinh tế ” xuất hiện trong văn bản chính thức của chính phủ và có nghĩa là đánh dấu sự ra đời của các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam. Một thời gian ngắn sau đó, hầu hết đều trở thành các tập đoàn kinh tế. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất sau đó lan ra các lĩnh vực khác như nghiên cứu và đổi mới công nghệ, cung cấp nguyên liệu thô, bán sản phẩm, tiếp cận nguồn tín dụng và đầu tư các dịch vụ chia sẻ thông tin. Trên cơ sở những lĩnh vực vày, nhiều đơn vị, dù có quan hệ chặt chẽ hay lỏng lẻo đều liên kết với nhau thông qua vốn, sản phẩm, công nghệ chiến lược phát triển, dịch vụ, thông tin, v.v… Việc hình thành sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và sau đó là các tập đoàn doanh nghiệp đã làm giảm đáng kể sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp, phát triển thị trường khu vực, và phá vỡ sự xé lẻ theo lĩnh vực của hệ thống kế hoạch hoá.
Giai đoạn 3: Sự hình thành các tập đoàn doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chính sách sau đó đã không cho phép việc sáp nhập và mua lại giữa các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp có thể thiết lập hợp tác chiến lược nhưng không được phép tái cơ cấu để tận dụng những lợi thế của việc liên kết. Để giải quyết vấn đề này, Uỷ ban kinh tế nhà nước đã đề xuất tiếp tục thúc đẩy hình thành các tập đoàn doanh nghiệp dựa trên hợp tác doanh nghiệp qua “Đề xuất thành lập và phát triển các tập đoàn doanh nghiệp ” bao gồm các đề xuất sau:
Thứ nhất: Lý do thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế là để thống nhất thị trường bị phân tách, cải cách các doanh nghiệp nhà nước đã tự đảm bảo cho hoạt động của mình, tái cơ cấu các ngành, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng với quá trình chuyên môn hoá, tận dụng những lợi thế kinh tế nhờ quy mô và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Hơn nữa, tập đoàn doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự đổi mới công nghệ và củng cố công nghệ cho các doanh nghiệp, và do đó sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Thứ hai: Các nguyên lý cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế là cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi, và chống lại độc quyền trong hoạt động.
Thứ ba: Những đòi hỏi cho việc thành lập các tập đoàn kinh tế là rõ ràng. Với cấu trúc doanh nghiệp có cấp độ, tập đoàn kinh tế được phép thống nhất quản lý trong đầu tư, tài sản, các chiến lược kinh doanh và marketing. Đồng thời tập đoàn kinh tế cũng khai thác được khả năng thành lập các công ty cổ phần, tách rời sở hữu với quản lý.
Thứ tư: Các chính sách đặc biệt thúc đẩy sự hình thành các tập đoàn kinh tế cũng được đưa ra. Tập đoàn kinh tế cần có tự chủ trong quản lý, quyền định giá, quyền quyết định bán ở đâu, đầu tư vào đâu, và sản xuất cái gì, quyền xuất khẩu sản phẩm và nhập công nghệ nước ngoài. Hầu hết các quyền kiểm soát do các cơ quan hành chính nhà nước nắm giữ phải được chuyển giao sang cho lãnh đạo của các tập đoàn doanh nghiệp.
Giai đoạn 4: Chính thức hoá các tập đoàn kinh tế.
Để thúc đẩy sự phát triển của tập đoàn kinh tế, nhà nước đã phê chuẩn “Đề án thí điểm tập đoàn doanh nghiệp”. Mục tiêu chủ yếu của việc thí điểm là xác định những mô hình hiệu quả cho tập đoàn kinh tế, cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách để đưa ra các chính sách thuận lợi cho tập đoàn kinh tế và thúc đẩy mạnh hơn sự phát triển của các tập đoàn kinh tế.
Những tập đoàn kinh tế thực hiện thí điểm mô hình tập đoàn với cơ cấu theo cấp độ gồm các pháp nhân liên kết với nhau bằng đầu tư cổ phần hoặc hợp tác sản xuất. Những doanh nghiệp này được hưởng những chính sách thuận lợi nhằm mục tiêu giao thêm quyền tự chủ cho các tập đoàn kinh tế, cho phép chúng trở thành đơn vị lập kế hoạch độc lập không phụ thuộc vào chính quyền địa phương và các cơ quan hành chính nhà nước khác, thành lập các thể chế tài chính phi ngân hàng, quản lý xuất nhập khẩu trực tiếp, và được hưởng đặc quyền nộp thuế chung ở cấp tập đoàn.
Các biện pháp cụ thể về việc xây dựng các tập đoàn kinh tế cũng được đưa ra. Những biện pháp này mang lại cho doanh nghiệp nhiều quyền kiểm soát hơn. Công ty mẹ (công ty tập đoàn) được:
(1) Báo cáo trực tiếp cho cơ quan chính phủ có thẩm quyền về kế hoạch hàng năm và kế hoạch phát triển của mình.
(2) Ký kết các hợp đồng trực tiếp với cơ quan chính phủ được chỉ định và sau đó ký hợp đồng phụ với các công ty con hoặc doanh nghiệp thành viên của mình.
(3) Chịu trách nhiệm đối với việc hoàn trả các khoản vay cho các đầu tư lớn trong tập đoàn.
(4) Quản lý các hoạt động kinh doanh và thương mại khác.
(5) Báo cáo tất cả việc mua bán tài sản cho Uỷ ban quản lý và giám sát tài sản của nhà nước.
(6) Bổ nhiệm lãnh đạo của các công ty thành viên.
Việc kiểm soát công ty mẹ được đảm bảo thông qua:
+ Thành lập mối quan hệ công ty mẹ – công ty con thông qua đầu tư.
+ Trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhà nước thành viên được phê duyệt.
Nền kinh tế thị trường XHCN trở thành mục tiêu của việc cải cách kinh tế, chính phủ Việt Nam cũng điều chỉnh các mục tiêu của việc thí điểm, đó là, chiến lược phát triển các tập đoàn là thúc đẩy phát triển các tập đoàn kinh tế lớn.
Công ty mẹ và công ty con của tập đoàn kinh tế cần phải được liên kết chủ yếu trên vốn đầu tư. Sự phát triển trong tương lai của các tập đoàn kinh tế cần phải hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, ngoại thương và trao đổi thông tin.
Giai đoạn 5: Tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế:
Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế nhiều hơn. Điều này cũng có thể được phản ánh trong chiến lược phát triển của các tập đoàn kinh tế.
CHƯƠNG 3: GIảI PHáP PHáT TRIểN Và PHáT HUY VAI TRò CủA TậP ĐOàN KINH Tế ở Việt nam
3.1. Đánh giá mô hình tập đoàn kinh tế
3.1.1. Những kết quả đạt được và hạn chế của mô hình tập đoàn
* Những kết quả đạt được :
Từ khi xuất hiện tập đoàn kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng khu vực này. Số lượng các tập đoàn kinh tế không ngừng được tăng lên và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế không ngừng được cải thiện.
Các tập đoàn kinh tế nói chung ở Việt Nam không ngừng gia tăng về số lượng cũng như không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các tập đoàn kinh tế góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực, kết hợp tối ưu các yếu tố sản xuất, đạt được tính kinh tế nhờ quy mô, điều mà một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một hiệp hội với các doanh nghiệp thành viên có mối quan hệ lỏng lẻo không thể làm được, do vậy kinh tế là một sức mạnh khung và ngày càng trở thành một tổ chức kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân .
Cùng với sự phát triển chung của các tập đoàn kinh tế, các tập đoàn kinh tế nhà nước ngày càng lớn mạnh khẳng định vị trí trụ cột trong nền kinh tế quốc dân.
Thực tế tại các tập đoàn kinh tế nhà nước đã thể hiện được sức mạnh kinh tế quốc gia.
Trước đây cơ cấu kinh tế không hợp lý là một vấn đề lớn, thể hiện ở chỗ số lượng doanh nghiệp thì rất lớn nhưng quy mô của từng doanh nghiệp lại nhỏ và mức độ tập trung hoá sản xuất thấp; các doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật thấp, sản phẩm tương tự nhau và năng lực nghiên cứu và phát triển độc lập còn yếu; các doanh nghiệp cũng có những đặc trưng không tốt như “lớn và tất cả”, “nhỏ và tất cả”, cơ cấu ngành nghề trong khu vực là tương tự nhau, trình độ chuyên môn hoá và hợp tác thấp. Do đó với với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế, Việt Nam đã tiến hành một cách hiệu quả việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, thực hiện kinh tế quy mô và dần thay đổi tình trạng vô lý của cơ cấu tổ chức không hợp lý.
Dựa vào tập đoàn kinh tế hiện nay, Việt Nam có thể đưa một số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống chuyên môn hoá và hợp tác hoá thông qua các kênh hợp tác về sản phẩm để tiếp tục điều chỉnh và tối ưu hoá việc xác định năng suất lao động và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một giai đoạn phát triển mới.
Khi nền kinh tế Việt Nam ở giai đoạn trình độ thấp, thị trường của người mua sản phẩm xây dựng được hình thành và xuất hiện sự mâu thuẫn về dư thừa năng lực xây dựng so với tốc độ tăng trưởng GDP, sự thay đổi cơ cấu về cầu trong nước và các điều kiện cung cấp và sự thay đổi của môi trường quốc tế. Nhưng đồng thời một số sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm sử dụng nhiều vốn và công nghệ lại phụ thuộc rất nhiều vào hàng nhập khẩu, chẳng hạn như các thiết bị đồng bộ, máy móc chính xác và các tàu biển lớn, v.v…cần trên 50% là hàng nhập khẩu. Đó là lý do tại sao Việt Nam cần phải điều chỉnh cơ cấu công nghiệp và nâng cao chất lượng của nó.
Việc điều chỉnh trong ngành xây dựng như vậy đòi hỏi phải chuyển trọng tâm từ sự chú ý vào từng doanh nghiệp riêng lẻ sang chú trọng vào chiến lược điều chỉnh toàn bộ và có tính hệ thống. Do vậy, việc điều chỉnh trong xây dựng phải được xem xét trong mối quan hệ với việc cải cách có tính chiến lược đối với cải tổ nhân sự doanh nghiệp, tận dụng hết vai trò của doanh nghiệp lớn để thúc đẩy qúa trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp. Vì nội dung chính của quá trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp là xây dựng và phát triển một nhóm các ngành kỹ thuật mới và kỹ thuật cao hoặc các ngành công nghiệp với kỹ thuật mới và cao, việc tăng cường toàn bộ ngành công nghiệp có đặc trưng là tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và nâng cao vị thế so sánh và vị thế công nghiệp trong hệ thống phân công quốc tế. Các ngành công nghiệp có công nghệ cao và mới có đặc trưng là sử dụng nhiều vốn và công nghệ và đòi hỏi các yếu tố sản xuất phải được tập trung và kết hợp lại với nhau thành quy mô lớn. Trong khi đó chỉ có tập đoàn kinh tế lớn có khả năng phát triển những ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ ở quy mô lớn và nó có thể tận dụng được sức mạnh kinh tế và lợi thế kỹ thuật của mình để nắm được xu hướng của thị trường trong và ngoài nước, tự xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, một bước tiến quan trọng đối với đất nước để thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia.
Việt Nam có một số lượng lớn các doanh nghiệp nhỏ trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp này chiếm thị phần lớn hơn nhờ có cơ chế hoạt động linh hoạt và giá rẻ, nhưng họ cũng gặp khó khăn do trình độ công nghệ thấp, chất lượng sản phẩm thấp nhất và khả năng cạnh tranh yếu, v.v… nếu những doanh nghiệp nhỏ này tham gia trên thị trường mà chỉ dưạ vào sức mạnh của bản thân họ, thì họ sẽ phải đối mặt với vấn đề tồn tại hoặc bị loại bỏ. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp nhỏ có thể gia nhập tập đoàn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình đồng thời nhận được sự bảo vệ hoặc đỡ đầu và nhiều cơ hội phát triển hơn từ phía tập đoàn.
Các doanh nghiệp nhỏ gia nhập tập đoàn bằng cách thiết lập những lợi ích chung với các thành viên khác của tập đoàn và thu được lợi ích có thể có đối với một doanh nghiệp độc lập bằng cách cùng sử dụng các yếu tố sản xuất như công nghệ, vốn và thông tin với các thành viên khác của tập đoàn nhằm làm giảm chi phí giao dịch và tận dụng những lợi thế riêng có của mình như tính độc lập và sự linh hoạt vì họ có thể gia nhập hoặc rút khỏi một tập đoàn kinh tế nào đó hoặc đồng thời trở thành thành viên của hai tập đoàn khác nhau tuỳ theo lợi ích của mình. Lợi ích lớn nhất từ việc thiết lập mối quan hệ giữa tập đoàn kinh tế với các doanh nghiệp nhỏ này là sẽ hình thành một thị trường nội bộ với sự hợp tác nhiều hơn và cạnh tranh ít hơn giữa các thành viên. Bởi vì chính tập đoàn sẽ đóng vai trò chủ chốt trong quá trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp quốc gia khi xoá bỏ hoặc phát triển một số ngành, nên các doanh nghiệp nhỏ hợp tác với tập đoàn có thể nắm chắc định hướng điều chỉnh cơ cấu và nhận được sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật thị trường, v.v…từ các doanh nghiệp chủ chốt hoặc cơ bản để điều chỉnh cơ cấu sản phẩm và định hướng hoạt động của mình với chi phí và trở ngại thấp vào thời điểm điều chỉnh cơ cấu công nghiệp quốc gia. Đây là cách tốt nhất để tồn tại và phát triển đối với các doanh nghiệp nhỏ này.
Đồng thời, tập đoàn kinh tế lớn cũng trở thành người thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô vì chúng đã đưa một lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống sản xuất và hợp tác của mình. Và chỉ kênh này thôi đã là cách thức tốt nhất để thực hiện các chính sách công nghiệp quốc gia.
Việc xây dựng các tập đoàn kinh tế tạo nền tảng cho việc tham gia vào cạnh tranh quốc tế.
* Những hạn chế của tập đoàn kinh tế
Mặc dù tập đoàn kinh tế tăng trưởng rất nhanh, đóng vai trò chi phối và thậm chí là quyết định trong nền kinh tế quốc dân về phát triển kinh tế nói chung, nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề giữa các tập đoàn kinh tế ở các khía cạnh dưới đây:
- Tập đoàn kinh tế có quy mô tương đối nhỏ, sức mạnh kinh tế thấp và cơ cấu tổ chức không bình thường.
Việc tổ chức xây dựng tập đoàn kinh tế thường là sự gia tăng đơn giản về số lượng doanh nghiệp và khối lượng hàng hoá sản xuất được. Về mục đích liên kết, nhiều tập đoàn kinh tế chưa xác định rõ nghĩa vụ và mục đích xây dựng tập đoàn đã vội vã đăng ký xin giấy phép đăng ký kinh doanh. Các mối liên kết thường xảy ra tình trạng chạy theo phong trào, không tìm hiểu nghiên cứu kỹ tính khả thi của tập đoàn kinh tế dẫn đến kết quả là xây dựng tổ chức bừa bãi các tập đoàn kinh tế. Nhiều doanh nghiệp hơi lớn một chút đã tự xưng là tập đoàn kinh tế. Do vậy, quy mô của các tập đoàn kinh tế thiên về nhỏ, thực lực yếu khó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37285.doc