Đề tài Giải pháp quản lý nhằm mở rộng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU 3

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 4

I - Khái niệm và vai trò của chứng khoán. 4

1. Chứng khoán là gì? 4

2. Các loại chứng khoán 4

II. thị trường chứng khoán 6

1. Cơ cấu thị trường chứng khoán 6

2.Chức năng của TTCK 8

3.Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 10

4.Những mặt tích cực và tiêu cực của thị trường chứng khoán. 12

5. Các điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán. 15

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM. 18

1. Thực trạng hoạt động kinh tế ở việt nam 18

1.1 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam 18

1.2 Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 19

2. Điều kiện tất yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 20

2.1. Chuẩn bị điều kiện vật chất tiền đề. 20

2.2. Khuôn khổ pháp lý ban đầu cho thị trường chứng khoán. 21

2.3. Chuẩn bị về con người: 21

3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán 21

3.1. Thực trạng về quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam. 21

3.2 Thực trạng quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán. 24

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 26

I .Vai trò quản lý nhà nước đồi vời sụ phát triển thị trường chứngkhoán ở Việt Nam 26

II . Giải pháp quản lý nhằm mở rộng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 27

1. Cổ phần hoá doanh nghiệp 27

2. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. 32

3. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Doanh nghiệp. 32

4. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán 33

5. Hệ thống pháp lý 33

6. Về sự tham gia của nước ngoài 33

7. Các tổ chức trung gian 34

KẾT LUẬN 35

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 36

 

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp quản lý nhằm mở rộng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức tài trợ tín dụng từ phía ngân hàng(nguồn vốn ngắn hạn ) và thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn ( vốn dài hạn ). Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi dân chúng có nguồn tiết kiệm dồi dào, và ý thức cũng như phong trào tiết kiệm trong dân chúng tốt. Việc đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường không những đem lại lợi nhuận thông qua cổ tức, mà còn tham gia quyền kiểm soát đối với các tổ chức phát hành cổ phiếu khi các nhà đầu tư nắm giữ một khối lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết. Đây chính là tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư của dân chúng. 4.1.2 Giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sánh. Ngân sánh Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ dàng thành công. Nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của nhà nước và các khoản thu nhập khác từ khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, chính sách thuế không phải lúc nào cũng thuận chiều với chính sách kinh tế. Trong thực tế ,các khoán thu ngân sách thường không đáp ứng đủ và kịp thời các khoản chi , lúc đó ngân sách nhà nước sử dụng giải pháp vay vốn từ dân chúng thông qua việc phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương. Thông qua thị trường chứng khoán việc phát hành các trái phiếu chính phủ được thuận lợi và thường xuyên hơn. 4.1.3 Thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài Vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển. Chúng ta ai cũng có thể nhận ra rằng vốn đầu tư trong nước (dù có huy động tối đa nguồn tiết kiệm của dân chúng) cũng chỉ có giới hạn. Do vậy phải có vốn đầu tư từ nước ngoài. Trên thực tế, các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án sản xuất-kinh doanh, và gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai loại hình đầu tư này nếu như không có thị trường chứng khoán thì không phát huy được tính hiệu quả cao của nó. Thị trường chứng khoán đáp ứng được khả năng sinh lợi, khả năng hoàn vốn, cũng như khả năng chuyển đổi sở hữu khi thấy cần thiết, là nơi luôn tạo ra sự chuyển dịch các luồng vốn đầu tư (từ lĩnh vực đầu tư này sang lĩnh vực đầu tư khác) và cung cấp các thông tin một cách chính xác để tìm hiểu các đối tác đầu tư. 4.1.4 . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để di chuyển vốn đầu tư. Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn dầu tư được mua đi bán lại trên TTCK như một thứ hàng hóa. Người nắm giữ chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư (tính linh hoạt của chứng khoán). 4.1.5 . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp thông qua việc bán cổ phần cho các thành phần kinh tế trên cơ sở chuyển đổi từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu khác nhau. Chính quá trình này tạo ra hàng hoá (cổ phiếu) cho thị trường chứng khoán, ngược lại thị trường chứng khoán cũng tạo cơ sở luân chuyển các chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tạo động lực kích thích quá trình cổ phần hoá phát triển. 4.1.6.Kích thích các doanh nghiệp tuân thủ luật pháp và quan tâm tới hiệu quả. Các tổ chức phát hành chứng khoán niêm yết, phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết: Tổng tài sản có của tổ chức niêm yết, tỷ lệ nợ trên vốn khả dụng, hệ số sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng đươc xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc niêm yết giao dịch chứng khoán tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ luật pháp, bởi lẽ chỉ có như vậy các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và các nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua. Để tạo ra khả năng hấp dẫn của chứng khoán không còn cách nào khác các doanh nghiệp phải tính toán để quản lý một cách có hiệu quả. 4.2. Những mặt tiêu cực . Mặc dù thị trường chứng khoán có tác dụng tích cực là công cụ hữu hiệu để huy động vốn dài hạn, mà hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều sử dụng, song bên cạnh đó nó còn có những mặt tiêu cực làm ảnh hưởng tới hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, người ta ví thị trường chứng khoán như con giao hai lưỡi , nếu không biết cách sử dụng, phát huy hiệu quả, thì ngược lại nó sẽ là công cụ làm rối loạn nền kinh tế và gây ra những tác hại khó có thể lường hết. 4.2.1. Chứa đựng yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Yếu tố này dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo 4..2.2. Hiện tượng giao dịch nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường. 4.2.3 . Đưa tin sai sự thật về một loại chứng khoán hoặc hoạt động của doanh nghiệp. Việc tung tin sai sự thật về hoạt động của công ty niêm yết cũng như các chứng khoán được giao dịch trên thị trường, sẽ tạo sự hỗn độn thị trường, gây tình trạng bán ồ ạt một loại chứng khoán nào đó với giá thấp hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp nắm giữ và thao túng hoặc thâu tóm công ty.Việc tung tin sai sự thật sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, và còn nhằm hành vi như đầu cơ, truộc lợi, lũng đoạn thị trường. 4.2.4. Dễ huy động vốn, đồng thời cũng dễ bị rút vốn ồ ạt gây lên khủng hoảng thị trường. Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán cho phép nhà đầu tư có thể đầu tư hoặc giải tư nhanh gọn để rút vốn. Điều này có thể gây tác hại khôn lường đối với thị trường. Khi một lĩnh vực đầu tư có xu thế phát triển, mọi người đổ xô vào mua chứng khoán đó, làm giá chứng khoán đó sai lệch với giá trị thực của nó. Khi tình hình thị trường có những biến động bất lợi, có ảnh hưởng tới giá chứng khoán, thì mọi người đổ xô đi bán để rút tiền đầu tư, làm cho thị trường hỗn loạn và nhiều khi gây nên sụp đổ thị trường. 5. Các điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán. 5.1. Phải có hệ thống niêm yết: Niêm yết là việc một chứng khoán cho vào giao dịch chính chức tại sở giao dịch chứng khoán sau khi đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết do sở giao dịch chứng khoán đó qui định. Việc chứng khoán của một tổ chức phát hành được niêm yết sẽ đem lại cho chính tổ chức đó và các nhà đầu tư nhiều lợi thế đáng kể như : hoạt động mua bán được tiến hành trong một thị trường trật tự và được quản lý chặt chẽ, tính thanh khoản của chứng khoán được tăng cường, giá cả được xác định một cách minh bạch và công bằng, quyền lợi của người sở hữu chứng khoán được bảo vệ tối đa bởi các qui định của pháp luật 5.2. Hệ thống công bố thông tin của tổ chức niêm yết Công bố thông tin của tổ chức niêm yết là việc tổ chức niêm yết tiến hành thông báo tất cả các thông tin quan trọng cho công chúng đầu tư biết để họ có thể đưa ra các quyết định đầu tư thích hợp. Nói cách khác việc công bố thông tin của tổ chức niêm yết là nhằm 2 mục tiêu chính: bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tất cả các nhà đầu tư, duy trì một thị trường công khai công bằng và có trật tự thông qua việc đảm bảo cho người đầu tư có cơ hội như nhau khi tiếp cận thị trường. Đòi hỏi phải có hệ thống công bố thông tin chuẩn xác, nhanh chóng, kịp thời tới nhà đầu tư. 5.3. Hệ thống giao dịch . Hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là trên thị trường tập trung, được chuẩn hoá cao độ. Tại tất cả các sở giao dịch chứng khoán, lệnh giao dịch chỉ được phép vào hệ thống sau khi đã đáp ứng đầy đủ các qui định về đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá, giới hạn trần/sàn (nếu có). Vì vậy, nhiệm vụ của hệ thống giao dịch là đảm bảo sao cho chỉ có các lệnh hợp lệ mới được phép tham gia giao dịch, đồng thời thực hiện việc khớp lệnh để đưa ra kết quả giao dịch trên thị trường. 5.4. Hệ thống thông tin thị trường Thông tin thị trường được định nghĩa là tất cả các thông tin có liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán và công tác quản lý thị trường của các cơ quan chức năng. Hệ thống thông tin thị trường cùng với hệ thống công bố thông tin tổ chức niêm yết tạo thành một tổ hợp công bố thông tin hoàn chỉnh. Tác dụng của nó là giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để đưa ra các quyết định mua bán kịp thời và hỗ trợ cho các cơ quan quản lý trong việc điều hành hoạt động của thị trường dựa trên các số liệu hiện hành cũng như các số liệu thống kê đã được tích luỹ trong quá khứ. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc chú trọng phát triển hệ thống thông tin là đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các sở giao dịch chứng khoán để có thể hoạt động, tồn tại và phát triển. 5.5. Hệ thống giám sát thị trường Bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng đều phải tuân thủ các nguyên tắc và giới hạn cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn cho xã hội. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, nơi các hoạt động giao dịch, quản lý điều hành diễn ra rất đa dạng, liên tục và gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích các chủ thể tham gia thị trường. Chính vì vậy việc xây dựng và vận hành có hiệu quả hệ thống kiểm tra giám sát là điều kiện tiên quyết đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, ổn định và đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các chủ thể khác trên thị trường. 5.6. Hệ thống đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Chúng ta thường nghĩ rằng một khi các lệnh mua bán đã được hệ thống giao dịch so khớp và đưa ra kết quả thì mọi việc xem như đã hoàn tất. Tuy nhiên, trên thực tế thì mọi việc lại không đơn giản như vậy, vì so khớp lệch và đưa ra kết quả giao dịch chỉ là bước đầu trong toàn bộ quá trình thực hiện giao dịch. Công việc tiếp theo sau khi các lệnh giao dịch đã được so khớp là tiến hành thanh toán sao cho người bán nhận được đúng số tiền và người mua nhận đủ số chứng khoán như đã thỏa thuận. Toàn bộ quá trình thanh toán sau giao dịch sẽ do hệ thống đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán đảm nhận. 5.6. Hệ thống pháp lý . Phải có hệ thống pháp lý rõ ràng, minh bạch, tạo môi trường đầu tư lành mạnh thúc đẩy chứng khoán và thị trường chứng khoán ngày càng phát triển. CHƯƠNG II Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. 1. Thực trạng hoạt động kinh tế ở việt nam 1.1 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD. Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau: - Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia. - Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn. - Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp. - Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng. 1.2 Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1.2.1 Những thuận lợi Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543,5 tỷ USD. Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư trực tiếp (FDI) mà chưa chú trọng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán. 1.2.2 Những khó khăn Những thuận lợi đã có,nhưng những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về TTCK cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các “hàng hoá” cần thiết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức, các công ty chứng khoán và chưa có uy tín hàng đầu thế giới. Lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có TTCK nên chất lượng chưa được kiểm chứng. Từ thực trạng và những thuận lợi trên đòi hỏi chúng ta cần phải chuẩn bị mọi mặt chu đáo hơn nữa, tạo ra những điều kiện tiền đề thật hoàn chỉnh để hoạt động của TTCK Việt Nam phát triển một cách bền vững. 2. Điều kiện tất yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 2.1. Chuẩn bị điều kiện vật chất tiền đề. Trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động như một sở giao dịch chứng khoán thu nhỏ, có quy mô và hình thức thích hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của thị trường chứng khoán ở nước ta. Hệ thống giao dịch chứng khoán sẽ được tự động hoá với các trạm làm việc được kết nối bởi các máy tính cá nhân với một số máy chủ thông qua mạng giao diện cục bộ liên kết với các máy tính của các thành viên trung tâm. 2.2. Khuôn khổ pháp lý ban đầu cho thị trường chứng khoán. Bước đầu việc ra đời một tổ chức Nhà nước - Uỷ ban chứng khoán quốc gia là một việc làm cần thiết. Tổ chức này trực thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý các mặt hoạt động liên quan đến phát hành chứng khoán và kinh doanh chứng khoán trong giai đoạn đầu của tiến trình hình thành thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán quốc gia sẽ là tổ chức Nhà nước chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản pháp quy liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh yếu tố quản lý Nhà nước, vấn đề môi trường pháp lý cho sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cần được xác lập dựa trên cơ sở nền tảng pháp lý sẵn có của các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ trên thị trường chứng khoán, biểu hiện bằng những văn bản luật pháp cụ thể về phát hành chứng khoán, giao dịch chứng khoán, tác nhân tham gia và vận hành từng cơ sở giao dịch. Hệ thống các văn bản pháp quy này được hoàn thiện trên cơ sở sự đồng bộ của các bộ luật liên quan hiện có và những bộ luật cần phải có trong quá trình phát triển như luật thương mại, luật kinh doanh... 2.3. Chuẩn bị về con người: Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh doanh cho các nhà điều hành thị trường, các nhà môi giới chứng khoán và thương gia chứng khoán là việc làm hết sức cần kíp trong giai đoạn đầu. Tạo điều kiện để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong công tác điều hành thị trường cũng như việc nâng cao năng lực pháp lý và năng lực hành vi cho các chủ thể tham gia. Bảo đảm sự thành công và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong quá trình vận hành và phát triển thị trường chứng khoán. 3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán 3.1. Thực trạng về quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam. Đổi mới, sắp xếp và phát triển doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta. Một trong những giải pháp hữu hiệu để đổi mới là tiến hành cổ phần hóa. Qua 15 năm thực hiện đến cuối năm 2005, chúng ta đã thành lập được 2897 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Năm 1993 mới có 2 đơn vị Năm 1994 có thêm 1 đơn vị Năm 1995 có thêm 3 đơn vị Năm 1996 có thêm 5 đơn vị Năm 1997 có thêm 7 đơn vị Năm 1998 có thêm 100 đơn vị Năm 1999 có thêm 250 đơn vị Năm 2000 có thêm 212 đơn vị Năm 2001 có thêm 204 đơn vị Năm 2002 có thêm 164 đơn vị Năm 2003 có thêm 532 đơn vị Năm 2004 có thêm 756 đơn vị Năm 2005 có thêm 754 đơn vị Qua những con số trên đây thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước thăng trầm nhưng nói chung là theo hướng ngày càng được đẩy mạnh . Theo báo cáo của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%), tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn nhà nước tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn nhà nườc và phát hành thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá ngành công nghiệp – giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại – dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 5,8%. Nếu phân theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương 65,7%, bộ-ngành thương mại 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%. Sau 15 năm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước(CPH DNNN) có thể thấy nhận thấy các chuyển biến rõ rệt : Sự chuyển hướng từ CPH các doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực sang CPH DNNN ở hầu hết ngành, lĩnh vực trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại. Chuyển biến từ việc chỉ CPH các DNNN qui mô nhỏ về vốn và lao động, làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doang nghiệp lớn làm ăn có lãi. Trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế ( như điện lực, xi măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau CPH ngày một tiến bộ. Việc CPH không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của những người lao động trong doanh nghiệp, mà còn thu hút cả vốn của những người dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp. Chuyển từ CPH theo hướng cơ bản khép kín, nội bộ sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phiếu ra bên ngoài để thu hút vốn nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất nhất thể hiện sự thay đổi căn bản quan điểm và chủ trương về CPH, góp phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trinh cải cách hệ thống DNNN một cách công khai minh bạch và tạo điều cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia. Những chuyển biến nói trên đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp CPH trên cả các chỉ tiêu chủ yếu: Về vốn, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy: Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ(năm 2001) lên tới 63,6 tỷ (năm 2004) có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra cho rằng có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 149,8%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%, mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%, thu nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với trước khi CPH, lao động tăng do mở rộng sản xuất, cổ tức cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng. Trong những năm qua với những biện pháp và chính sách phù hợp của nhà nước quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra một cách mạnh mẽ và trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế xã hội. Việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã góp phần tạo động lực rất lớn thúc đẩy chứng khoán và thị trường chứng khoán phát triển, việc cổ phần hoá sẽ tạo ra nhiều chứng khoán cho thị trường chứng khoán. Tuy vậy, các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp của nhà nước hiện nay vẫn con bộc lộ nhiều yếu kém, chưa khuyến khích được sự tự giác của mọi người, chưa cho mọi người thấy rõ được cái lợi thực sự của quá trình cổ phần hoá đem lại và đặc biệt là chưa tạo ra sự giao thoa giữa cổ phần hoá và thị trường chứng khoán. Cổ phần hoá chưa thực sự là nhân tố, là động lực thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. 3.2 Thực trạng quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán. Trong những gần đây, được sự quan tâm của đảng và nhà nước với những chính sách hợp lý, thị trường chứng khoán phát triển rất mạnh. Năm 2006 được coi là năm sôi động nhất và có những bước phát triển thần kỳ của thị trường chứng khoán Việt Nam, số lượng các công ty niêm yết trên thị trường đã tăng vọt so với những năm trước, các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán ngày càng nhiều và việc Việt Nam phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế được coi là một động thái tích cựu thúc đấy sự phát triển của thị trường chứng khoán. Đặc biệt năm 2006 là căn bản xây dựng xong luật chứng khoán và đầu tư chứng khoán, tạo hành lang pháp lý nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán ngày càng phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và thực sự trở thành nhân tố tạo lên sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, việc quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán còn bộc lộ rất nhiều hạn chế. Nhà nước chưa thực sự kiểm soát được giá của các cổ phiếu giao dịch trên thị trường, nên việc càc nhà đầu tư bất chính dùng các thủ đoạn để truộc lợi vẫn thường xuyên diễn ra, hơn nữa nhà nước chưa có chế tài xử phạt nghiêm khắc những cá nhân, tổ chức có hành vi sai phạm. Việc xây dựng luật chứng khoán vẫn còn nhiều bất cập, hiện nay việc xác định cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán còn nhiều tranh cãi: Ngày 28/11/1999 chính phủ đã ban hành nghị định số 75/CP về việc thành lập ủy ban chứng khoán nhà nước- cơ quan trực thuộc chính phủ, thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán. Sau đó “để cải cách thủ tục hành chính”, ngày 19/2/2006 chính phủ đã ban hành nghị định 66 chuyển ủy ban chứng khoán nhà nước(UBCKNN) về bộ tài chính. Theo đó UBCKNN là tổ chức trực thuộc bộ tài chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoản trên toàn bộ lãnh thổ nước CHXHCNVN. Việc quản lý thị trường chứng khoán ngoài chính phủ và UBCKNN còn có thêm bộ tài chính đứng giữa với vai trò trung gian. Việc quản lý chồng chéo, nhiều cấp bậc này sẽ gây lên sự không thống nhất về mặt quan điểm và tạo lên nhân tố cản trở sự phát triển của thị trường chứng khoán. Vậy để việc quản lý thị trường chứng khoán ngày càng đạt hiệu quả cao, nhà nước cần xây dựng một bộ luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán hoàn chỉnh, và cần xây dựng một cơ quan quản lý độc lập trong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0638.doc