Đề tài Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn tại ngân hàng thương mại

Lời mở đầu 1

CHƯƠNG 1 3

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 3

VỚI HOẠT ĐỘNG 3

VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3

1.1. TỔNG QUAN VỀ DNVVN 3

1.1.1. Khái niệm DNVVN, tiêu chí phân loại 3

1.1.2. Đặc điểm của DNVVN 8

1.1.3. Nguồn vốn phát triển DNVVN 9

1.1.4. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế 11

1.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI 15

1.2.1. Tầm quan trọng của vốn vay ngân hàng đối với DNVVN 15

1.2.2. Hình thức cho vay của ngân hàng đối với DNVVN 18

1.2.3. Quy trình cho vay của ngân hàng đối với DNVVN 21

1.2.4. Các điều kiện vay vốn ngân hàng 23

1.3. HỖ TRỢ DNVVN TIẾP CẬN VỐN VAY NGÂN HÀNG 25

1.3.1. Sự cần thiết của việc hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 25

1.3.2. Các hình thức hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 26

1.3.2.1. Các hình thức hỗ trợ của nhà nước 26

1.3.2.2. Các hình thức hỗ trợ của ngân hàng 29

CHƯƠNG 2 32

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ DNVVN 32

TIẾP CẬN VỐN VAY NGÂN HÀNG 32

2.1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DNVVN NHỮNG NĂM QUA 32

2.1.1. Số lượng, cơ cấu ngành và sự phân bố theo vùng của khu vực DNVVN 32

2.1.2. Vốn và trình độ công nghệ thiết bị của DNVVN 34

Năm 35

Tổng 35

2.1.3. Thị trường và khả năng cạnh tranh của DNVVN 38

2.1.4. Lao động và đội ngũ quản lý của DNVVN 38

2.1.5. Vị trí của DNVVN đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội. 39

2.2. TÌNH HÌNH VAY VỐN TẠI NHTM CỦA DNVVN 43

2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HỖ TRỢ DNVVN TIẾP CẬN VỐN VAY NGÂN HÀNG 48

2.3.1. Kết quả 48

2.3.1.1. Về các hình thức hỗ trợ của nhà nước 48

2.3.1.2. Về các hình thức hỗ trợ của ngân hàng 54

 

doc89 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn tại ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và học hỏi kinh nghiệm từ bạn hàng, rất ít người được đào tạo qua các trường lớp chính quy về quản trị kinh doanh hoặc quản lý kinh tế do đó họ có một nhu cầu lớn đối với đào tạo. Một khi Nhà nước thiết lập được các khung định chế hỗ trợ hữu hiệu về tư vấn kỹ thuật, nguồn vốn tín dụng, đào tạo kỹ năng quản trị...để giúp các DNVVN phát triển vững chắc trong một môi trường kinh doanh bình đẳng, ổn định thì DNVVN sẽ là nơi sản sinh ra những nhà doanh nghiệp và nhà quản lý tài năng như lịch sử phát triển kinh tế các nước đã chứng tỏ. Các chủ DNVVN sẽ trở thành những chủ doanh nghiệp hay nhà công nghiệp lớn đảm đương những vị trí kinh tế xã hội quan trọng. Họ đã được tôi luyện theo một trình tự từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công hay bán thủ công sang hiện đại, từ thị trường trong nước đến thị trường nước ngoài do đó kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh của họ là một vốn quý cho nền kinh tế nói chung. Mặc dù theo số liệu của Bộ Kế hoạch Đầu tư thì có khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp chuyên môn và chỉ có 31,2% có trình độ từ cao đẳng trở lên. Trước tình trạng như hiện nay về đội ngũ lao động và quản lý doanh nghiệp cần có một chiến lược nguồn nhân lực cụ thể để từ đó thực thi một cách chủ động có hiệu quả trên cơ sở những mục tiêu đã đề ra. Đó là theo hướng tăng thợ giảm thầy, sử dụng có hiệu quả kinh phí đào tạo do nhà nước quốc tế tài trợ. Với đội ngũ chủ doanh nghiệp phải được đào tạo cơ bản và làm việc theo ngành nghề để tránh tình trạng như hiện nay chủ yếu trưởng thành từ thực tế thiếu kiến thức cơ bản nên làm chủ một doanh nghiệp nhỏ thì được nhưng khi có sự nâng cấp về quy mô thì bất cập đổ vỡ. Còn đối với đội ngũ lao động cần đào tạo kết hợp cả lý thuyết lẫn thực hành không nên quá thiên về lý thuyết. 2.1.5. Vị trí của DNVVN đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của các DNVVN đã có tác động tích cực tới quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế chính trị xã hội của đất nước, mở ra những cơ hội cho người dân vươn lên bằng chính khả năng của mình cũng như tạo ra một môi trường nhiều sáng kiến tự lực tự cường cho các cá nhân và tập thể trong xã hội. DNVVN có hai tác dụng tích cực chủ yếu đối với nền kinh tế, đó là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thông qua chỉ tiêu GDP và tạo việc làm cho người lao động. Với tỷ lệ hơn 90% tổng số doanh nghiệp của cả nước, DNVVN đóng góp vào GDP của cả nước khoảng 24-25% mỗi năm, vào giá trị kim ngạch xuất khẩu là 70%, chủ yếu là các hàng nông thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, da giày... và giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động thương mại dịch vụ. Có thể nói các DNVVN trong các thành phần kinh tế đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới, tăng trưởng kinh tế đảm bảo thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000 tăng bình quân GDP 7%, nông nghiệp tăng 5,6%, công nghiệp tăng 13,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 21,5%. Năm 2001 theo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước gặp rất nhiều khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn đạt 6,8%, công nghiệp tăng 14,5%, thuỷ sản tăng 15,5%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 16%, thu ngân sách tăng 7,4%. Những con số này đã chứng minh vai trò và sự đóng góp không nhỏ của DNVVN từ đó góp phần ổn định kinh tế chính trị xã hội của đất nước. Các DNVVN còn là nơi thu hút một số lượng lớn lao động trong nền kinh tế. Hiện nay các DNVVN đang sử dụng hơn 50% lực lượng lao động của cả nước và là loại hình doanh nghiệp tăng nhanh về số lượng đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Số lượng các doanh nghiệp tăng lên làm cho tỷ lệ thất nghiệp giảm đi một cách đáng kể. Bảng 2.4 dưới đây đã nói lên điều đó: Bảng 2.4: Tình hình thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở các thành phố lớn và phân bố theo vùng. (Đơn vị: %) (Nguồn: Niên giám thống kê 2000) Ta nhận thấy giai đoạn 96-99 tỷ lệ thất nghiệp ở các thành phố cũng như các vùng đều tăng lên rõ rệt trong đó thành phố Hà Nội có tỷ lệ thất nghiệp khá cao 10,31% (năm 99), vùng ĐBSH là 9,34% còn các thành phố các vùng khác tỷ lệ thất nghiệp chỉ đến con số 8,72% là cao nhất (vùng Đông Bắc) và vùng Bắc Trung Bộ là 8,62%, còn lại đều từ 4-7,26% (từ 7% trở lên cũng không đáng kể). Điều này có lẽ là do Hà nội cũng như vùng ĐBSH và vùng Đông Bắc có lượng dân cư khá đông lại có các điều kiện phát triển kinh tế rất thuận lợi như cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin... dẫn đến số lượng lao động di cư đến ngày càng nhiều và kết quả là thu nhập tăng lên. Sang năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở các thành phố, các vùng kinh tế đều giảm đáng kể. Cụ thể là Hà Nội từ 10,31% xuống 7,95%; TP.HCM từ 7,04% xuống 6,48%; ĐBSH từ 9,34% xuống 7,34%; vùng Đông Bắc từ 8,72% xuống 6,49%. Nguyên nhân chủ yếu là do năm 2000 Luật Doanh nghiệp bắt đầu có hiệu lực thông thoáng hơn tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển dẫn đến hàng loạt các doanh nghiệp tư nhân ra đời với số lượng khoảng 29.519 doanh nghiệp, đến 1/4/2001 là 32.133 doanh nghiệp (so với 20.272 DN vào năm 96). Số doanh nghiệp này đã giải quyết được một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động khoảng 4643,8 nghìn người. Một cuộc điều tra toàn bộ DNVVN gần đây cho thấy số lao động làm việc trong các doanh nghiệp của tư nhân (gồm DNTN, công ty TNHH, công ty cổ phần) đã chiếm 1/4 tổng số lao động làm việc ở toàn bộ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, gấp trên 4 lần số lao động ở các HTX, gấp trên 2 lần số lao động ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bằng 1/2 số lao động ở các DNNN. Đây là những con số vô cùng ý nghĩa góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta từ 7,4% (năm 99) xuống 6,44% (năm 2000). Rõ ràng là chỉ riêng khu vực kinh tế tư nhân đã tạo ra việc làm cho một số lượng lớn lao động mà kinh tế tư nhân thì hơn 95% là DNVVN. Thông qua quá trình phân tích ở trên ta đã thấy được bức tranh toàn cảnh về DNVVN ở Việt Nam. Bức tranh mô tả DNVVN tồn tại và phát triển như một thực thể năng động trong nền kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển DNVVN đã đẩy mạnh việc lưu thông phân phối, đáp ứng kịp thời nhu cầu mọi mặt đời sống dân cư và thúc đẩy sản xuất phát triển . Mặt khác DNVVN đã tạo ra và huy động có hiệu quả nguồn vốn to lớn trong dân vào sản xuất kinh doanh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH đồng thời nó cũng là nơi ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nơi đào tạo rèn luyện các chủ doanh nghiệp lớn trong tương lai và là cơ sở ban đầu để phát triển doanh nghiệp lớn. Những thành tựu, tiến bộ và sự đóng góp của DNVVN cho nền kinh tế được bắt nguồn từ cả hai phía: tiềm năng, sức sống và tính năng động của bản thân doanh nghiệp cùng với sự tác động tích cực của Đảng, của Nhà nước ta. Bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ ấy, DNVVN cũng còn không ít khó khăn, hạn chế, đó là tình trạng phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Tất cả những hạn chế này đều bắt nguồn từ sự khó khăn về vốn của doanh nghiệp. Không có nhiều vốn, DNVVN không mở rộng sản xuất kinh doanh được, không đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị được dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác kém đi nhiều. Chính vì vậy Nhà nước cũng như ngân hàng cần phải có những hỗ trợ cần thiết để giúp DNVVN tiếp cận được nguồn vốn tín dụng chính thức. 2.2. Tình hình vay vốn tại nhtm của DNVVN DNVVN là loại hình doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số doanh nghiệp cả nước. Nó đã được hỗ trợ bằng nhiều chính sách nhưng chính sách tài chính tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng nhất với hai công cụ chính là lãi suất và nghiệp vụ bảo lãnh. ở Việt Nam theo Nghị định 90/ NĐ-CP ngày 23/11/2001 thì DNVVN là những doanh nghiệp có số vốn không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo tiêu chí này thì DNVVN chiếm 95,6% xét về vốn và 97,8% xét về lao động, đóng góp khoảng 24-25% GDP mỗi năm. Các DNVVN với số lượng lớn, phạm vi hoạt động rộng khắp trên nhiều lĩnh vực ngành nghề đã đóng vai trò quan trọng vào quá trình tạo ra việc làm cho người lao động đặc biệt là có thể tiếp nhận và chuyển giao công nghệ nhanh để CNH-HĐH mà trọng tâm là công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên đặc điểm của DNVVN là vốn ít, trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh trong đó thiếu vốn là đáng ngại nhất. Trước tình hình đó, nhà nước và ngân hàng đã có những hình thức hỗ trợ rất thiết thực giúp DNVVN tiếp cận được với nguồn vốn chính thức; nâng tỷ trọng vốn vay trong tổng nguồn vốn của DNVVN tăng lên đáng kể đặc biệt là đối với các DNVVN ngoài quốc doanh. Các DNNN quy mô vừa và nhỏ khi vay vốn ngân hàng không cần phải có tài sản thế chấp hơn nữa còn được nhà nước cấp kinh phí hoạt động theo một tỷ lệ nhất định vì thế NHTM đã thay đổi cơ cấu cho vay theo hướng cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng nhiều hơn được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 2.5: Cơ cấu cho vay của hệ thống NHTM giai đoạn 1990-2000 (Nguồn: Tạp chí ngân hàng 2001) Như vậy trong giai đoạn 90-95 tỷ trọng cho vay DNNN giảm mạnh từ 90% xuống 55,2% còn tỷ trọng cho vay kinh tế NQD của hệ thống ngân hàng tăng nhanh từ 10% năm 91 lên 44,8% năm 95 nhưng sang giai đoạn 96-2000 tỷ trọng cho vay kinh tế NQD vẫn tăng nhưng tăng chậm lại từ 49,3% năm 97 lên 51,5% năm 2000. Sở dĩ có sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu tín dụng ngân hàng là do: Trong 10 năm qua Nhà nước ta đã tiến hành 3 đợt sắp xếp lại DNNN: 91-94, 95-97 và 98-2000, số lượng DNNN đã giảm hơn 50% từ 12.300 DNNN xuống còn 5789 DNNN hiện nay do giải thể, phá sản, sáp nhập, cổ phần hoá... Đồng thời với sự sụt giảm của các DNNN là sự phát triển mạnh của kinh tế NQD từ 20.272 doanh nghiệp năm 1996 lên đến 29.519 doanh nghiệp năm 1999. Trong khi đó các NHTM cũng là một loại hình doanh nghiệp, muốn tăng doanh thu tăng lợi nhuận thì phải mở rộng cho vay, bám sát khách hàng để cho vay. Và khi cơ cấu khách hàng thay đổi số lượng DNNN giảm nhiều thì dĩ nhiên các NHTM sẽ mở rộng cho vay kinh tế NQD. Song trong giai đoạn 96-2000 tỷ trọng cho vay kinh tế NQD tuy có tăng nhưng đã tăng chậm lại từ 49,3% chỉ lên đến 51,5%. Có lẽ là do từ năm 96 hàng loạt các DNTN, công tyTNHH, công ty cổ phần làm ăn thua lỗ phá sản, các cán bộ tín dụng sợ phải chịu trách nhiệm hình sự nên không dám mở rộng cho vay như trước nữa. Đồng thời nhiều DNNN, Tổng công ty thuộc các lĩnh vực quan trọng như dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng hải, điện lực, xây dựng, xi măng... vay vốn với các dự án lớn cho thi công làm dư nợ cho vay được phục hồi trở lại. Trong khi đó ngân hàng chỉ thích cho DNNN vay vì khi gặp rủi ro sẽ được Nhà nước hỗ trợ, hơn nữa điều kiện, thủ tục vay vốn quá chặt chẽ, cán bộ tín dụng thiếu năng lực, công nghệ chưa hiện đại đã làm giảm tỷ trọng cho vay kinh tế NQD giai đoạn này. Việc các NHTM cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) mà chủ yéu là DNVVN vay nhiều hơn trong thời gian vừa qua đã thể hiện sự hỗ trợ rất lớn của hệ thống NHTM dành cho DNVVN. Sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng lại bắt nguồn từ những hoạt động hỗ trợ của nhà nước. Nhà nước khuyến khích các ngân hàng cho vay đối với DNVVN thông qua nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ một phần lãi suất cùng với một số hình thức khác như: cung cấp thông tin, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đào tạo các cán bộ của ngành, tạo điều kiện cho ngân hàng có quyền chủ động hơn trong việc xử lý tài sản thế chấp. Nắm bắt được những cơ hội ấy, các NHTM đã bắt đầu quan tâm tới các khách hàng là các DNVVNNQD đáng kể là NHCT và NHNo (xem bảng 2.6). Bảng 2.6: Tình hình dư nợ của NHCT và NHNo qua các năm Đơn vị: Tỷ đồng Năm NH 1996 1997 1998 1999 2000 NHNo 17574 22484 27382 32210 48281 NHCT 15848,8 20131,6 24198,5 27646 34951 Trên đây là tình hình dư nợ của NHNo và NHCT tính gộp cho mọi loại hình doanh nghiệp. Cụ thể hơn với từng loại hình doanh nghiệp ta có bảng sau: Bảng 2.7: dư nợ tín dụng phân theo thành phần kinh tế của Ngân hàng công thương Đơn vị: Tỷ đồng TPKT Năm DNNN HTX Công ty cổ phần, TNHH DN tư nhân DN liên doanh DN 100% vốn nước ngoài Các DN khác Tổng số 1996 7702 120,7 3878 1228 35,2 0,921 2884 15848,8 1997 9202,3 116,4 4038 1022,5 90 23,9 5638,5 20131,6 1998 12842,5 128 4016,6 923,2 312 58,6 5917,6 24198,5 1999 18085 143,1 5392,5 702,3 392 89 2842,1 27646 2000 22450,8 170,6 6200 932 373 384,2 4440,4 34951 (Nguồn: Ngân hàng Công thương Việt Nam) Bảng 2.7 đã cho ta thấy dư nợ tín dụng của NHCT cho các thành phần kinh tế đều tăng qua các năm (trừ doanh nghiệp tư nhân) đáng kể là các DNNN, các công ty liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài. Sự sụt giảm dư nợ cho vay đối với các DNTN là do trong giai đoạn này các DNTN hoạt động không hiệu qủa, làm ăn gian lận phi pháp gây mất uy tín đối với các ngân hàng song tỷ lệ giảm không đáng kể từ 1228 tỷ đồng năm 1996 xuống 932 tỷ đồng vào năm 2000. Song song với sự tăng trưởng tín dụng qua các năm, hệ thống NHTM đang nâng dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn đối với các DNVVN. Trước đây các ngân hàng thường cho vay ngắn hạn là chủ yếu đối với loại hình doanh nghiệp này để tránh rủi ro có thể xảy ra do thời gian cho vay trung và dài hạn thường là một khoảng thời gian khá dài, rất nhiều biến động mà khó ai có thể lường trước được. Các DNVVN có thể sẽ giải thể, phá sản trong thời gian đó. Và ngân hàng là người phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất. Nhưng gần đây theo chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta khuyến khích phát triển các DNVVN và theo yêu cầu, ý kiến của doanh nghiệp trong các buổi tọa đàm, tiếp xúc giữa DNVVN với ngân hàng do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức, các ngân hàng đã sẵn sàng giúp đỡ các DNVVN thông qua việc mở rộng cho vay, nâng dần tỷ trọng cho vay vốn trung và dài hạn. Tiêu biểu là ngân hàng công thương (NHCT), ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo), riêng ngân hàng ngoại thương trong năm 2001 đã hình thành Quỹ cho vay DNVVN trị giá 500 tỷ đồng. Theo báo cáo của NHCT thì năm 2001 dư nợ tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đã chiếm 31% so với rổng dư nợ trong khi các năm trước đó con số này chỉ chiếm hơn 10% tổng dư nợ. Nhờ đó các DNVVN đã vay được vốn ngân hàng nhiều hơn nhất là nguồn vốn trung và dài hạn. Với nguồn vốn này, các DNVVN sẽ đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả nămg cạnh tranh trên thị trường với các doanh nghiệp khác tạo ra sự phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu cho doanh nghiệp. Tóm lại các DNVVN đã tiếp cận được với nguồn vốn vay từ ngân hàng dễ dàng thuận lợi hơn nhờ có sự hỗ trợ cuả nhà nước về tài chính, về môi trường pháp lý... và đặc biệt là sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua việc đa dạng hoá các hình thức cho vay, đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng, nới lỏng các điều kiện vay vốn, đơn giản hoá các thủ tục vay vốn. Từ đó tạo điều kiện cho các DNVVN phát huy được những lợi thế nhất định của quy mô vừa và nhỏ. Tuy nhiên bên cạnh đó, các DNVVN vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Đó là các ngân hàng vẫn chưa mạnh dạn cho các DNVVN vay vốn, chấp nhận tình trạng đóng băng vốn hơn là mở rộng cho vay đặc biệt là cho vay trung và dài hạn càng khó hơn. Hơn nữa ngân hàng cho vay DNVVN chủ yếu theo phương thức cho vay từng lần với lãi suất cao, thủ tục phức tạp, phiền hà làm chậm tiến độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các cán bộ tín dụng thiếu tính năng động linh hoạt trong các trường hợp cho vay, hoàn toàn tuân theo các quy định của ngân hàng, của nhà nước một cách thụ động mà không xem xét nghiên cứu trong từng trường hợp cụ thể. Khó khăn lớn nhất mà các DNVVN gặp phải là họ không có tài sản thế chấp, không có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Quy định của ngân hàng khi vay vốn bắt buộc phải có tài sản thế chấp vô tình đã đưa nguồn thu nợ dự phòng thành nguồn thu nợ quan trọng nhất. Vì vậy DNVVN không có tài sản thế chấp hoặc giá trị tài sản thế chấp quá nhỏ so với tổng lượng vốn muốn vay từ ngân hàng thì khó có thể được ngân hàng chấp nhận cho vay mặc dù có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Về phương án sản xuất kinh doanh khả thi, nhiều DNVVN không có khả năng tạo lập cũng như chứng minh tính khả thi của phương án làm lỡ mất cơ hội tiếp cận được với nguồn vốn vay. Trước tình hình các DNVVN khó tiếp cận với vốn vay ngân hàng như vậy, nhà nước cũng như ngân hàng đã có những hỗ trợ hết sức thiết thực về luật pháp, chính sách tín dụng, năng lực tài chính để các DNVVN có đủ điều kiện vay vốn ngân hàng. Sau đây là những phân tích, đánh giá về kết quả đạt được cũng như những hạn chế gặp phải trong quá trình hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng thời gian qua. 2.3. Đánh giá Thực trạng hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 2.3.1. Kết quả 2.3.1.1. Về các hình thức hỗ trợ của nhà nước Đã tạo lập được một môi trường kinh doanh ổn định, thống nhất và bình đẳng cho DNVVN Môi trường kinh doanh là yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Khái niệm môi trường kinh doanh rất rộng và có nhiều cách phân loại khác nhau. Cách phân loại phổ biến hiện nay là môi trường kinh doanh bao gồm môi trường kinh tế, môi trường thể chế pháp lý, môi trường chính trị xã hội, môi trường khoa học công nghệ, môi trường văn hoá và môi trường tự nhiên. Trong đó quan trọng nhất là môi trường kinh tế và môi trường pháp lý. Từ năm 1986 Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên phạm vi toàn quốc mà trong đó đổi mơí kinh tế được chú trọng đặc biệt. Nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra những cơ sở pháp lý, chính trị và kinh tế cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Song song với những cải cách về chính sách kinh tế là quá trình cam kết xây dựng một nhà nước pháp quyền với một nỗ lực to lớn nhằm ban hành các luật và các văn bản quy phạm pháp lý khác để thực hiện chuyển đổi kinh tế. Hiến pháp năm 1992 đã công nhận tính hợp pháp và quyền lợi của các thành phần kinh tế là được đối xử bình đẳng, được tự do kinh doanh trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các văn bản pháp luật quan trọng khác bao gồm: Luật Đất đai (1993), Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990), Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (1994) được sửa đổi bằng các Pháp lệnh năm 1997 và 2001, Luật Dân sự (1995), Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế giá trị gia tăng (1997), Luật Thương mại (1997), Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994) được sửa đổi vào năm 1998, Nghị định số 57 (7/1998), Luật Doanh nghiệp (1999) có hiệu lực thi hành vào 1/1/2000 thay thế Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Quyết định số 46/2001 ngày 4-4-2001 của Thủ tướng chính phủ về XNK theo cơ chế 5 năm chứ không phải một năm như trước đây đã tạo nên những cơ sở cần thiết về mặt pháp lý cho hoạt động của DNVVN. Để giúp các DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng, Nhà nước cũng đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa điển hình như sau: - Nghị định 165/1999 NĐ-CP về giao dịch bảo đảm - Luật các tổ chức tín dụng năm 1998 - Nghị định 17/1999 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. - Nghị định 08/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm. - Nghị định 178/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD. - Quyết định 284/2000 của thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. - Quyết định 283/2000 của NHNNVN ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng. - Thông tư 06/2000 của NHNNVN hướng dẫn thực hiện Nghị định 178/1999 của Chính phủ về bảm đảm tiền vay. Ngoài những thay đổi về chính sách kinh tế và pháp luật, Nhà nước ta đã có nhiều thay đổi về thể chế cần thiết cho việc thực hiện cơ chế thị trường từ đó đã có ảnh hưởng to lớn và tích cực đến sự phát triển của các thành phần kinh tế. Đó là sự xuất hiện của các trung tâm tư vấn, các hiệp hội nghề nghiệp, các loại hình tổ chức tín dụng, các tổ chức phi chính phủ tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp về nhiều mặt đặc biệt là DNVVN. Về cơ bản các DNVVN có xu hướng là các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH và công ty cổ phần. Các doanh nghiệp được hoạt động trong một môi trường thuận lợi hơn với khung pháp lý và thể chế được nâng cao, nền kinh tế hoạt động có hiệu quả: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 7%, không có lạm phát, tỷ lệ tiết kiệm trong nước tăng qua các năm. Nhờ đó cơ sở tài chính cho đầu tư trong nước đã được mở rộng một cách nhanh chóng. Điều cụ thể hơn và có ý nghĩa quan trọng nhất là ngày 23 tháng 11 năm 2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 90 thay thế cho công văn số 681 ngày 20 tháng 6 năm 1998 về tổ chức phát triển DNVVN. Nghị định 90 mang tính pháp lý cao hơn và đề ra những phương thức, chính sách cụ thể hơn tạo điều kiện cho DNVVN phát triển một cách hữu hiệu nhất. Cải cách hành chính Nhà nước ngày càng sâu rộng Trước tiên là việc đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh theo đúng các điều khoản tại Nghị định số 02/2000 ngày 3-2-2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Trước đây việc xin phép thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trong đó có DNVVN là rất phức tạp, tốn kém thời gian và tiền bạc. Mỗi doanh nghiệp thường kinh doanh nhiều loại ngành nghề do có mối liên quan với nhau nên phải xin nhiều loại giấy phép mà để có được một giấy phép hoạt động các doanh nghiệp phải đợi một thời gian khá lâu, đã vậy thời hạn của giấy phép quá ngắn (có loại chỉ có hiệu lực trong 3 đến 6 tháng) riêng việc xin gia hạn giấy phép cũng đã tốn rất nhiều thời gian. Thực tế đã chỉ rõ nhiều giấy phép chỉ là hình thức gây phiền hà cho doanh nghiệp đồng thời cũng tạo ra nhiều tiêu cực, không ít trường hợp không đủ điều kiện vẫn được cấp giấy phép. Vì thế Nghị định số 02/2000 là một bước đột phá trong việc đăng ký thành lập doanh nghiệp giảm mạnh các thủ tục phiền hà, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân theo pháp luật. Các doanh nghiệp đều có quyền đăng ký và tiến hành kinh doanh như nhau không cần phải xin phép bất cứ một cơ quan nhà nước nào với những ngành nghề mà pháp luật không cấm, không đòi hỏi có giấy phép kinh doanh. Việc đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh đã tạo điều kiện cho các DNVVN đáp ứng được điều kiện về pháp lý trong số 5 điều kiện vay vốn của ngân hàng. Tiếp đến là cải cách các thủ tục hành chính trong các ngành ngân hàng, hải quan và ngành thuế- những ngành có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Trong những năm qua một số cán bộ ngành ngân hàng, hải quan và cán bộ ngành thuế đã lợi dụng quyền hạn của mình gây khó khăn cho doanh nghiệp. Đó là những cán bộ không có tư cách đạo đức, mất phẩm chất, có biểu hiện tham ô, tham nhũng làm lũng đoạn thị trường. Công cuộc cải cách hành chính đã góp phần giảm bớt số lượng những cán bộ này và tạo ra một đội ngũ những cán bộ có tinh thần trách nhiệm, có tư cách đạo đức tốt góp phần phát triển kinh tế đất nước, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đã phát triển được một mạng lưới các tổ chức tư vấn trợ giúp DNVVN có hiệu quả Trong nền kinh tế thị trường, đoàn thể nhân dân và các tổ chức nghề nghiệp, tổ chức xã hội giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp. Các tổ chức này thực hiện các dịch vụ tư vấn, xúc tiến hỗ trợ DNVVN trong nhiều lĩnh vực như tư vấn về thị trường, tư vấn đầu tư, lập kế hoạch hay dự án sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin về thị trường giá cả, về văn bản pháp luật mới ban hành, mở các lớp đào tạo ngắn ngày về từng chuyên đề, tổ chức các buổi tọa đàm thảo luận….Có thể nói đây là loại hình dịch vụ cao cấp có vai trò quan trọng nhất là trong điều kiện các chủ DNVVN có trình độ quản lý không cao. Về các đoàn thể xã hội, các hội nghề nghiệp như Hiệp hội các DNVVN thành phố Hà nội (HASMEA), các Hiệp hội công thương, các Câu lạc bộ DNVVN, các Hiệp hội ngành nghề như Hội dệt may thêu đan, Hội da giày trong những năm qua đã nói lên được tâm tư nguyện vọng của DNVVN để từ đó đề xuất kiến nghị với Nhà nước. Các DNVVN trong các tổ chức này thường xuyên cùng nhau bàn bạc, giúp nhau xử lý các vấn đề liên quan đến kinh doanh như thị trường, vốn liếng, đào tạo... Đặc biệt hơn là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức các buổi toạ đàm để tháo gỡ khó khăn cho DNVVN cụ thể là tháng 11 năm 2001 đã phối hợp với Ngân hàng ngoại thương Việt Nam thảo luận về chuyên đề "Tín dụng cho DNVVN" rất thiết thực. Về các tổ chức tư vấn, trung tâm xúc tiến hỗ trợ cho DNVVN như Trung tâm hỗ trợ DNVVN của VCCI, Trung tâm hỗ trợ Khoa học công nghệ của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Hội đồng Trung ương liên minh các HTX và DNVVN Việt Nam (VICOOPSME), Trung tâm hỗ trợ phát triển các DNNQD (NEDCEN), các tổ chức của quốc tế như ZDH, ILO, UNIDO... đã có những đóng góp tích cực cho DNVVN Việt Nam. Các tổ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0111.doc
Tài liệu liên quan