Kiến thức là điều chủ chốt để giáo viên thành công trong giảng dạy. Khi có kiến thức về một chủ đề nào đó, người ta sẽ tự tin nói chuyện với người khác về chủ đề này. Điều này cũng đúng với giáo dục giới tính. Nếu có đủ kiến thức về giới tính, GV sẽ không phải làm thinh hoặc lúng túng khi học sinh hỏi những câu hỏi tế nhị. Miễn là giáo viên trang bị đầy đủ kiến thức, học sinh sẽ không dám chọc ghẹo giáo viên trong bài giảng về giới tính.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 54580 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giáo dục giới tính cho học sinh THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để đặt kế hoạch cho tương lai và chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó.
Giáo dục giới tính có sự khác biệt nào với giáo dục tình dục?
Mục tiêu của GDGT là chuẩn bị cho tuổi mới lớn về tâm lý trước phát triển sinh lý, về nhận thức để định hình nhân cách, tạo sức mạnh nội tâm đề kháng trước những bùng nổ giới tính của bản năng có thể gây hại cho bản thân, xung quanh.
Giáo dục những hiểu biết về tâm lý, sinh lý, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hocmon từ các tuyến sinh dục gây ra; giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình; hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm; giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.
Như vậy GDGT và giáo dục tình dục tiếp cận giới trẻ ở hai độ tuổi khác nhau nên nội dung khác biệt rất lớn, khiến không thể thay thế hay lồng ghép vào nhau được.
Tại sao phải giáo dục giới tính cho học sinh Trung học cơ sở?
Các nhà nghiên cứu từ nhiều năm nay đều cho rằng, học sinh ngày càng năng động, thông minh hơn do điều kiện dinh dưỡng tốt, nhiều điều kiện thiết bị bổ trợ dẫn đến nhu cầu nhận thức về mọi mặt vượt khung chương trình giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt là về lĩnh vực giới tính.
Tuổi dậy thì của các em đến sớm hơn so với trước đây. Ở nữ, tuổi dậy thì bắt đầu từ 9-14, ở nam từ 12-15, nghĩa là giai đoạn các em đang ở bậc học Trung học cơ sở. Vì vậy khi một học sinh lớp 6 đã hỏi về vấn đề tình dục, một số em nữ học lớp 5 đã có kinh nguyệt, thì mãi đến lớp 8 các em mới được giới thiệu về những vấn đề này là quá muộn.
Ở giai đoạn dậy thì, các em phải trải qua những biến đổi to lớn về cơ thể cũng như về tâm lí. Thậm chí có thể khiến các em bị khủng hoảng nếu không có sự chuẩn bị về tâm lí, sự chỉ bảo của người lớn. Khi đó các em sẽ tự tìm hiểu, tự thể nghiệm theo những thông tin trên sách báo, tivi, internet, …Tuy nhiên, các nguồn thông tin này không được kiểm soát và thường chứa nhiều điểm đen, lệch lạc. Điều này đã gây ra nhiều hậu quả đáng buồn như quan hệ tình dục quá sớm, có thai khi còn ngồi trên ghế nhà trường, phá thai, bỏ học,…
Trẻ mới lớn cần chỉ dẫn về giới tính và các mối quan hệ. Nhưng ai sẽ là người các em tìm tới khi gặp vấn đề về giới tính? Rất nhiều trẻ ngại nói chuyện với bố mẹ về tình yêu, tình dục vì sợ bố mẹ có thể không chấp nhận quan điểm của mình. Nhiều trẻ quay sang hỏi bạn bè và điều này có thể tạo nguy cơ cho trẻ vì những thông tin trẻ nhận được không phải bao giờ cũng đúng. Người duy nhất có thể cung cấp nhiều thông tin nhất cho trẻ là thầy cô giáo vì giáo viên (GV) là những người kề cận nhất với học sinh (HS) tại trường học và hiểu HS nhất trong vấn đề giới tính.
Trong khi đó vấn đề giáo dục giới tính trong các nhà trường hiện còn khá sơ sài, mang nặng tính hình thức khiến các em càng tò mò.
Thực tế này đặt ra vấn đề: Làm thế nào cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến thức, hiểu biết đúng đắn về tình bạn, tình yêu và sức khỏe sinh sản? Đáng tiếc là đến thời điểm hiện tại, những chương trình tuyên truyền, địa chỉ tư vấn về vấn đề này còn dè dặt và thiếu định hướng...
Cơ sở thực tiễn
Giáo dục giới tính trên thế giới
Ở các nước Âu Mỹ, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình giáo dục từ rất sớm và được xem như những bài học bắt buộc đối với học sinh.
Tại Pháp, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học trong trường từ năm 1973.
Tại Đức, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học từ năm 1970. Từ năm 1992 giáo dục giới tính được luật pháp quy định là trách nhiệm của chính phủ.
Hầu hết học sinh Hoa Kỳ đều nhận được một hình thức giáo dục giới tính ít nhất một lần trong khoảng từ lớp 7 đến lớp 12; nhiều trường bắt đầu đề cập tới một số chủ đề ngay từ lớp 5 hay lớp 6. Một cuộc điều tra về tình dục của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liên quan tới thói quen của thanh niên châu Âu năm 2006 cho thấy, tuy có lối sống khá thoáng nhưng tỉ lệ sinh trong độ tuổi vị thành niên và tỉ lệ nạo phá thai ở các nước này rất thấp.
Sự xuất hiện và lan rộng khủng khiếp của căn bệnh thế kỷ AIDS đã mang lại một ý nghĩa khẩn cấp mới cho chủ đề giáo dục giới tính. Tại nhiều nơi ở Châu Phi, nơi AIDS đã trở thành bệnh dịch, giáo dục giới tính được coi là một chiến lược sống còn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Khảo sát các chương trình giáo dục giới tính ở Châu Á cũng đang có những mức độ phát triển rất khác nhau. Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc có khung chính sách hệ thống về việc giảng dạy giới tính trong các trường học. Malaysia, Philippines và Thái Lan đánh giá các nhu cầu sức khoẻ sinh sản thanh niên. Ấn Độ có các chương trình với mục tiêu hướng tới trẻ em từ chín tới mười sáu tuổi. Tại Nhật Bản, giáo dục giới tính là bắt buộc từ 10 hay 11 tuổi, chủ yếu đề cập tới các chủ đề sinh học như kinh nguyệt và xuất tinh. Tại Trung Quốc và Sri Lanka, giáo dục giới tính truyền thống gồm đọc về đoạn sinh sản trong các cuốn sách giáo khoa sinh học.
Thực trạng giáo dục giới tính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề đưa chương trình giáo dục giới tính (GDGT) cho học sinh vào chính khóa đã được nhắc đi nhắc lại trong nhiều năm qua, nhưng ngành giáo dục vẫn chưa có những "động thái" cần thiết để thực hiện yêu cầu trên. Những giờ học về giới tính ở các trường học còn rất hiếm hoi. Trong gia đình, ít bậc cha mẹ nào giảng giải cho con cái mình những kiến thức về giới tính, tình dục. Chính vì thế mà giới trẻ phải tìm hiểu những điều đó từ sách báo, mạng Internet, phim ảnh và cả những kênh không chính thống…và tất nhiên bằng những hình thức đó các em sẽ tiếp cận luôn cả những vấn đề không phù hợp lứa tuổi. Điều này đã dẫn đến những hậu quả hết sức đau lòng.
Trẻ vị thành niên (từ 10-17 tuổi) ở nước ta có khoảng 23,8 triệu người, chiếm 31% dân số. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một trong ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca mỗi năm), trong đó 20% thuộc lứa tuổi vị thành niên, thậm chí có em mới... 12 tuổi. Thống kê của bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TP.HCM cho thấy, trong năm 2002 có 224 trường hợp nạo phá thai ở độ tuổi từ 11 đến 16, tăng hai, ba lần so với năm 2001. Bên cạnh đó, mỗi năm bệnh viện còn tiếp nhận hơn 10 sản phụ tuổi từ 12 đến 14. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam cho thấy, 7.6% trong độ tuổi này có quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Bên cạnh đó, tỉ lệ thanh thiếu niên phạm pháp về các tội hiếp dâm, giết người vì ghen tuông,… ngày càng tăng. Số lượng trẻ em bị xâm hại tình dục do thiếu hiểu biết về giới tính tăng đến mức báo động. Từ năm 2008 đến nay, trung bình mỗi năm có trên 1.000 trẻ em Việt Nam bị xâm hại tình dục. (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố tại Tại hội thảo quốc gia “Phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em” năm 2010).
Nguyễn Bảo Tùng- Học sinh lớp 9 Trường THCS Hương Khê - Hà Tĩnh
Thủ phạm hiếp dâm một bé gái 8 tuổi
Hậu quả của việc xem phim đồi trụy.
Hai học sinh lớp 9- THCS Tràng Định –Lạng Sơn
Thủ phạm hãm hiếp và giết người. Chỉ vì mê muội những trang web đen
Học sinh THCS đâm chết bạn vì ghen tuông
Những "yêu râu xanh" tuổi vị thành niên.
Học sinh THCS hãm hiếp tập thể trẻ 14 tuổi vì xem phim đồi trụy.
Những con số trên và tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS đang ngày càng gia tăng đã đặt ra một nhiệm vụ cấp bách đó là cần tiến hành giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học sinh ngay từ cấp THCS.
Giáo dục giới tính cho học sinh không phải là việc của riêng một cá nhân, tập thể mà là việc của toàn gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, thực tế địa phương cho thấy đa số các bậc phụ huynh có trình độ dân trí chưa cao, còn bảo thủ về vấn đề giáo dục giới tính. Vì vậy, nhà trường phải nắm vai trò chủ đạo trong việc này.
Từ những cơ sở trên, tôi khẳng định: “Trong thời đại phát triển như hiện nay, việc đưa nội dung giáo dục giới tính vào giảng dạy cho học sinh ngay từ bậc học THCS là vấn đề rất cần thiết và cấp bách”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối với đề tài này, tôi đã tiến hành nghiên cứu theo các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Đối tượng giáo dục giới tính
Học sinh THCS, từ 11- 16 tuổi.
Mục đích của chuyên đề Giáo dục giới tính cho học sinh THCS
Mục đích của chuyên đề này là cung cấp cho học sinh THCS hệ thống kiến thức cơ bản, chính xác, hữu ích về giới tính. Từ đó, giúp các em hình thành nhận thức đúng đắn về vấn đề này, có trách nhiệm trong các mối quan hệ, tránh được những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy, các em sẽ bước vào đời vững vàng hơn, tránh những con đường sai lầm ảnh hưởng đến tương lai.
Vấn đề không dừng lại ở việc giáo dục để các em hiểu sự phát triển tự nhiên của bản thân mình và người khác giới, những điều có thể xảy ra trong quan hệ tình dục hay hậu quả tai hại của việc mang thai sớm mà còn phải giáo dục để các em nhận thức sâu sắc giá trị cao đẹp của tình bạn, tình yêu, giáo dục những khía cạnh đạo đức về giới tính và hình thành những phẩm chất đặc trưng cho phái tính ở các em.
Nội dung giáo dục giới tính
Theo Thạc sĩ tâm lý Đinh Đoàn, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới tính - gia đình - phụ nữ và vị thành niên (CSAGA) lập luận: “10, 11 tuổi là thời kỳ tiền dậy thì, nên cung cấp những kiến thức như các em học sinh nữ thời gian tới sẽ phải đón nhận hiện tượng kinh nguyệt như thế nào, để khoảng lớp 6, 7 khi có kinh thì các em đã biết. Đối với học sinh nam 12, 13 tuổi thì khi phát triển hệ lông hoặc tinh trùng thì các em không phải lo lắng. Các em nên ăn mặc thế nào, ứng xử với các bạn khác giới ra sao... Còn quá trình thụ thai, trứng và tinh trùng đã kết hợp với nhau như thế nào? Phụ nữ có thai nên và không nên làm gì? nên dành cho học sinh tuổi 14, 15.”
Như vậy, căn cứ vào đặc điểm phát triển của lứa tuổi, giáo dục giới tính cần phải được tiến hành từ lớp 6 đến lớp 9 với nội dung tương ứng như sau:
Học sinh khối lớp 6, 7 (Độ tuổi 11 – 14)
Giáo dục về tuổi dậy thì, những biến đổi tâm-sinh lí tuổi dậy thì; hiện tượng kinh nguyệt, phóng tinh; cách vệ sinh thân thể và bộ phận sinh dục; những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hocmon từ các tuyến sinh dục gây ra; giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình.
Học sinh khối lớp 8, 9 (Độ tuổi 14 – 16)
Giáo dục về sự thụ tinh; phân biệt tình bạn và tình yêu, hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu; hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu quan hệ tình dục sớm, tảo hôn; giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.
Hình thức giáo dục giới tính
Không nhất thiết phải đưa “ giáo dục giới tính” thành 1 môn học chính khóa mà nên phát triển thành nội dung, chủ đề chính của một số tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp, tiết sinh hoạt ngoại khóa. Với mỗi độ tuổi dẫ đề cập ở trên, nên tổ chức 2 buổi/1 năm học với thời gian 60 – 90 phút.
Do các em thường có tâm lí e ngại nên giờ giáo dục giới tính cần được tổ chức như tiết sinh hoạt ngoại khóa để các em mạnh dạn nói lên suy nghĩ, thắc mắc của mình.
Cần xen kẽ các trò chơi, phối hợp nhiều hoạt động linh hoạt tạo cảm giác thoải mái, hứng thú cho học sinh. Nếu có điều kiện, giáo viên cần tim tòi một số hình ảnh, phim, kịch tình huống minh họa để giờ học sinh động hơn.
Việc giảng dạy về nội dung giáo dục giới tính đòi hỏi người giảng dạy phải nắm rõ thực tiễn và các kiến thức giới tính chính xác, hình ảnh hay ví dụ minh họa rõ ràng gần gũi với đối tượng cần giảng dạy vì thế việc tổ chức một tiết dạy đòi hỏi sự chuẩn bị trước. Giáo viên có thể thực hiện từng bước: một buổi truyền đạt kiến thức, thông tin về giới tính rồi sau đó cho các em tạo nhóm, tìm hiểu một số tình huống trong đời sống và tạo dựng các vở kịch trình diễn ở những tiết sau, cho các nhóm khác đặt các câu hỏi tình huống để nhóm trình diễn trả lời, kết thúc các tiết mục thì giáo viên sẽ nhận xét và tư vấn những thiếu sót cho các em rút kinh nghiệm.
Một số lưu ý đối với giáo viên dạy giáo dục giới tính
Giáo dục giới tính không chỉ là nói về tình dục
Giáo dục giới tính bao gồm nhiều vấn đề, từ khía cạnh sinh lý học và giải phẫu học, các cơ quan sinh sản và chức năng của chúng, sinh sản, vai trò của hai giới, những bệnh lây truyền qua đường tình dục, tình yêu và các mối quan hệ tình dục, cuộc sống hôn nhân, mang thai và phòng tránh thai.
Nên giáo dục giới tính từ sớm, nhưng không được vội vã
Có thể bắt đầu giảng những kiến thức cơ bản như đặc trưng giới tính, sự khác nhau giữa nam và nữ, chức năng của cơ quan sinh sản, kinh nguyệt và mang thai ở các trường tiểu học khi học sinh lên 10 tuổi hoặc khi các em đã đủ lớn để hiểu những chủ đề này. Nếu các em chưa sẵn sàng tiếp nhận, giáo viên không nên “nhồi nhét” quá nhiều thông tin liên quan đến giới tính vì điều này có thể “lợi bất cập hại”.
Có thái độ tích cực về tình dục
Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu tình dục không phải chuyện cấm kỵ mà là một phần tự nhiên của con người mà mọi người phải học. Đừng cho rằng giáo dục giới tính sẽ khiến một đứa trẻ ngây thơ lầm đường. Ngày nay trẻ có nhiều nguồn tin hơn là chúng ta nghĩ, bao gồm mạng Internet, video và sách, và nhiều thông tin trong số này là thông tin sai lệch. Giáo viên cần đảm bảo rằng những giờ học về giới tính sẽ cho học sinh kiến thức đúng đắn và an toàn hơn những nguồn này. Khi học sinh đưa ra câu hỏi về tình dục, giáo viên đừng che giấu những sự thật thông thường. Giáo viên càng che giấu, học sinh càng muốn biết thêm và muốn thử.
Trò chuyện với học sinh một cách nghiêm túc.
Giáo viên nên trò chuyện một cách tự nhiên như thể tình dục là một chủ đề thông thường. Nên dùng những thuật ngữ đơn giản và dễ hiểu với đại đa số người. Nếu giáo viên không ngần ngại khi nói về tình dục, học sinh cũng sẽ mạnh dạn khi hỏi giáo viên về chủ đề này.
Giữ bình tĩnh khi bị học sinh trêu chọc
Rất có thể một giáo viên nữ sẽ bị học sinh trêu chọc khi giảng về giới tính. Nếu rơi vào tình cảnh này, giáo viên cần giữ bình tĩnh và tiếp tục giảng bài như thể đang nói về một chủ đề thông thường. Giáo viên cũng có thể để học sinh thảo luận với nhau, còn giáo viên đóng vai trò là người cố vấn.
Thu thập nhiều kiến thức để tự tin khi giảng về giới tính
Kiến thức là điều chủ chốt để giáo viên thành công trong giảng dạy. Khi có kiến thức về một chủ đề nào đó, người ta sẽ tự tin nói chuyện với người khác về chủ đề này. Điều này cũng đúng với giáo dục giới tính. Nếu có đủ kiến thức về giới tính, GV sẽ không phải làm thinh hoặc lúng túng khi học sinh hỏi những câu hỏi tế nhị. Miễn là giáo viên trang bị đầy đủ kiến thức, học sinh sẽ không dám chọc ghẹo giáo viên trong bài giảng về giới tính.
Kinh nghiệm tình dục không phải là vấn đề lớn
Khi giảng về giới tính, một giáo viên không nhất thiết phải có kinh nghiệm thật sự trong chuyện quan hệ tình dục. Giáo viên có thể thu thập kiến thức từ các nguồn khác. Giáo viên có thể sử dụng thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng và khuyến khích học sinh nghĩ và thảo luận theo quan điểm của các em.
Tạo ra một môi trường thân thiện để thầy trò nói chuyện và thảo luận thoải mái
Cần có một không khí cởi mở và không căng thẳng để khuyến khích học sinh nói lên ý kiến của mình, bọc lộ những ý nghĩ riêng và trao đổi quan điểm với người khác.
Không chỉ giáo dục giới tính tại lớp học
Giáo dục giới tính có thể diễn ra bất cứ thời gian nào, địa điểm nào chứ không chỉ giới hạn ở phạm vi lớp học. Nếu bất cứ học sinh nào tìm giáo viên để xin tư vấn về chuyện khó nói, giáo viên cần vui lòng, cởi mở trò chuyện và cho học sinh đó lời khuyên.
NỘI DUNG THỰC HIỆN
Bước 1: Xác định đối tượng và mục tiêu giáo dục giới tính
Căn cứ vào độ tuổi, mức độ phát triển tâm lí của học sinh để xây dựng mục tiêu, chủ đề của tiết học theo Mục I.1 phần A: Nội dung giáo dục giới tính.
Bước 2: Xây dựng giáo án (hướng đề xuất)
Trong giới hạn chuyên đề này, tôi xây dựng giáo án đề xuất đối với học sinh lớp 9 (14 – 16 tuổi) về Chủ đề Giới tính – Tình bạn – Tình yêu – Tránh mang thai sớm.
CHỦ ĐỀ:
GIỚI TÍNH – TÌNH BẠN – TÌNH YÊU – CHỦ ĐỘNG TRÁNH MANG THAI SỚM
I.Mục đích:Giúp học sinh:- Biết được sự khác nhau giữa hai giới tính.
- Hiểu vai trò của tình bạn và tình yêu.
- Giữ quan hệ tốt đẹp với bạn khác giới và có quan niệm đúng về tình yêu.
- Rèn luyện các khả năng tự nhận thức, giao tiếp, bày tỏ, ứng phó tình huống khó khăn và ra quyết định đúng trong quan hệ bạn bè và tình yêu.
- Hiểu hậu quả của việc mang thai sớm ở tuổi dậy thì
- Biết vận dụng kỹ năng giao tiếp , kỹ năng kiên định và kỹ năng ra quyết định để chủ động phòng tránh mang thai sớm
II.Tài liệu và phương tiện:
1. Phương tiện- Bảng phụ- Bút bảng- Băng dính
- Câu hỏi thảo luận.
- Bộ phiếu phân biệt giới tính ( dùng cho hoạt động 1 ): XUẤT TINH, CÓ RÂU, CÓ TINH HOÀN, TẠO TINH TINH TRÙNG, CÓ KINH NGUYỆT, MANG THAI , TUYẾN VÚ PHÁT TRIỂN , SINHCON.
- Hai tình huống : Học sinh lớp 9 mang thai – Học sinh lớp 8 nghỉ học lấy chồng.
2. Tài liệu
THÔNG TIN CƠ BẢN DÀNH CHO GIÁO VIÊN
1. Khái niệm về giới tính:Giới tính xác định sự khác nhau về mặt sinh học giữa nam và nữ, sinh ra đã có và không thể thay đổi được
¬Khía cạnh sinh học:Nam giới có khả năng tạo ra tinh trùng, còn phụ nữ tạo ra trứng. Khi giao hợp xảy ra, tinh trùng có thể kết hợp với trứng để hình thành một cá thể sống mới.
2. Tình bạn
a.Tình bạn là gì?
Đối với trẻ tình cảm thường có vai trò phát triển mạnh mẽ và có vai trò quan trọng. Tuổi trẻ thường có nhiều bạn bè và họ thích dành thời gian để trò chuyện với bạn bè, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi hoặc giúp nhau tự tin hơn động viên nhau trong học tập và lao động. tình bạn có ý nghĩa quan trọng đối với mọi người, già cũng như trẻ.
Người ta có quan niệm khác nhau về tình bạn. Có người thích chơi nhóm bạn nhiều người, nhưng có người chỉ thích kết nghĩa vứi vài người thân thiết.Dù phong cách của từng người như thế nào đi nữa, nhưng ai cũng kiêu hãnh được làm thành viên của nhóm và thường xem nhóm bạn của mình là một phần “ gia đình mình”. Tuy nhiên có những lúc tinh thần của nhóm mãnh kiệt đến mức các thánh viên của nhóm có cảm giác là họ tốt hơn tất cả mọi người khác, họ có thái độ xem thường người ngoài nhóm. Điều này dẫn đến những tình cảm tiêu cực giữa các nhóm bạn khác nhau, coi thể đưa đén cãi nhau thậm chí đánh nhau.
b.Tình bạn khác giới:
Ở tuổi VTN tình bạn thường mạnh mẽ và thiên về cảm xúc. Tình bạn có thể là giữa những người cùng giới và giữa những người khác giới. Nhiều người là bạn tốt của những người khác ở cả hai giới. Tình bạn khác giới nhiều khi có những giá trị riêng rất đặc biệt, khiến những người bạn cảm thấy mình may mắn có những người bạn khác giới.
Tuy nhiên cũng có lúc tình bạn giữa hai người thường là hai người khác giới , có thể vượt qua giới hạn tình bạn để không còn “ chỉ là tình bạn”. Tình bạn đó chuyển thnàh thứ tình cảm có cảm xú mãnh liệt , hấp dẫn, trở thnàh quan hệ lãng mạn và có thể trở thnàh tình yêu. Điều này đặc biệt thường xảy ra ở VTN. Con trai con gái bỗng thấy tự ý thức về mình và thấyngại ngùng trước mặt người khác giới. Trong trường hợp đó, không biết nên ứng xử như thế nào, nói gì và thế là nhìn người bạn của mình bằng con mắt khác ngảy trước.
3. Tình yêu:
Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt, nó biểu hiện sự cao đẹp nhất của tình người ( lòng nhân ái), tình yêu làm con người trở nên thanh cao hơn, nhân ái và giàu sức sáng tạo hơn.
Con người thể hiện tình yêu của mình với người khác bằng nhiều cách. Có nhiều loại tình yêu: Yêu cha mẹ, yêu mội thành viên trong gia đình, yêu bè bạn, yêu con vật cưng…..Con người cũng có quan hệ yêu thương trong suốt cuộc đời. Một số quan hệ yêu đương đó là tình yêu suốt đời, còn có nhiều quan hệ yêu đương chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Mối tình đầu thường là giai đoạn quyết kiệt nhất trong đời người và nhiều bạn trẻ đến với mối tình đầu ở tuổi VTN. Nhiều mối tình đầu đã phát triể thành tình yêu sâu sắc và đưa đến hôn nhân hạnh phúc. Sonng do đặc điểm còn bồng bột, chưa có kinh nghiện trong cuộc sống, lại qua lý tưởng hóa tình yêu, nên không ít mối tình đầu bị tan vỡ để lại những tổn thất về tình cảm hoặc những hậu quả nặng nề , mất m,ất trong quan hệ yêu đương buônng thả của các cặp trai gái.
Do vậy, nam nữ thanh niên cần hiểu được giá trị cao đẹp của tình yêu đối với hạnh phúc cuả mỗi người, có thái độ trân trọng với tình yêu, trên cơ sở đó tự xây dưng jc ho mình những hành vi đúng đắn, nghiêm túc khi bước vào lĩnh vực này.
4. Mang thai sớm – Hậu quả và cách phòng tránh
a. Thế nào là mang thai sớm
Là trường hợp phụ nữ mang thai trước 18 tuổi.
b. Hậu quả của việc mang thai sớm
Việc mang thai sớm và sinh đẻ ở tuổi VTN sẽ gây nhiều hậu quả đối với sức khỏe.
Mang thai sớm ngoài ý muốn là điều kinh hoàng cho cô gái trẻ vì thiếu hiểu biết. Họ thường loạibỏ thai bằng biện pháp nạo thai. Nạo thai không an toàn lả rủi ro rất lớn cho phụ nữ trẻ. Nạo thai có thể đem lại những biến chứng nghiên trọng, có thể vô sinh thậm chí có thể tử vong.
Nếu sinh đẻ ở tuổi còn qua trẻ sẽ dẫn đến tình trạng đẻ non, sảy thai tự phát, thai chết lưu, đẻ khó, nhiễm độc thai nghén, trẻ sơ sinhthiếu nhiều máu , suy sinh dưỡng.
- Việc mang thai sớm và sinh đẻ ở tuổi VTN còn gây những căng thẳng về tình cảm và tài chính rất lớn:
Họ phải đương đầu với những mệt mỏi của việc nuôi dưỡng một đứa bé ngoài giá thú, không có chồng , thậm chí không có cả gia đình giúp đỡ. Sinh đẻ ngoài ý muốn giống như mộttai họa với người mẹ trẻ. Họ thường phải đối mặt với phản đối của cộng đồng và nếu còn đến trường thì họ sẽ bị buộc phải thôi học.
Việc mang thai sớm ở tuổi VTN sẽ là gánh nặng cho xã hội. Nghèo đói sẽ tăng lên , bảo hiểm xã hội và y tề kém nhiều. Thiếu lực lượnglao động. Vấn đề giới ( trọng nam khinh nữ ) ngày càng mâu thuẫn.
c. Cách phòng tránh
- Chủ động phòng tránh: không đi chơi với bạn khác giới ở những nơi vắng vẻ, vào buổi tối, không uống rượu bia, …
- Các biện pháp tránh thai: Sử dụng bao cao su, thuốc ngừa thai, phương pháp truyền thống: tính vòng kinh, ..
III.Cách tiến hành: 1. Hoạt động 1: Tìm hiểu về giới tính ( 5 phút). Cách tiến hành: Giáo viên phát một số phiếu học tập ghi đặc điểm của nam hoặc nữ. Yêu cầu học sinh dán vào cột tương ứng Bước 1: Hoạt động lớp. Học sinh suy nghĩ và thực hiện.
Bước 2: Giáo viên nhận xét. Kết luận
GIỚI TÍNH: là đặc trưng sinh học, bẩm sinh, đồng nhất, mọi nơi, không thay đổi theo thời gian. Đặc điểm sinh lý ở hai giới:
NAM
NỮ
- XUẤT TINH
- CÓ RÂU
- CÓ TINH HOÀN
- TẠO TINH TINH TRÙNG.
- CÓ KINH NGUYỆT
- MANG THAI
- TUYẾN VÚ PHÁT TRIỂN
- SINHCON.
Những đặc điểm này biểu hiện rõ nhất khi các em bước vào tuổi dậy thì.
Ở lứa tuổi này, các em có nhiều biến đổi về tâm, sinh lý, có những tình cảm và cảm xúc mới: ngoài quan hệ chủ yếu là tình bạn còn có những rung động đầu đời đối với bạn khác giới.
Chuyển sang hoạt động 2.2. Hoạt động 2: Tìm hiểu về Tình bạn – Tình yêu (20 phút)
Cách tiến hành:Hoạt động nhóm.
Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm các câu hỏi sau:
- Nhóm 1: Tại sao các em cần có bạn ?
- Nhóm 2: Tình bạn khác giới là gì? Em có suy nghĩ gì về tình bạn khác giới?
- Nhóm 3: Trong quan hệ với bạn khác giới cần tránh những điều gì? Tình bạn khác giới khác với tình yêu như thế nào?
- Nhóm 4: Ở tuổi các em đã nên yêu chưa ? Vì sao?
Các nhóm ghi lại ý kiến của nhóm lên bảng phụ.
Bước 2: Hoạt động lớp.
Các nhóm treo bảng phụ kết quả thảo luận của nhóm mình trên bảng.
Bước 3: Hoạt động giáo viên.
Giáo viên nhận xét kết quả thảo luận nhóm, tranh luận chung của lớp và nhấn mạnh.
- Câu 1:Tình bạn là một loại tình cảm gắn bó giữa hai hoặc một nhóm người vì hợp nhau về tính tình, giống nhau về sở thích có chung một quan điểm sống lý tưởng, ước mơ …….
- Tình bạn có vai trò lớn trong đời sống của mỗi người đặc biệt là với thanh thiếu niên.
+ Trong quan hệ bạn bè mỗi người có thể tự đánh giá, tự tìm hiểu bản thân mình qua tương tác với những người bạn đồng thời dựa vào sự góp ý của bạn bè
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen de GDGT.doc