- Hiệu ứng nhà kính làm chứng hắt hơi sổ mũi và ngứa mắt vốn hành hạ bạn vào mùa xuân xuất hiện thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Trong suốt vài thập kỷ qua, số người mắc các bệnh dị ứng theo mùa và hen suyễn ngày càng tăng lên. Mặc dù những thay đổi trong lối sống và tình trạng ô nhiễm khiến con người trở nên dễ tổn thương hơn trước những tác nhân gây dị ứng trong không khí, song một số nghiên cứu đã khẳng định một nguyên nhân khác nữa, lượng CO2 trong khí quyển và nhiệt độ cao là nhân tố quan trọng khiến thực vật nở hoa sớm và tạo ra nhiều phấn hơn. Phấn hoa là một trong những tác nhân gây dị ứng hàng đầu.
- Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kỳ dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm.
- Nhiệt độ tăng lên làm tăng các quá trình chuyển hóa sinh học cũng như hóa học trong cơ thể sống, gây nên sự mất cân bằng.
22 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2767 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu ứng nhà kính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng
Qua nghiên cứu, các nhà khoa học giải thích : Hiệu ứng nhà kính là hiệu ứng làm cho không khí của Trái Đất nóng lên do bức xạ sóng ngắn của Mặt Trời có thể xuyên qua tầng khí quyển chiếu xuống mặt đất, mặt đất hấp thụ nóng lên lại bức xạ sóng dài vào khí quyển để CO2 hấp thu làm cho không khí nóng lên. CO2 trong khí quyển giống như một tầng kính dày bao phủ Trái Đất, làm cho Trái Đất không khác gì một nhà kính lớn.
Theo tính toán, nếu không có lớp khí quyển,nhiệt độ trung bình ở lớp bề mặt Trái Đất sẽ xuống tới -180C, nhưng nhiệt độ trung bình thực tế là 150C, có nghĩa là hiệu ứng nhà kính đã làm cho Trái Đất nóng lên 330C
Người ta phân biệt Hiệu ứng nhà kính thành 2 khái niệm cụ thể:
Hiệu ứng nhà kính khí quyển:
Các tia bức xạ sóng ngắn của Mặt Trời xuyên qua bầu khí quyển đến mặt đất và được phản xạ trở lại thành các bức xạ nhiệt sóng dài.Một số phân tử trong bầu khí quyển , trước hết là CO2 và hơi nước có thể hấp thụ những bức xạ nhiệt này và thông qua đó giữ hơi ấm lại trong bầu khí quyển .Hàm lượng ngày nay của khí CO2 vào khoảng 0,036% đã đủ để tăng nhiệt độ thêm khoảng 30OC.Nếu không có hiệu ứng nhà kính tự nhiên này , nhiệt độ của chúng ta chỉ vào khoảng -180C.
Ở thời kỳ đầu tiên của lịch sử Trái Đất , các điều kiện tạo ra cuộc sống chỉ có thể xuất hiện vì thành phần của CO2 trong bầu khí quyển nguyên thủy cao hơn, cân bằng lại lượng bức xạ của Mặt trời lúc đó yếu hơn đến khoảng 25%
Cường độ của các tia bức xạ tăng lên với thời gian .Trong khi đó đã có đủ cây cỏ trên Trái Đất , thông qua sự quang hợp,lấy đi một phần khí CO2 trong không khí tạo nên các điều kiện khí hậu tương đối ổn định.
Hiệu ứng nhà kính nhân loại:
Từ khoảng 100 năm nay , con người tác động mạnh vào sự cân bằng nhạy cảm này giữa hiệu ứng nhà kính tự nhiên và tia bức xạ của Mặt trời .Sự thay đổi nồng độ của các khí nhà kính trong vòng 100 năm lại đây ( CO2 tăng 20%,CH4 tăng 90% ) đã làm tăng nhiệt độ lên 20C
II. NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH:
Nhiệt độ bề mặt Trái Đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng Mặt trời đến ,bề mặt Trái Đất và năng lượng bức xạ của Trái Đất vào khoảng không gian giữa các hành tinh .Năng lượng Mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ khí quyển.Trong khi đó , bức xạ của Trái Đất với nhiệt độ bề mặt trung bình 160C là sóng dài có năng lượng thấp, khó xuyên qua lớp khí quyển và bị hấp thu lại bởi một số thành phần có trong khí quyển như CO2 và hơi nước.Lượng nhiệt này bị giữ lại và làm nhiệt độ bên trong ( nhà kính ) tăng lên.Các thành phần có trong khí quyển có ảnh hưởng tới sự phản xạ nhiệt từ Trái Đất vào vũ trụ và làm nóng lớp không khí ở gần bề mặt Trái Đất được gọi là các khí nhà kính..Đó là các thành phần dạng khí trong khí quyển có khả năng hấp thụ tia sóng dài và sau đó lại nhả hấp thụ. Các khí nhà kính gây nên hiệu ứng nhà kính gồm khí nhà kính tự nhiên và khí nhà kính nhân tạo.
Các khí nhà kính tự nhiên quan trọng nhất là CO2 và hơi nước
Ngoài ra còn có những khí nhà kính nhân tạo khác như CH4, N2O, 03, CO, CFCS (đặc biệt là CFC-11 và CFC-12).
Trong đó sự đóng góp chủ yếu đối với hiệu ứng nhà kính là CO2 và hơi nước
Một số khí nhà kính chủ yếu:
a) CO2
Khoảng 80% năng lượng nhân tạo được sản xuất do quá trình đốt các nhiên liệu chứa Carbon. Chất thải sinh ra là khí CO2 ,một chất khí có trong thành phần khí quyển với hàm lượng thấp ( 0,035% V ). Khi nhu cầu sử dụng năng lượng nhân tạo tăng thì lượng CO2 thải ra càng nhiều ,dần dần tích lũy trong khí quyển.
Thêm vào đó diện tích rừng giảm mạnh, dẫn đến lượng CO2 trong khí quyển tăng nhanh. Dần dần hình thành một lớp CO2 tương đối dày bao bọc xung quanh khí quyển Trái Đất ở tầng đối lưu. Tia phản xạ nhiệt từ Trái Đất sẽ bị CO2 và hơi nước hấp thụ và tỏa nhiệt,lượng nhiệt này bị giữ lại phía gần bề mặt Trái Đất và làm nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng lên. CO2 đóng góp trong hiệu ứng nhà kính tới 50% so với các khí khác. Các nguồn tăng CO2 chủ yếu là do việc đốt các nhiên liệu hóa thạch và nạn phá rừng trên toàn cầu do hoạt động nhân tạo.
Hơi nước
Đóng góp tới 62% trong tổng nhiệt độ tăng lên của Trái Đất. Nguồn tăng hơi nước chủ yếu do sự ấm lên toàn cầu làm biến đổi sự bốc hơi nước ổn định vốn có trên Trái Đất.
c) CFCS
Quan trọng nhất là khí CFC-11( CCl3F) và CFC-12(CCl2F2) là khí có nồng độ lớn nhất trong khí quyển, đóng góp vào hiệu ứng nhà kính rất lớn, CFC-11 là 0,28ppm , CFC-12 là 0,484ppm. Hằng năm các khí CFC tăng 4% ( năm 1992). Các khí này đều trơ về mặt hóa học, không độc , không cháy, không mùi, là tác nhân làm lạnh cho tủ lạnh. Do trơ về mặt hóa học nên nó có thời gian lưu rất dài ( hàng chục thậm chí hàng trăm năm).
d) CH4
Là khí không màu ,ít hoạt động hóa học nên có thời gian lưu trong tầng đối lưu lớn ( khoảng 20 năm ) nên phân bố khắp trong vùng này. Hằng năm tăng khoảng 2% có nồng độ trung bình 0,3 ppm.
e) NF3
Một loại khí được phát hiện là có khả năng gây hiệu ứng nhà kính nghiêm trọng vừa công bố là NF3 ( Nitrogen trifluoride ) là một loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính có khả năng làm khí quyển Trái Đất nóng gấp hàng nghìn lần so với khí CO2 tồn tại trong khí quyển, thực tế nhiều gấp 4 lần so với những dự đoán trước đây. Theo các nhà nghiên cứu thuộc viện hải dương học Scripps,Mỹ , sau khi áp dụng hệ thống phân tích mới, lượng khí NF3 trong khí quyển được phát hiện năm 2006 đã lên đến 4200 tấn, nhiều hơn so với ước tính 1200 tấn trước đây. Nghiên cứu cũng dự đoán lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính này trong khí quyển năm 2008 sẽ là 5400 tấn, tăng trung bình 11% mỗi năm.
NF3 là loại khí không màu, không mùi, không bị đốt cháy và có khả năng làm bầu khí quyển Trái Đất nóng hơn 17000 lần so với cùng một số lượng khí CO2. NF3 không chỉ có khả năng hấp thụ khí nóng từ môi trường lâu hơn CO2 mà còn tồn tại trong khí quyển lâu hơn gấp 5 lần.
Trước đây sự phát thải khí NF3 thường được sử dụng trong quá trình sản xuất tivi màn hình phẳng tinh thể lỏng và các vi mạch điện tử , là quá nhỏ để được coi là một yếu tố gây ra hiện tượng Trái Đất nóng lên. Tuy nhiên các nhà khoa học khẳng định hiện nay khí NF3 cũng cần được kiểm soát giống như CO2 do nhu cầu sử dụng loại khí này đang ngày một tăng lên.
III. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH:
Hiệu ứng nhà kính làm tăng nhiệt độ hành tinh và làm giảm sự chênh lệch về nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm. Nếu không có hiện tượng hấp thụ năng lượng của các khí nhà kính có trong thành phần khí quyển thì Trái Đất sẽ có nhiệt độ trung bình cỡ -18OC. Chính năng lượng của các bức xạ bị khí nhà kính hấp thụ có tác dụng làm nóng Trái Đất và làm cho nhiệt độ trung bình của Trái Đất vào khoảng 15OC, đủ ấm cho các loài sinh vật có thể sinh sống và cư trú trên đó.
Hiệu ứng nhà kính là một hiện tượng tự nhiên và nếu không có sự tác động ngoại lai thì sẽ luôn tồn tại ở trạng thái cân bằng và rất cần cho sự sinh tồn của các loài trên Trái Đất. Đối với Trái Đất , hiệu ứng nhà kính của khí quyển rất có ý nghĩa vì nó duy trì nhiệt độ thích hợp cho sự sống và cân bằng sinh thái, bảo đảm hoạt động cho các vòng tuần hoàn trong tự nhiên.
Tuy nhiên , trong hơn một thế kỷ qua , các hoạt động nhân tạo đã thải ra một lượng rất lớn các khí ô nhiễm, làm thay đổi thành phần khí quyển, tăng hàm lượng các khí nhà kính, dẫn tới sự gia tăng quá mức hiệu kính nhà kính tự nhiên vốn đã được duy trì cân bằng trong suốt hàng triệu năm. Cân bằng nhiệt giữa năng lượng Mặt trời đến Trái Đất không thay đổi và năng lượng phản xạ từ Trái Đất bị chuyển dịch dẫn tới sự tăng nhiệt độ Trái Đất trên quy mô toàn cầu, kéo theo hàng loạt những biến đổi khác.
Các ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính rất phức tạp và tác động tương hỗ lẫn nhau gây thay đổi đối với môi trường sinh thái tự nhiên và xã hội. Nhiều nghiên cứu cho rằng, những thay đổi ngày nay là kết quả của sự tăng hàm lượng khí nhà kính từ 30 năm trước, cho nên hậu quả của sự tăng khí nhà kính hiện tại có thể sẽ tới trong tương lai. Có thể thấy một số ảnh hưởng rõ nét như sau:
Nhiệt độ toàn cầu tăng :
Hiện tượng toàn cầu ấm lên, nhiệt độ trung bình đến năm 2050 sẽ cao nhất trong vòng 150000 năm gần đây, là hậu quả trực tiếp của sự tăng hiệu ứng nhà kính do hoạt động nhân tạo, làm mất cân bằng nhiệt của Trái Đất và vũ trụ. Những dự báo cho thấy , nếu hàm lượng các khí nhà kính cứ tiếp tục tăng với tốc độ như hiện nay thì trong vòng 100 năm tới, nhiệt độ khí quyển sẽ tăng từ 2OC đến 5OC. Sự tăng nhiệt độ này ảnh hưởng tới đời sống kinh tế xã hội và hệ sinh thái toàn cầu.
Sự tăng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ làm mức nước biển dâng cao không chỉ do sự tăng thể tích nước do nhiệt mà còn làm tan lớp băng ở hai cực. Nạn lũ lụt, úng đe dọa, nhiều vùng đất thấp ven biển ,đảo nhỏ và một số quốc gia sẽ chìm dưới mặt biển, nhiều đất đai màu mỡ sẽ bị ngập nước, đất và nước sẽ bị mặn hóa
Sự tăng nhiệt độ sẽ dẫn tới những thay đổi trong tuần hoàn gió, tăng tốc độ bốc hơi nước , ảnh hưởng tới lượng mưa toàn cầu. Tuy nhiên tần suất và mức độ của sự thay đổi sẽ rất khác nhau giữa các khu vực, dẫn tới các tác động lên hệ thực vật và làm khô đất , giảm chất lượng đất do sự bốc hơi nước tăng, lượng Carbon được giải phóng vào khí quyển càng nhiều, ảnh hưởng tới năng suất cây trồng. Sự tăng nhiệt độ khí quyển, tăng lượng nước bốc hơi và thay đổi lượng mưa sẽ dẫn tới sự dịch chuyển các vùng cực của thảm thực vật trên thế giới, làm dịch chuyển các vùng canh tác nông nghiệp.
Thực tế mức tăng nhiệt độ là 1OC sẽ có thể gây ra sự dịch chuyển khoảng 200 km. Khi hệ sinh thái không có khả năng thích nghi với sự tăng nhiệt độ cỡ 0,3OC/ 10 năm thì sẽ có nguy cơ bị suy thoái và mất dần
Nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng làm tăng quá trình chuyển hóa sinh học, gây nên sự mất cân bằng về lượng và chất trong cơ thể sống, tăng thêm bệnh tật cho con người. Đồng thời cũng làm tăng tốc độ của nhiều phản ứng hóa học, làm thay đổi cân bằng tự nhiên, giảm tuổi thọ công trình xây dựng.
Nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng làm giảm khả năng hòa tan CO2 trong nước biển. Lượng CO2 trong khí quyển tăng làm mất cân bằng CO2 giữa khí quyển và đại dương, tăng hiệu ứng nhà kính.
Đưa Trái Đất về kỷ Jura :
Nếu cứ để nhiệt độ ấm dần lên do hiệu ứng nhà kính, Trái Đất có thể quay trở lại kỷ Jura cách đây 150 triệu năm. Điều đó có nghĩa là: mọi loài sinh vật bị tiêu diệt
Mới đây , tại một hội thảo khoa học quốc tế tổ chức tại Nam Kinh, Trung Quốc, hơn 80 nhà khoa học trên thế giới cảnh báo, Trái Đất có thể quay trở lại thời kỳ kỷ Jura cách đây 150 triệu năm.
Các đại dương đang ấm lên sẽ làm mực nước biển dâng cao
. Đây là thời kỳ mà nhiệt độ Trái Đất cùng mực nước biển đều tăng cao và hủy diệt mọi loài sinh vật.Các phát hiện khảo cổ cho thấy, phân tầng địa tầng của kỷ Jura rất rõ ràng, bên trên là địa tầng màu đỏ, bên dưới cũng là địa tầng màu đỏ, còn ở giữa là các mỏ than với trữ lượng lớn, điều đó cho biết hiệu ứng nhà kính đã phát sinh ở thời kỳ kỷ Jura. Nhiệt độ lúc bấy giờ chắc chắn đã tăng rất cao nên đất bùn đều chuyển thành màu đỏ , mà ở địa tầng màu đỏ đó không hề phát hiện thấy dấu vết của hoá thạch sinh vật, chứng tỏ rằng mọi sinh vật đều đã bị diệt sạch.
Những bằng chứng gần đây hơn cho thấy, nồng độ CO2 trong khí quyển của 400 nghìn năm trước khoảng 180-280 ppm ( số lượng phân tử CO2 / 1 triệu phân tử không khí ) nhưng từ sau khi cách mạng công nghiệp ra đời, nồng độ này không ngừng tăng lên, đến năm 2004 con số này đã lên tới 379ppm. Đây là điều kiện phát sinh hiệu ứng nhà kính nghiêm trọng ở kỷ Jura. Các nhà khoa học dự đoán, nếu cứ để nồng độ CO2 tiếp tục tăng lên thì sau 100 năm nữa hoặc trong thời gian ngắn hơn, rất có thể hiệu ứng nhà kính có mức độ giống như thời kỳ kỷ Jura sẽ tái xuất hiện. Lúc đó băng ở hai cực của Trái Đất sẽ tan ra, đất liền sẽ bị thu hẹp, nhiệt độ tăng cao và một lượng lớn sinh vật sẽ bị hủy diệt.
Sao Kim chính là bài học về hiệu ứng nhà kính cho Trái Đất . Nhiệt độ bề mặt của sao Kim lên tới gần 5000OC và không cho phép sự tồn tại của bất kỳ loài sinh vật nào. Không chỉ khô và nóng, trên 90% thành phần khí quyển của sao Kim là CO2 ,áp suất khí quyển cũng cao gấp 90 lần so với Trái Đất .Ngoài ra sao Kim còn bị che phủ bởi một lớp mây axit sulfuric dày.Nguyên nhân gây nóng ở sao Kim chính là do hiệu ứng nhà kính. Với sao Kim, một số nhà khoa học dự đoán, ở đây đã từng có môi trường ấm áp, nhưng sự xuất hiện hiệu ứng nhà kính không thể kiểm soát đã làm cho toàn bộ nước trên bề mặt sao Kim bị bay hơi ( nước bay hơi cũng làm tăng hiệu ứng nhà kính) nên cuối cùng sao Kim bị biến thành “ lò nướng “ như ngày nay.
Mặc dù hiệu ứng nhà kính đã trở thành một trong những mối lo đối với nhiệt độ Trái Đất nhưng nếu hoàn toàn không có hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ Trái Đất sẽ luôn ở dưới mức 0OC và sẽ không có sự sống.
Đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ của Trái Đất có thể sẽ tăng lên từ 1,4- 5,8OC do hiệu ứng nhà kính, cũng có nghĩa là sẽ có thêm những mối đe dọa từ thiên tai. Con người sẽ phải đối mặt với những hiểm họa do chính mình gây nên nếu không được khống chế kịp thời.
Làm biến dạng công trình:
Tình trạng Trái Đất nóng lên không chỉ khiến lớp băng ở địa cực bị tan chảy, mà ngay cả lớp băng vĩnh cửu bên dưới bề mặt Trái Đất cũng bị ảnh hưởng, khiến hiện tượng co rút của lớp vỏ Trái Đất xảy ra thường xuyên hơn, tạo ra nhiều vết nứt, làm biến dạng nhiều công trình cơ sở hạ tầng như đường sắt, đường cao tốc và nhà cửa, đồng thời gây lở đá và sạt đất ở trên đồi,núi.
Một đoạn đường ray bị biến dạng do lớp băng vĩnh cửu của Trái Đất tan chảy
Sự biến mất của các hồ:
125 hồ ở Bắc cực đã biến mất trong vài thập kỷ qua. Điều này càng khiến người ta tin rằng hiệu ứng nhà kính đã tác động tới 2 địa cực của Trái Đất. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các hồ biến mất vì tầng băng vĩnh cửu bên dưới chúng đã tan chảy. Khi lớp băng dưới hồ- vốn đã tồn tại từ hàng triệu năm- tan chảy, nước sẽ thấm qua đất khiến hồ cạn đi. Khi các hồ biến mất, các hệ sinh thái phụ thuộc vào chúng cũng biến mất theo.
Ảnh hưởng sức khỏe con người :
Hiệu ứng nhà kính làm chứng hắt hơi sổ mũi và ngứa mắt vốn hành hạ bạn vào mùa xuân xuất hiện thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Trong suốt vài thập kỷ qua, số người mắc các bệnh dị ứng theo mùa và hen suyễn ngày càng tăng lên. Mặc dù những thay đổi trong lối sống và tình trạng ô nhiễm khiến con người trở nên dễ tổn thương hơn trước những tác nhân gây dị ứng trong không khí, song một số nghiên cứu đã khẳng định một nguyên nhân khác nữa, lượng CO2 trong khí quyển và nhiệt độ cao là nhân tố quan trọng khiến thực vật nở hoa sớm và tạo ra nhiều phấn hơn. Phấn hoa là một trong những tác nhân gây dị ứng hàng đầu.
Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kỳ dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm.
Nhiệt độ tăng lên làm tăng các quá trình chuyển hóa sinh học cũng như hóa học trong cơ thể sống, gây nên sự mất cân bằng.
Ảnh hưởng tới hệ sinh thái :
Các hệ sinh thái phải gánh chịu nhiều sức ép như thay đổi thành phần đất, chất ô nhiễm ngày càng nhiều, thay đổi khí hậu tự nhiên,… Biến đổi khí hậu là một sức ép làm thay đổi hoặc gây nguy hại cho các hệ sinh thái. Nhiều loài cây bị đe dọa do biến đổi khí hậu. Nếu không có các biện pháp thích ứng, nhiều loài cây sẽ có nguy cơ biến mất trong thế kỷ 21.
Sự biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến sự di chuyển cá về đầu 2 cực Nam và Bắc, sự suy giảm nơi cư trú của các loài cá sống ở nước lạnh và mở rộng nơi cư trú của các loài cá sống ở vùng nước ấm.
Sa mạc ngày càng mở rộng, rừng càng lùi thêm về vùng cực, hạn hán rất nặng, lượng mưa tăng thêm 7-11%. Mùa đông càng ẩm, mùa hè càng khô, vùng nhiệt đới càng ẩm ướt, vùng khô á nhiệt đới càng hạn, khiến cho các công trình thủy lợi phải điều chỉnh lại.
Giảm số lượng hồ, vùng đầm lầy, các dòng sông băng, tăng sự xâm lấn của các động thực vật ngoại lai.
Phá hủy kỳ quan thế giới :
Những tác động trực tiếp của hiệu ứng nhà kính có thể phá hủy các công trình cổ kính nhân tạo cũng như các kỳ quan thiên tạo- những công trình luôn được coi là biểu tượng của sự trường tồn- với tốc độ nhanh khủng khiếp. Sự dâng cao của mực nước biển và sự khắc nghiệt của thời tiết có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đối với những di tích thắng cảnh độc nhất vô nhị, chẳng hạn như Sukhothai, một thành phố 600 năm tuổi và từng là kinh đô của vương quốc Thái Lan đã bị phá hỏng bởi những trận lũ
Cháy rừng thường xuyên hơn:
Hiệu ứng nhà kính cũng làm tăng số vụ cháy rừng ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Các nhà khoa học cho rằng sự tăng lên của nhiệt độ và tình trạng tan sớm của tuyết là nguyên nhân chính khiến lửa dễ xuất hiện và lan ra các khu rừng. Mùa xuân đến sớm khiến tuyết tan sớm làm cho tình trạng khô hanh ở các khu rừng ngày càng trầm trọng, khiến chúng dễ bắt lửa hơn
Thay đổi nhịp sinh học của các loài:
Hiệu ứng nhà kính khiến mùa xuân bắt đầu sớm hơn nên chim có thể sẽ không có sâu mà bắt. Do thực vật nở hoa sớm hơn, những động vật ăn cây cỏ dưới tác động của nhịp sinh học sẽ không thể kịp sinh con vào thời gian mà lượng thức ăn dồi dào. Chỉ những loài điều chỉnh được nhịp sinh học để bắt nhịp với chu kỳ sinh sản của cây cối mới có cơ hội duy trì nòi giống và truyền thông tin di truyền cho thế hệ sau.
Đẩy nhiều động vật lên cao:
Trong một nghiên cứu hiếm hoi về tác động của hiệu ứng nhà kính đối với các khu vực nhiệt đới, nhà sinh thái học Robert Colwell của đại học Connecticut ( Mỹ) và các cộng sự tới một ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động ở Costa Rica để thu thập dữ liệu về 2000 loài thực vật và côn trùng ở khu rừng trên sườn núi. Họ nhận thấy một nửa số loài sống ở độ cao từ 600 m trở lên đã di chuyển lên những nơi mà chúng chưa hề xuất hiện. Ngoài hoạt động của con người, sự tồn tại của những rừng nhiệt đới thấp cũng bị đe dọa bởi một yếu tố nữa: sự thiếu vắng những loài sinh vật thay thế. Những động vật và thực vật không thể bò lên cao cũng đối mặt với hiểm họa, trừ khi chúng có thể chịu đựng được nhiệt độ cao hơn. Mặc dù sự thay đổi độ cao của các loài không phá vỡ tính đa dạng sinh học của một khu vực nhưng việc các loài thay đổi độ cao trong gần một thế kỷ có thể gây nên những hậu quả tai hại trong tương lai.
IV) NHỮNG BIỆN PHÁP HẠN CHẾ SỰ GIA TĂNG HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH:
Khi chúng ta phát triển sản xuất công nghiệp, trước hết cần phải tích cực xử lý ô nhiễm không khí, nghiên cứu công nghệ chuyển hóa CO2 thành chất khác, ngăn chặn các khí CH4, halozen, clo, flo,…không cho thải vào không khí ; chú trọng đến việc hạn chế khí NF3 từ việc sản xuất tivi màn hình tinh thể lỏng và các vi mạch điện tử.
Bảo vệ tốt cây rừng, tích cực trồng cây gây rừng, làm cho CO2 chuyển hóa thành chất dinh dưỡng thông qua tác dụng quang hợp của cây xanh.
Giảm lượng tiêu hóa năng lượng dầu mỏ và than, cố gắng áp dụng năng lượng hạt nhân, năng lượng Mặt trời, năng lượng nước và gió, sử dụng chất hạn chế gây ô nhiễm môi trường như than hoạt tính để giảm bớt lượng CO2 vào không khí.
Đặc biệt là những phát hiện của các nhà khoa học giúp giảm sự gia tăng quá mức của hiệu ứng nhà kính một cách hiệu quả. Cụ thể :
Vật liệu mới giúp giảm hiệu ứng nhà kính:
Một nhóm các nhà khoa học của trường đại học Texas ( Mỹ ) đã chế tạo thành công một loại vật liệu nhựa mới giống da thật mang tên TR có khả năng phân tích CO2 từ khí tự nhiên và giúp giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Vật liệu nhựa TR cho phép CO2 và những phân tử nhỏ khác đi qua những cái lỗ nhỏ giống như đồng hồ cát nhưng giữ phân tử chính của khí tự nhiên là CH4 ở lại. Nhựa TR có khả năng chịu được nhiệt độ lên đến 316OC và thực sự đã hoạt động tốt hơn ở nhiệt độ cao. Với khả năng chịu nhiệt như vậy, vật liệu mới này sẽ là chọn lựa lý tưởng đối với các nhà máy điện- nơi đòi hỏi phải có nhiệt độ cao để phân tách khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ khí tự nhiên. Theo nhóm nghiên cứu, vật liệu nhựa mới phát minh của họ có thể lọc nhanh hơn vật liệu lọc truyền thống gấp 100 lần và hiệu quả hơn gấp 4 lần. Nhờ vậy các nhà máy xử lý khí sẽ tiết kiệm được 500 lần không gian để lắp đặt thiết bị lọc.
CO2 là thủ phạm gây ra tình trạng Trái Đất ấm lên. Vì thế nếu vật liệu nhựa mới được đưa vào sử dụng thì nó sẽ giúp giảm đáng kể lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Một loài sinh vật biển có thể hạn chế khí gây hiệu ứng nhà kính:
Sinh vật có tên khoa học Salpa aspera đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Sau 4 chuyến thám hiểm đến Bắc Đại Tây Dương kể từ năm 1975 , các nhà sinh vật học của Viện hải dương Woods Hole và đại học Connecticut ( Mỹ) phát hiện sinh vật trông giống con sứa này mỗi ngày có thể chuyên chở hàng tấn khí CO2 từ bề mặt đại dương xuống lòng biển sâu và ngăn không để loại khí có hại này quay trở lại bầu khí quyển
Các đại dương trên Trái Đất là nơi hấp thụ khí CO2 thừa từ khí quyển cộng với một số khí CO2 thải ra từ quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch. Trên mặt biển ngập tràn ánh nắng, phiêu sinh vật ( 1 dạng thực vật bé xíu) sử dụng khí CO2 để phát triển. Các loài sinh vật biển sau đó ăn phiêu sinh vật và luôn cả Carbon.
Nhưng hầu hết khí Carbon phát tán trở lại đại dương khi động vật thải phân hoặc chết đi. Chất khí này có thể được vi khuẩn và thực vật tái sử dụng hoặc có thể quay trở lại khí quyển dưới dạng khí CO2 giữ nhiệt khi được động vật sử dụng và hô hấp. Salpa aspera sống thành từng đàn hàng tỉ con dưới đáy biển với mỗi đàn chiếm diện tích rộng khoảng 100000 km2 . Các nhà khoa học ước tính hàng ngày mỗi đàn Salpa aspera tiêu thụ 74% lượng phiêu sinh vật chứa Carbon trên mặt biển và phân của chúng chìm xuống biển sâu mang theo 4000 tấn Carbon. Trước đó người ta phát hiện phân Salpa aspera mỗi ngày chìm sâu xuống độ sâu 1000m. Khi chết xác của chúng mang theo Carbon chìm sâu xuống 475m. Ban ngày chúng bơi những quãng đường xa và dừng chân ở độ sâu 600-800m để tránh động vật ăn thịt hoặc ánh nắng có thể làm chúng tổn thương và chỉ trồi lên mặt nước mỗi khi trời tối để tái sinh sản và phát triển với nguồn thức ăn- phiêu sinh vật dồi dào. Salpa aspera gồm rất nhiều loại và phân bố thành những đàn dày đặc ở ngoài khơi biển Australia, New Zealand, Nhật Bản, Nam Phi, Đông Nam nước Mỹ, phía Tây Địa Trung Hải, phía Đông của Bắc Đại Tây Dương và Nam Đại Tây Dương.
3) Giảm hiệu ứng nhà kính bằng màu trắng:
Nếu màu trắng thay thế màu tối trên những mái nhà, vỉa hè, đường xá của 100 thành phố lớn nhất thế giới , lượng khí gây hiệu ứng nhà kính có thể giảm tới 44 tỉ tấn.
Theo báo cáo chuyên gia tại Trung tâm thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley ( Mỹ) con số này lớn hơn lượng khí gây hiệu ứng nhà kính mà toàn nhân loại thải ra trong một năm. Biện pháp nói trên cũng làm giảm tốc độ tăng lượng khí CO2, hiện chiếm khoảng 75% trong tổng lượng khí gây hiệu ứng nhà kính.
Lý do khiến màu trắng làm giảm tình trạng nóng lên của khí hậu rất đơn giản: màu trắng phản chiếu ánh nắng Mặt trời nhiều hơn màu đen và các màu sẫm. Hashem Akbari, một nhà vật lý tại Trung tâm thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley, giải thích rằng một mái nhà màu trắng có diện tích 10m2 có thể làm giảm 1 tấn CO2. Ở những nước có khí hậu nóng ấm, mái nhà màu trắng còn giúp làm giảm tới 20% chi phí sử dụng máy điều hòa nhiệt độ trong những tháng nóng nực.
Trên toàn thế giới mái nhà chiếm khoảng 25% diện tích của đa số thành phố, còn vỉa hè chiếm khoảng 35%. Ngay cả khi lượng khí thải do nền công nghiệp thải ra hiện nay không giảm, việc phủ màu trắng cho mái nhà và vỉa hè có thể làm giảm một lượng khí gây hiệu ứng nhà kính mà nhân loại đã thải ra trong 10 năm.
Về mặt kinh tế, các nhà khoa học ước tính mái nhà và đường xá màu trắng có thể giảm hàng trăm tỉ USD mỗi năm dành cho nỗ lực giảm khí thải CO2. Ngoài việc giảm hiệu ứng nhà kính và chi phí sử dụng máy điều hòa, mái nhà và đường xá màu trắng còn mang đến lợi ích thứ 3: chúng có thể làm giảm nhiệt độ của bầu không khí đi vài OC. Điều này sẽ làm giảm đáng kể sương khói.
Tiêu diệt CO2 bằng đá Peridotite:
Theo một nghiên cứu của các nhà địa chất Mỹ , có thể sử dụng đá Peridotite( sinh ra từ magma tự nguội dần) để hấp thu nhanh chóng một lượng lớn khí CO2, loại khí chính gây hiệu ứng nhà kính làm Trái Đất ấm lên.
Người ta đã biết , khi tiếp xúc với CO2 trong không khí, Peridotite sẽ tạo ra các khoáng chất cứng như đá vôi hay cẩm thạch nhưng mới đây các nhà khoa học mới biết rằng quá trình này cũng diễn ra cả dưới lòng đất và có thể nhanh hơn gấp 1 triệu lần.
Việc vận chuyển và xử lý Peridotite trong các nhà máy sản xuất điện từ than đá , nơi tạo ra một lượng CO2 khổng lồ, rất bất tiện và tốn kém.Nhưng người ta lại có thể chuyển khí CO2 dễ dàng và ít tốn kém từ các nhà máy điện đến những nơi có nhiều Peridotite, nhà địa chất học Peter Kelemen giải thích.
Kelemen làm việc tại viện nghiên cứu Trái đất thuộc đại học Clumbia ở New York, tác giả chính của nghiên cứu, được đăng trong ấn bản điện tử tập san thuộc Viện hàn lâm khoa học Mỹ ngày 10-11. Cách tiếp cận này có thể cho phép phát triển một phương pháp thu giữ CO2 trong khí quyển với chi phí th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên nhân gây hiệu ứng nhà kính.doc