Đề tài Hợp đồng ngoại thương - Những vấn đề pháp lý cơ bản

Mua bán quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời. Tới đầu thế kỷ XIX các hợp đồng mua bán quốc tế vẫn được thiết lập theo các quy tắc pháp lý được quy định trong các bộ luật dân sự của các quốc gia do vậy khi quy chiếu vào đó các thương gia thường lo sợ rằng hợp đồng của họ sẽ bị các toà án coi rằng trái với trật tự xã hội.

Năm 1817 trên thế giới đã có sự xuất hiện những dấu hiệu của cuộc khủng hoảng kinh tế, hàng hoá sản xuất ra dư thưa. Sự cạnh tranh về thị trường ngày càng gay gắt.

Để khắc phục tình trạng này các thương gia đã có sự quy tụ theo ngành nghề dưới dạng các hiệp hội với mục đích:

- Thiết lập một quy chế pháp lý chi phối các hoạt động mua bán quốc tế nhằm thống nhất các điều kiện mua bán thiết lập môi trường cạnh tranh công bằng, hợp lý.

- Tước bỏ thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp của các toà án quốc gia và chuyên quyền này vào tổ chức trọng tài quốc tế.

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3798 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng ngoại thương - Những vấn đề pháp lý cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu đối với nền kinh tế nước nhà. 2.1. Vai trò của xuất khẩu. Xuất khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng các hoạt động xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho tài chính. Đáp ứng nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển cơ sở hạ tầng. Thứ nhất: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nạn lạc hậu của nước ta. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có một số ngoại tệ lớn để nhập khẩu các máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhanh tốc độ xuất khẩu để đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà. Thứ hai: Xuất khẩu góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là một đòi hỏi tất yếu đối với nền kinh tế nước ta. Thứ ba: xuất khẩu không những thúc đẩy sự phát triển của chính ngành nghề xuất khẩu mà còn tạo điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển thuận lợi. Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các ngành sản xuất nguyên liệu như trồng bông, tơ tằm… phát triển … Thứ tư: Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước, nói cách khác xuất khẩu tạo ra vốn, kỹ thuật công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam, hiện đại hoá nền sản xuất trong nước tạo ra năng lực sản xuất mới. Xuất khẩu còn là cơ sở đề mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế… ngược lại chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng các hoạt động xuất khẩu. 2.2. Vai trò của nhập khẩu. Nhập khẩu là hoạt động quan trọng có tác dụng (trực tiếp) tới hoạt động sản xuất và đời sống trong nước nhập khẩu nhằm bổ sung những hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Cụ thể như sau: Thứ nhất: Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ hai: Nhập khẩu bổ sung kịp thời các mặt mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định. Thứ ba: Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người tiêu dùng, đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm cho người lao động. Thứ tư: Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thể hiện: nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài. Ở Việt Nam do việc mở rộng hợp đồng ngoại thương nên nguồn thu từ thuế XNK cũng tăng lên qua các năm và đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách nhà nước. II. HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK. 1. Khái niệm về hợp đồng mua bán ngoại thương Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và phân công lao động trên quy mô toàn thế giới đang diễn ra ngày càng sâu sắc xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức hợp tác. Tuy vậy trao đổi hàng hoá vốn là một hình thức mang tính chất cổ điển của quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng và có vị trí quan trọng bậc nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. Để các hoạt động trao đổi hàng hoá được diễn ra thuận lợi đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý nhất định cho các bên thông qua một hình thức pháp lý nhất định. Hợp đồng mua bán ngoại thương là hình thức pháp lý cơ bản của trao đổi hàng hoá quốc tế. Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về khái niệm hợp đồng mua bán ngoại thương. Tuy nhiên trong mọi hợp đồng mua bán bao giờ cũng có ít nhất hai bên chủ thể là bên bán và bên mua các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đều chủ yếu liên quan đến việc giao hàng và trả tiền hàng. Để xác định một hợp đồng mua bán là hợp đồng mua bán quốc tế, các luật gia thường dựa trên một số tiêu chí như sau: Thứ nhất: Hợp đồng mua bán có tính quốc tế nếu trụ sở kinh doanh của bên mua và bên bán được đăng ký tại hai quốc gia khác nhau. Thứ hai: Hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hoá phải được giao tại một nước khác với nước mà hàng hoá đó được tồn trữ hoặc sản xuất ra khi hợp đồng được ký kết. Thứ ba: Được coi là hợp đồng mua bán quốc tế khi: + Có sự vận chuyển hàng hoá là đối tượng của hợp đồng từ lãnh thổ của quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác. + Tất cả các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận không được thực hiện trên lãnh thổ của cùng một quốc gia. + Sự giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia mà ở đó các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận đã được hoàn thành. Quan điểm trên đã được đề nghị trong dự thảo luật ROMA 1956. Công ước Vienne ngày 11/04/1980 đã không chấp nhận quan điểm trong dự thảo luật Roma và chấp thuận tiêu chuẩn thứ nhất: Hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế khi hai bên có trụ sở tại hai quốc gia khác nhau. Dấu hiệu quốc tịch của các bên không phải là yếu tố để phân biệt. 2. Vai trò của hợp đồng mua bán ngoại thương trong hoạt động kinh doanh XNK. Do đặc điểm về tự nhiên mỗi quốc gia có lợi thế riêng về sản xuất. Chính những lợi thế riêng biệt khác nhau này giữa các quốc gia là tiền đề dẫn tới phân công lao động quốc tế và dẫn đến nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Thực tiễn đã chứng minh trong thời đại ngày nay khi trình độ quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng cao, nhu cầu hội nhập quốc tế là nhu cầu không thể thiếu và ngày càng phải được mở rộng. Các quốc gia sẽ không thể phát triển, không thể theo kịp sự phát triển của thế giới và sẽ bị tụt hậu nếu thực hiện chính sách cô lập. Các quốc gia đều có ý thức được giá trị to lớn của việc hội nhập kinh tế toàn cầu đặc biệt là các quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế đang ngày càng được phát triển sâu rộng hơn. Để quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá được diễn ra bình thường ổn định và bảo vệ được quyền lợi của các bên đòi hỏi phải có một cơ sở pháp lý nhất định, trong đó có các bên xác lập các quyền và nghĩa vụ đối với nhau đồng thời cũng là cơ sở để các nước hữu quan thực hiện (nhiệm vụ) quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK hàng hoá. Hợp đồng ngoại thương có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động trao đổi hàng hoá. Cụ thể như sau: - Hợp đồng ngoại thương là cơ sở pháp lý quy định quyền và nhiệm vụ của các bên trong quan hệ trao đổi hàng hoá. - Hợp đồng ngoại thương là căn cứ để bảo vệ các nguồn và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp xảy ra. - Hợp đồng ngoại thương là công cụ pháp lý trung tâm của hoạt động kinh doanh XNK đồng thời là coư sở để các bên ký kết các hợp đồng khác. Hợp đồng vận chuyển, hợp đồng Bảo hiểm, hợp đồng bảo lãnh… - Hợp đồng ngoại thương là cơ sở quan trọng của cơ quan nhà nước: Hải quan, cơ quan thuế… thực hiện các chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực liên quan. Phần Hai HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG - NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN I. SỰ HÌNH THÀNH QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ. Mua bán quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời. Tới đầu thế kỷ XIX các hợp đồng mua bán quốc tế vẫn được thiết lập theo các quy tắc pháp lý được quy định trong các bộ luật dân sự của các quốc gia do vậy khi quy chiếu vào đó các thương gia thường lo sợ rằng hợp đồng của họ sẽ bị các toà án coi rằng trái với trật tự xã hội. Năm 1817 trên thế giới đã có sự xuất hiện những dấu hiệu của cuộc khủng hoảng kinh tế, hàng hoá sản xuất ra dư thưa. Sự cạnh tranh về thị trường ngày càng gay gắt. Để khắc phục tình trạng này các thương gia đã có sự quy tụ theo ngành nghề dưới dạng các hiệp hội với mục đích: - Thiết lập một quy chế pháp lý chi phối các hoạt động mua bán quốc tế nhằm thống nhất các điều kiện mua bán thiết lập môi trường cạnh tranh công bằng, hợp lý. - Tước bỏ thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp của các toà án quốc gia và chuyên quyền này vào tổ chức trọng tài quốc tế. Trong giai đoạn đầu các hiệp hội, các nhà kinh doanh tại mỗi quốc đã soạn ra những hợp đồng mẫu cho từng loại hàng hoá tuy nhiên các hợp đồng này vẫn mang tính chất riêng biệt do vậy hợp đồng mẫu của từng quốc gia vẫn có sự khác biệt về chi tiết nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến các vụ tranh chấp. Do đó những hiệp hội của các quốc gia đã tìm cách xích lại gần nhau hơn và ký kết với nhau những thoả hiệp, trong đó quyền lợi của các bên được giải quyết thoả đáng. Các nỗ lực quốc tế nhằm đem lại một chế độ pháp lý thuần nhất phải kể đến các công trình. 1. Uỷ ban kinh tế Châu âu thuộc tổ chức của Liên hợp quốc đã soạn thảo được những điều kiện chung cho các hợp đồng XNK một số mặt hàng trọng điểm: các trang thiết bị, ngũ cốc, chất đốt. 2. Hội đồng tương trợ kinh tế - tổ chức thuộc khối các nước XHCN với mục đích phát triển nền ngoại thương giữa các nước đó trên tinh thần tương trợ đã soạn ra các văn bản. - Các điều kiện chung về quan hệ thương mại. - Các quy tắc pháp lý áp dụng cho hợp đồng mua bán. - Cách giải quyết các vụ tranh chấp. Tổ chức này đã ngừng hoạt động từ tháng 6/1999. 3. Phòng Thương mại quốc tế với công trình về "những điều kiện thương mại quốc tế giải thích các từ ngữ thương mại năm 1930 và được sửa đổi vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990 và năm 2000. 4. Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế - công ước Vienne năm 1980 và có hiệu lực từ tháng 1/1988. II. KHÁI NIỆM - ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG. 1. Khái niệm: Quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế ngày càng được phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Hoạt động mua bán hàng hoá nói chung và hoạt động mua bán quốc tế nói riêng là một lĩnh vực vô cùng phức tạp đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý nhất định thể hiện dưới một hình thức nhất định - đó là hợp đồng. Hợp đồng mua bán ngoại thương trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hoá do đó nó có đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng mua bán thông thường. Điểm khác biệt của hợp đồng mua bán ngoại thương là yếu tố nước ngoài có trong hợp đồng bao gồm: - Chủ thể của hợp đồng - Đối tượng của hợp đồng - Đồng tiền thanh toán. Theo luật thương mại Việt Nam 1997 tại điều 8 đưa ra khái niệm khái quát về hợp đồng ngoại thương như sau: "Hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. Theo công đốc LaHay 1964 về mua bán quốc tế, đối với các động sản hữu hình thì một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán ngoại thương. Nếu các bên chủ thể của hợp đồng mua bán có trụ sở Thương mại tại các nước khác nhau, hàng hoá trong hợp đồng được chuyển qua biên giới và được xác lập ở các nước khác nhau. Công ước Vienne 1980 của Liên hợp quốc thì yếu tố nước ngoài của hợp đồng là yếu tố về chủ thể. Như vậy về mặt bản chất thì khái niệm hợp đồng ngoại thương trong công ước của Liên hợp quốc 1980 với khái niệm trong luật thương mại Việt Nam 1997 có sự tương đồng. Theo quy định tại nghị định 36CP 24/04/97 các hợp đồng trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp thuộc khi chế xuất, các cơ sở kinh doanh hàng miễn thuế với các doanh nghiệp trong nước tuy không được gọi là hợp đồng mua bán ngoại thương nhưng được coi là hợp đồng XNK và chịu sự chi phối của các quy định pháp luật liên quan. Ngoài ra, thực tiễn cho thấy các hình thức kinh doanh khác như chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất… các hợp đồng các hình thức này cũng phải chịu sự điều chỉnh của các quy định páp luật về hợp đồng ngoại thương. 2. Đặc điểm hợp đồng ngoại thương. - Về chủ thể: Chủ thể tham gia hợp đồng là những thương nhân mang quốc tịch khác nhau, quy chế thương nhân được xác định theo luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. Thương nhân là tổ chức thì quốc tịch của thương nhân được xác định là quốc tịch của nước nơi: + Đặt trung tâm quản lý (Pháp - Đức) + Đặt trung tâm hoạt động của tổ chức (Ai Cập, Xê ri…) Khoản 1 điều 832 Bộ luật dân sự nước cộng hoà XHCN Việt Nam ghi nhận nguyên tắc quốc tịch của pháp nhân được xác định tuỳ thuộc vào nơi thành lập pháp nhân. - Về đối tượng của hợp đồng: Là hàng hoá tồn tại thực tế, có thể di rời được, xác định được phải được phép giao dịch lưu thông trên thị trường. - Về đồng tiền thanh toán Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng ngoại thương là ngoại tệ đối với ít nhất là một bên tham gia hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận đồng tiền thanh toán là đồng tiền của bên bán hoặc bên mua hoặc của một nước thứ ba bất kỳ. - Về pháp luật áp dụng Nguồn luật áp dụng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán ngoại thương phức tạp hơn rất nhiều so với các hợp đồng mua bán trong nước bao gồm điều ước quốc tế, luật quốc gia và tập quán Thương mại quốc tế. III. SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. Các quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quan hệ chính trị giữa các quốc gia. Các nhà nước thường sử dụng những công cụ nhằm điều tiết các quan hệ thương mại phù hợp với mục tiêu chính trị kinh tế của nước mình, do vậy đằng sau các giao dịch thương mại quốc tế thường tiềm ẩn những mục đích chính trị. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật các tập đoàn công nghiệp tài chính từ các nước phát triển đã tạo ra một sức ép mạnh mẽ đối với việc phát triển thị trường của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trước tình hình đó thì các nước này buộc phải xây dựng cho mình những chiến lược kinh tế tạo điều kiện cho các thương gia trong nước có cơ hội gia nhập thị trường quốc tế. Các chính sách kinh tế được các nước áp dụng như chính sách về thuế, chính sách về tài chính tín dụng (hỗ trợ về tài chính tín dụng) giảm gọn các thủ tục về hải quan… IV. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG CÓ HIỆU LỰC. 1. Xung đột về tính hợp pháp của hợp đồng mua bán ngoại thương. Ở các nước khác nhau có những quy định khác nhau về tính hợp đồng nói chung và hợp đồng ngoại thương nói riêng. - Về hình thức của hợp đồng Các nước Đông Âu khi xác định tính hợp pháp của hợp đồng thường căn cứ vào luật mới ký kết hợp đồng hoặc luật mới thực hiện hợp đồng Đa số các nước Bắc Âu, Tây Âu và Châu Mỹ đều áp dụng luật mới ký kết hợp đồng. Trong trường hợp hình thức của hợp đồng bị coi là bất hợp pháp tại nơi ký kết nhưng theo luật nhân thân của các bên hoặc luật nơi có toà án xét xử tranh chấp là hợp pháp thì hợp đồng vẫn có giá trị về mặt hình thức. Theo khoản 1 điều 34 Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng. - Về nội dung hợp đồng. Đa số các nước nên áp dụng nguyên tắc thoả thuận để xác định tính hợp pháp của nội dung hợp đồng. Ngoài ra các nước còn áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng. Theo điều 394 và điều 834 Bộ luật dân sự Việt Nam việc giải quyết xung đột về nội dung hợp đồng sẽ áp dụng nguyên tắc thoả thuận hoặc áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng. - Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. + Về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng hầu hết các nước áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng. Khoản 3 điều 4040 Bộ luật dân sự Việt Nam ghi nhận thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng là thời điểm giao kết trừ có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác. + Về năng lực chu thể Các nước thường áp dụng luật nhân thân của chủ thể. Theo pháp luật Việt Nam năng lực chủ thể của người nước ngoài được xác định như công dân Việt Nam, năng lực hành vi được xác định theo luật của nước người đó mang quốc tịch. 2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ngoại thương theo pháp luật Việt Nam. - Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương Theo khoản 1 điều 81 Luật Thương mại Việt Nam, chỉ những thương nhân Việt Nam có những điều kiện nhất định mới được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài. Điều kiện này đã được hàng loạt các văn bản dưới luật quy định cụ thể: Tại điều 2 quyết định số 55/1998/QĐ.TTg ngày 3/3/98 của Thủ tướng chính phủ và điều 8 Nghị định số 57/1998/NĐ- CP ngày 31/7/98 quy định mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được phép XNK hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh nhưng doanh nghiệp phải đăng ký mã số doanh nghiệp tại Cục hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp có trụ sở. Bên nước ngoài tham gia hợp đồng cũng phải là thương nhân, có tư cách pháp lý xác định theo luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. - Về đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương Đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương là hàng hoá được phép lưu thông, được phép xuất nhập khẩu. Tại điều 4, điều 5 Nghị định 57/NĐ- CP và phụ lục số 2 ban hành kèm theo nghị định đã quy định rất rõ về vấn đề này. - Nội dung của hợp đồng Theo quy định của pháp luật Việt Nam những nội dung chủ yếu của hợp đồng ngoại thương bao gồm những nội dung chủ yếu quy định tại điều 50, khoản 3 điều 81 luật thương mại bao gồm: 1. Tên hàng 2. Số lượng 3. Quy cách - chất lượng 4. Giá cả 5. Phương thức thanh toán 6. Địa điểm thời hạn giao hàng - Về hình thức của hợp đồng mua bán ngoại thương Hình thức của hợp đồng mua bán ngoại thương được quy định theo pháp luật Việt Nam là phải lập thành văn bản. Với sự phát triển của công nghệ thông tin trên các hình thức giao dịch bằng điện báo, telex, fax, thư điện tử… cũng được coi là hình thức văn bản. (Theo khoản 3 điều 49 Bộ luật thương mại Việt Nam). Để hợp đồng có hiệu lực pháp lý theo quyết định số 91/TTg ngày 13/11/92 của Thủ tướng chính phủ một số hợp đồng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét thì mới có hiệu lực thi hành. Đó là những hợp đồng sử dụng vốn từ nguồn ngân sách nhà nước. V. KÝ KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. 1. Ký trực tiếp. Là việc các bên chủ thể của hợp đồng trực tiếp gặp nhau đàm phán thoả thuận xây dựng và ký kết hợp đồng. 2. Ký gián tiếp. Ký hợp đồng ngoại thương dưới hình thức trực tiếp thường tốn kém kinh phí. Để khắc phục tình trạng này khi các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại cho phép việc ký hợp đồng bằng cách gửi thư từ điện tín, fax… gồm hai giai đoạn là đề nghị ký kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng hay nói cách khác là chào hàng và chấp nhận chào hàng. Theo điều 51 Bộ luật thương mại Việt Nam: chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong một thời hạn nhất định được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định và phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá. Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Theo điều 52 luật thương mại Việt Nam thì trong trường hợp bên được chào hàng có sửa đổi bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành chào hàng mới. Trường hợp sửa đổi bổ sung nội dung chào hàng nhưng không làm thay đổi một trong những nội dùng chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là chấp nhận chào hàng trừ trường hợp người chào hàng từ chối ngay những sửa đổi bổ xung đó. VI. HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG CÓ MỘT BÊN CHỦ THỂ LÀ NHÀ NƯỚC. 1. Quyền miễn trừ tư pháp tư pháp của nhà nước. Có hai quan điểm về quyền miễn trừ tư pháp đối với chủ thể của hợp đồng là nhà nước. - Quan điểm về quyền miễn trừ tuyệt đối dựa trên quan niệm cộng đồng quốc tế gồm các quốc gia có chủ quyền do vậy quốc gia này không thể bị đem ra xét xử trước toà án của quốc gia khác. Tuy nhiên quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối có ngoại lệ, đó là quốc gia có thể khước từ miễn trừ tư pháp của mình và chấp nhận ra tranh luận trước cơ quan tài phán của quốc gia khác. Quan điểm này đã được các nhà nước chấp nhận trong suốt thế kỷ XIX và được áp dụng cho mọi hoạt động cho nhà nước. Đến thế kỷ XX những biến động lớn về kinh tế đã dẫn đến những quan điểm mới về vấn đề này, nhà nước ngày càng tham gia trực tiếp vào các hoạt động thương mại quốc tế và trong các hoạt động đó khó có thể phân biệt được đâu là vì lợi nhuận, đâu là vì lợi ích công cộng, do đó quyền miễn trừ tư pháp của nhà nước được đặt dưới một cách nhìn mới đó là quyền miễn trừ tư pháp theo chức năng. - Quan điểm về quyền miễn trừ tư pháp theo chức năng. Xuất phát từ trên cơ sở sự phân tích bản chất các hoạt động của nhà nước. Trong các hoạt động của mình nhà nước chỉ được hưởng quyền miễn trừ tư pháp trong một số hoạt động mang tính chất chính trị. Quan điểm này trên thực tế áp dụng gặp phải khá nhiều trở ngại vì việc tìm ra được một tiêu chuẩn hợp lý để phân biệt các loại hoạt động của nhà nước là vô cùng khó khăn có ý kiến cho rằng nên căn cứ vào hành vi nhưng có những ý kiến lại cho rằng phải căn cứ vào mục đích của hành vi… do vậy việc đặt ra một chuẩn mực chung là vô cùng khó khăn cần phải có một quá trình lâu dài trên cơ sở sự tiến bộ chung của thế giới. 2. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng ngoại thương có chủ thể là nhà nước. Hiện nay chưa có một giải pháp dứt khoát cho vấn đề quyền miễn trừ tư pháp của nhà nước. Thực tế khi có tranh chấp xảy ra thì sự việc sẽ được giải quyết tại trọng tài quốc tế nhưng nếu chấp nhận giải quyết tại trọng tài quốc tế nhưng nếu chấp nhận giải quyết tại trọng tài quốc tế sản xuất đi đến kết quả là nhà nước chịu sự quyết định của một hoặc một nhóm cá nhân và quyết định này về bản chất giống như một bản án vấn đề đặt ra là quyền miễn trừ về tư pháp ở đây có được đề ra không, chủ quyền quốc gia có bị xâm phạm hay không. Cần phải thấy rằng chủ quyền quốc gia chỉ ngăn cản một toà án nước ngoài không được xét xử quốc gia này nếu quốc gia không đồng ý còn trọng tài là hành vi hoàn toàn do sự thoả thuận của các bên. Nếu trong hợp đồng không có điều khoản nào thoả thuận về vấn đề trọng tài hoặc trong vụ tranh chấp hai bên không đi đến thoả thuận là trọng tài giải quyết thì trọng tài không thể xét xử được. Hầu hết các nước đều ghi nhận trong pháp luật của mình là cho phép các doanh nghiệp nhà nước được thoả thuận điều khoản vì trọng tài trong hợp đồng mua bán ngoại thương. Vấn đề này được nhà nước Việt Nam ghi nhận tại khoản 3 điều 239 Bộ luật thương mại và tại điều 2 quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 204/TTg ngày 28/04/93. VII. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG. Nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương bao gồm rất nhiều những điều khoản khác nhau, trong đó có những điều khoản mà nếu thiếu một trong số đó thì hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý, những nội dung chủ yếu đó gồm: 1. Tên hàng: Tên hàng là đối tượng của hợp đồng cần được thể hiện chính xác nhằm tránh những hiểu lầm do bất đồng về mặt ngôn ngữ, tập quán của các bên có nhiều cách để ghi tên hàng hoá. - Ghi tên thương mại của hàng hoá kèm theo tên thông thường và tên khoa học. - Ghi tên hàng hoá kèm theo xuất xứ của hàng hoá. - Ghi tên hàng hoá kèm theo tên nhà sản xuất, nhãn hiệu hàng hoá. 2. Số lượng hàng hoá. Bao gồm các thoả thuận về định lượng đơn vị tính, phương pháp xác định trọng lượng, độ dung sai… cho phù hợp với đặc trưng của hàng hoá và tập quán buôn bán quốc tế. 3. Chất lượng hàng hoá. Đó là thoả thuận của các bên liên quan đến việc xác định chất lượng hàng hoá kiểm tra chất lượng, bảo hành, quyền và nghĩa vụ của các bên khi hàng hoá không đảm bảo chất lượng đã thoả thuận tuy nhiên sự thoả thuận phải phù hợp với pháp luật của các bên và tập quán quốc tế. 4. Giá cả hàng hoá. Đó là các thoả thuận có liên quan đến đồng tiền thanh toán, cách quy định phương pháp tính và đơn vị tính giá về đồng tiền thanh toán : đồng tiền thanh toán là đồng tiền của nước bên mua, bên bán hoặc của một nước thứ ba do các bên thoả thuận. Về cách định giá, các bên có thể thoả thuận một giá cố định hoặc thoả thuận một giá di động theo từng đợt hàng. 5. Điều khoản về phương thức thanh toán Các phương thức thanh toán trong thực tiễn rất đa dạng, các bên có thể thoả thuận thanh toán bằng trao đổi hàng hoá, bằng tiền mặt, thông qua tín dụng, chuyển khoản… trong đó thông qua tín dụng (L/c) được áp dụng rộng rãi nhất trong mua bán quốc tế. 6. Địa điểm thời hạn giao hàng. Đây là điều khoản quan trọng trong mua bán quốc tế, có ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả, về việc xác định quyền sở hữu và trách nhiệm gánh chịu những rủi ro khi thực hiện hợp đồng. Địa điểm giao hàng có thể là nơi sản xuất, cảng biển, ga… hoặc tại bất kỳ nơi nào do các bên thoả thuận. Còn thời điểm giao hàng có thể là một thời gian nhất định hoặc một khoảng thời gian mà các bên phải hoàn tất việc giao nhận hàng. VIII. CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG. Về nguyên tắc, khi một bên không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã được xác lập trong hợp đồng mà gây thiệt hại thì bên vi phạm sẽ phải chịu áp dụng các chế tài và phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp, tuy có sự vi phạm nhưng bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm bồi thường hoặc thực hiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc68199.DOC
Tài liệu liên quan