Đề tài Khảo sát một số mô hình nhà kính, nhà màng tại thành phố Đà Lạt - Tỉnh Lâm Đồng

MỤC LỤC

CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU trang 1

1.1. Đặt vấn đề trang 1

1.2. Mục đích đề tài trang 3

1.3. Yêu cầu thực hiện đề tài trang 3

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU trang 4

2.1. Thiết kế và tình hình sử dụng nhà che phủ nông nghiệp trên thế giới trang 4

2.1.1. Nhà kính tại Israel trang 4

2.1.2. Nhà kính tại một số quốc gia khác trang 5

2.2. Thiết kế và tình hình sử dụng nhà che phủ nông nghiệp tại Việt Nam trang 7

2.2.1. Tại Hà Nội và khu vực phía Bắc trang 7

2.2.2. Tại thành phố Hồ Chí Minh và khu vực phía Nam trang 10

2.2.3. Thiết kế và tình hình sử dụng nhà che phủ tại Lâm Đồng trang 12

 Đối với tình hình sử dụng nhà che phủ tại Đà Lạt trang 14

2.3. Điều kiện tự nhiên và những yêu cầu sinh thái của một số cây trồng trong nhà che phủ tại thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng trang 18

2.3.1. Tìm hiểu điều kiện tự nhiên của thành phố Đà Lạt trang 18

2.3.2. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của một số cây trồng trong nhà kính, nhà màng tại Đà Lạt – Lâm Đồng trang 19

2.3.2.1. Cây bắp cải trang 19

2.3.2.2. Cây cà chua trang 21

2.3.2.3. Cây hoa cúc trang 23

2.3.2.4. Cây hoa hồng trang 23

CHƯƠNG III: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

trang 26

3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu trang 26

3.1.1. Thời gian nghiên cứu trang 26

3.1.2. Địa điểm nghiên cứu trang 26

3.2. Đối tượng nghiên cứu trang 26

3.3. Nội dung nghiên cứu trang 26

3.4. Phương pháp nghiên cứu trang 27

CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU trang 28

4.1. Kết quả khảo sát trang 28

4.1.1. Nhà kính, nhà màng của các hộ nông dân sản xuất kinh doanh nhỏ trang 28

4.1.1.1. Nhà kính kiểu mái vòm dạng cung tròn trang 28

4.1.1.2. Nhà kính, nhà màng dạng mái nghiêng nhiều lớp trang 29

4.1.1.3. Nhà kính, nhà màng kiểu hình chữ A trang 30

4.1.2. Nhà kính, nhà màng của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trang 32

4.1.2.1. Nhà kính, nhà màng của Công ty Cổ phần Công nghệ sinh học Rừng Hoa Đà Lạt trang 32

4.1.2.2. Nhà kính của Công ty Dalat Hasfarm trang 33

4.1.2.3. Nhà kính của Công ty TNHH liên doanh Organik – Đà Lạt trang 35

4.1.3. Nhà kính, nhà màng của các viện nghiên cứu, trường học trang 38

4.1.3.1. Nhà kính của Trung tâm ứng dụng Công nghệ và Kỹ thuật nông nghiệp Lâm Đồng trang 38

4.1.3.2. Nhà kính của Khoa Nông Lâm – Trường Đại Học Đà Lạt trang 38

4.2. Đề xuất trang 41

4.2.1. Các yêu cầu cần thiết về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và độ thông thoáng trong nhà kính trang 41

4.2.2. Đề xuât cấu trúc của một nhà che phủ tốt trang 43

CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ trang 45

5.1. Kết luận trang 45

5.2. Kiến nghị trang 46

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

 

 

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6613 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát một số mô hình nhà kính, nhà màng tại thành phố Đà Lạt - Tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao bằng nhà lưới, nhà kính”. Ngoài hỗ trợ lãi suất 4%/năm cho các cá nhân, tổ chức vay vốn sản xuất rau hoa NNCNC theo nội dung Quyết định 131/QĐ - TTg ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ, Sở NN-PTNT đã chính thức đề nghị UBND tỉnh hỗ trợ thêm 1% lãi suất/năm cho các doanh nghiệp trong thời gian 8 tháng, hỗ trợ 2% lãi suất/năm trong 2 năm 2009-2010 đối với các hộ và cơ sở sản xuất trong các khu quy hoạch NNCNC của tỉnh; ngoài vay vốn có thế chấp tài sản, các hộ và cơ sở cần vay vốn có thể vay tín chấp từ các ngân hàng (hồ sơ vay vốn phải có xác nhận của chính quyền địa phương và Phòng NN - PTNT cấp huyện). Trên 10%( tương ứng 1.235 ha) diện tích rau hoa của tỉnh được sản xuất trong nhà lưới, nhà kính và khoảng 2.000 cần ha cây trồng khác được sản xuất theo quy trình NNCNC đã góp phần quan trọng đưa hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh năm 2008 đạt trên 45 triệu đồng/ha/năm - tăng 28% so với năm 2007. Với định hướng mở rộng diện tích nhà kính, nhà màng và việc thực hiện chính sách tín dụng cho nông dân vay vốn làm nhà kính nhà màng, Chương trình NNCNC sẽ có bước đột phá trong các năm tới. Đối với tình hình sử dụng nhà che phủ tại Đà Lạt. Tình hình sản xuất rau hoa tại Đà Lạt (1996-2005)  Năm Diện tích gieo trồng rau (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích gieo trồng hoa cắt cành (ha) Sản lượng (tấn) 1996 3.902 82.448 174 26 1997 4.819 102.670 242 38 1998 4.984 107.041 253 46 1999 5.231 118.450 286 58 2000 5.520 143.520 453 113 2001 7.810 187.400 508 147 2002 7.638 183.300 630 183 2003 8.490 203.800 788 228 2004 8.723 209.400 930 270 2005 8.521 219.000 1.063 308 [Nguồn: Địa chí Đà Lạt, 2005] Các công ty Dalat Hasfarm Agrivina, Bonnie Farm, Rừng Hoa Đà Lạt, Langbiang Farm đã tạo một bước ngoặt trong nghề trồng hoa ở Đà Lạt. Công ty Dalat Hasfarm Agrivina của Hà Lan bắt đầu hoạt động tại Đà Lạt từ năm 1994. Năm 2005 công ty đã có 34 ha đất sản xuất hoa cắt cành tại phường 8 (25 ha) và Xuân Thọ (9 ha). Với 30 ha nhà kính, công ty đang sản xuất các loại hoa cúc, hoa hồng, cẩm chướng, đồng tiền,… Thị trường tiêu thụ  chủ yếu là Nhật Bản. Công ty Bonnie Farm của Đài Loan đóng trên địa bàn xã Xuân Trường, cung cấp giống hoa, trồng và xuất khẩu hoa anh thảo (cyclamen), lily, cúc, … sang Đài Loan và Nhật Bản. Công ty Cổ phần Công nghệ Sinh học  Rừng Hoa Đà Lạt liên kết với nông dân để sản xuất và xuất khẩu hoa arum, cúc, hồng, lily,… sang Nhật Bản, Indonesia, Bỉ. Công ty TNHH Lang Biang Farm  là một đơn vị doanh nghiệp tư nhân, đã thực hiện đầu tư vào lĩnh vực giống hoa, cung cấp dịch vụ, vật tư ngành hoa. Trên lĩnh vực sản xuất rau quả các loại đã có nhiều công ty sản xuất rau hình thành tại Đà Lạt: Công ty Nông sản Thực phẩm Lâm Đồng, Công ty TNHH Đồng Vàng (Golden Garden), Công ty TNHH Kim Bằng, Công ty TNHH Bio-Organics, Công ty Rau Nhà Xanh,… Bên cạnh đó còn có một số doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên lĩnh vực xuất khẩu rau cải Đà Lạt sang Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc như Doanh nghiệp tư nhân Khánh Cát, Công ty TNHH Mai Nguyên,… với sản lượng xuất khẩu hàng năm đạt đến 15.000 tấn. [7] Từ năm 2001, sản xuất nông nghiệp Đà Lạt chuyển dịch theo hướng sản xuất nông sản chất lượng cao, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế với các vùng, miền trong nước và các nước trong khu vực; được xác định là một thế mạnh để tạo việc làm cho lao động nông nghiệp; đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp với tôn tạo và làm đẹp cảnh quan, môi trường, góp phần phát triển du lịch của thành phố Đà Lạt. Chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng lên, mức độ tồn dư các dư lượng độc hại trong sản phẩm rau thấp hơn ngưỡng cho phép nhiều lần. Giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn nông nghiệp Đà Lạt bắt đầu có những sự thay đổi. Sản xuất nông nghiệp phát triển theo định hướng ứng dụng công nghệ cao trên các vùng nông nghiệp của Đà Lạt đã hình thành những mô hình kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Các chương trình, dự án đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp được đầu tư trực tiếp vào nông hộ đã góp phần kích thích sản xuất phát triển. [7] Qua những số liệu như trên ta nhận thấy sự phát triển đi lên của nền nông nghiệp Đà Lạt qua từng năm, đặc biệt là từ những năm 1995 trở lại đây, khi mà nền nông nghiệp công nghệ cao bắt đầu xâm nhập vào. Diện tích nhà che phủ nông nghiệp tăng nhanh tỉ lệ thuận với sự phát triển đi lên cả về số lượng và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp. Đà Lạt không chỉ là thành phố nông nghiệp - thành phố vườn mà còn là thành phố của du lịch du lịch - với gần 10.000 ha đất nông nghiệp, trong đó có trên dưới 3.941 ha chuyên trồng rau hoa từ 3-4 vụ/năm, mỗi năm cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước từ 180-200 ngàn tấn rau và 440 triệu cành hoa thương phẩm. Để nâng cao giá trị của nông sản và đẩy mạnh xuất khẩu, những năm gần đây, ngành nông nghiệp và nhà vườn Đà Lạt đang mạnh dạn đầu tư cơ sở vật chất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thâm canh các loại cây có ưu thế cạnh tranh cao của thành phố như rau hoa, chè và cà phê. Thống kê của Trung tâm Nông nghiệp Đà Lạt, tới thời điểm hiện nay thành phố đã có 800 ha nhà kính và 50 ha nhà lưới; từ 35-40% diện tích đất nông nghiệp được tưới nước tự động, trong đó có 700 ha rau hoa đã được tưới phun mưa. Nông sản được sản xuất trong nhà kính, nhà lưới đem lại hiệu quả rõ nét về mặt năng suất cũng như chất lượng sản phẩm. Nhu cầu ứng dụng nhà kính, nhà lưới vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là thiết thực với tiềm năng phát triển của sản phẩm sạch và an toàn. Nhìn chung nhà lưới, nhà kính tại các địa phương tỉnh Lâm Đồng còn mang tính tự phát, thiếu căn cứ khoa học, chưa thực sự tạo hiệu quả do đầu tư nhà lưới nhà kính mang lại. Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, nông nghiệp công nghệ cao được xem là sự lựa chọn tất yếu của các cấp lãnh đạo và nông dân Lâm Đồng. Sản xuất hoa cao cấp và rau sạch đã trở thành thương hiệu làm nên niềm tự hào của nền nông nghiệp tỉnh nhà trong cả nước.Trong thời điểm hiện nay thu nhập rau hoa đạt trung bình trên 300 triệu/1 ha/ năm và có điển hình đạt được 1.5 đến 2 tỷ/1ha trồng trọt. Thành phẩm của nông nghiệp công nghệ cao là sự tổng hòa của rất nhiều tiến bộ khoa học công nghệ mới được ứng dụng vào quá trình sản xuất như công nghệ giống, trang thiết bị hạ tầng cơ sở, quy trình chăm sóc, quản lý dịch bệnh…Trong đó công nghệ nhà lưới, nhà kính là công nghệ tiên quyết để sản xuất nông sản sạch, ktiếp cận được những ngưỡng sản phẩm chất lượng cao, tăng cường sức cạnh tranh cho sản phẩm.Tại ba vùng sản xuất rau hoa trọng điểm của tỉnh là Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng, nhà kính nhà lưới đã trở thành một nét đặc thù sản xuất nông nghiệp của tỉnh nhà và đang được triển khai ở nhiều địa phương khác. Qua khảo sát thực tế những vùng trồng rau hoa tại Lâm Đồng, từ trước đến nay đa phần nông dân Lâm Đồng tự thiết kế dựa vào kinh nghiệm của những người đi trước, cấu trúc tương đối đơn giản, vật liệu truyền thống là tre hoàn toàn hoặc tre kết hợp với sắt, giá thành trung bình khoảng 70 - 80 triệu đồng/01 sào, mức giá tương đối phù hợp với khả năng đầu tư của bà con nông dân. Nhưng nhược điểm phổ biến dễ thấy là kết cấu thiếu bền, chịu lực kém, không chịu được mưa, gió lớn, các tiêu chí về kỹ thuật như độ thông thoáng, độ chiếu sáng, ẩm độ, nhiệt độ chưa được tính toán một cách khoa học để hạn chế các tác nhân gây hại cũng như đảm bảo sự phát triển tối ưu cho cây trồng. Từ nhu cầu cấp thiết của thực tế sản xuất, việc lựa chọn công nghệ và thiết kế các mẫu nhà lưới nhà màng phù hợp với một số cây trồng chính trong điều kiện thời tiết khí hậu của các tiểu vùng sinh thái Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng và phù hợp với khả năng tiếp thu ứng dụng của nông dân là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Đề tài “Nghiên cứu công nghệ và thiết kế, chế tạo nhà lưới, nhà kính phù hợp với các vùng sinh thái tại Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng” do PGS. TS Bùi Văn Miên chủ trì cùng nhóm tác giả là các chuyên gia đầu ngành của Trường Đại học Nông lâm Tp HCM theo đuổi trong 02 năm qua cũng không nằm ngoài mục tiêu hướng đến phục vụ cho người nông dân Lâm Đồng đáp ứng nhu cầu khách quan của quá trình phát triển. [18] Để có thể phát triển các mô hình này ở nước ta, việc hạ giá thành đầu tư và cải tiến các đặc tính kỹ thuật phù hợp với yêu cầu canh tác của từng địa phương là cần thiết. Trên cơ sở các nghiên cứu khoa học về nhu cầu sinh thái của một số cây trồng đặc chủng vùng khí hậu Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng như hoa hồng, hoa cúc, địa lan, cà chua, ớt ngọt, rau, rau cao cấp…, từ những kinh nghiệm thực tế được được tích hợp từ những công nghệ thiết kế nhà lưới, nhà màng điển hình ở các nước trên thế giới và khảo sát thực tế thiết kế tại các vùng Lâm Đồng, nhóm chủ nhiệm đề tài đề xuất hai mô hình: một mô hình thiết kế đơn giản, giá rẻ, nông dân có thể tự làm và một mô hình công nghệ cao ứng dụng các kỹ thuật điều khiển tự động phù hợp với một số cơ sở có nhu cầu đầu tư sản xuất qui mô lớn phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Với những kết quả khảo nghiệm đạt được về mối tương quan giữa những thông số kỹ thuật được thiết lập liên quan đến kết cấu, vật liệu, cách lắp đặt với đặc trưng sinh thái của các đối tượng cây trồng chuyên biệt, thiết nghĩ mô hình cần thiết cần triển khai đến các hộ dân vì những tiện ích mà nó mang lại. Mô hình tự động mà đề tài thiết kế và chế tạo tuy giá thành còn khá cao nhưng là tiền đề mở ra hướng nghiên cứu cho nhiều công trình khoa học khác nữa nhằm tự động hóa quá trình sản xuất khi mà nhu cầu phát triển của nông dân Lâm Đồng ngày một nâng cao. 2.3. Điều kiện tự nhiên và những yêu cầu sinh thái của một số cây trồng trong nhà che phủ tại thành phố Đà Lạt – tỉnh Lâm Đồng 2.3.1. Tìm hiểu điều kiện tự nhiên thành phố Đà Lạt. Nhiệt độ: Đà Lạt có hai mùa rõ rệt: Vào mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 5, nhiệt độ trung bình 18oC, bầu trời trong xanh . Về đêm, trời lạnh khô, nhiệt độ khoảng 5oC. Trong mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 11, nhiệt độ trung bình 20oC, trời thường mưa về chiều, nhưng phần lớn buổi sáng trời đẹp và tươi mát. Nếu so sánh nhiệt độ trung bình hằng năm với nhiệt độ trung bình mùa hè và mùa đông, chúng ta nhận thấy nhiệt độ ở đây rất đều. Điều này rất thích hợp cho các loại rau, hoa có thể sinh trưởng phát triển quanh năm. Tuy nhiên, trong mùa khô, có một khoảng cách rất lớn giữa nhiệt độ tối cao ban ngày và nhiệt độ tối thấp ban đêm. Từ tháng 1 đến tháng 3, thỉnh thoảng trong một ngày, nhiệt độ tối cao là 30oC và nhiệt độ tối thấp là 2oC. Điều này ảnh hưởng phần nào đến sự sinh trưởng, phát triển của các loại rau, hoa ưa biên độ dao động nhiệt độ thấp.  Độ ẩm: Độ ẩm bao giờ cũng thấp hơn ở đồng bằng, cả vào mùa mưa, thay đổi 66-80%; trong khi vào mùa khô, độ ẩm dao động 50-60%. Buổi sáng khô hơn buổi chiều, nhưng trên cao nguyên rừng thông mọc thưa và gió thổi đều nên hơi nước thoát nhanh. Chế độ gió: Những luồng không khí tương đối mạnh chuyển động thường xuyên trên cao nguyên Lang Bi-ang. Theo chế độ gió mùa; gió thổi từ Tây và Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 10, từ Đông và Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 5 với tốc độ mạnh. Trong những tháng giao mùa, gió chuyển hướng liên tục trong một ngày. Không khí lúc nào cũng tươi mát và bão không bao giờ dữ dội như ở vùng ven biển. Chế độ mưa: Số ngày mưa nhiều hơn ở đồng bằng nhưng lượng mưa thấp hơn. Tùy theo năm, số ngày mưa từ 100 tới 185 ngày và cho một lượng mưa trung bình 1.692mm. Nói một cách tổng quát, mưa bắt đầu từ cuối tháng 3 nhưng ngắn và rải rác, tăng lên vào tháng 5, giảm trong tháng 6, 7, rồi lại tăng cao vào tháng 9 và 10, cuối cùng chấm dứt vào cuối tháng 11. Mùa mưa Đà Lạt không trùng hợp với vùng ven biển. Từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 1, trong khi vùng ven biển miền Trung chịu những trận mưa bão dữ dội làm cho nước sông dâng tràn và cắt đứt nhiều đoạn đường giao thông thì Đà Lạt vẫn bình yên. Vào mùa mưa bão, ở những vùng khác rau hoa bị tàn phá, không cho thu hoạch thì rau hoa Đà Lạt được biết đến như là nguồn cứu sinh cho rau hoa của cả nước. Sương mù không kéo dài và tan khi mặt trời lên cao. Tóm lại, về phương diện khí hậu, thì Đà Lạt – Lâm Đồng là một nơi lý tưởng cho việc trồng rau, hoa; đặc biệt là các loại rau, hoa chất lượng cao. 2.3.2. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của một số cây trồng trong nhà kính, nhà màng tại thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng 2.3.2.1. Cây bắp cải: (Brassica oleracea. var. Capitata. Lizg) Nhiệt độ: Bắp cải có nguồn gốc ở vùng ôn đới, trong quá trình sinh trưởng, phát triển, chúng ưa thích khí hậu mát mẻ, ôn hòa, là cây chịu rét khá, khả năng chịu nhiệt không cao. Bắp cải có thể sinh trưởng ở nhiệt độ từ 15 – 20oC, một số người cho rằng cây sinh trưởng tốt ở 15 – 22oC, hạt bắp cải có thể nảy mầm trong điều kiện nhiệt độ thấp (-5oC) nhưng chậm. Nhiệt độ thích hợp cho cây con sinh trưởng từ 16 – 18oC, thời kỳ trải lá 18 – 20oC, thời kỳ cuốn bắp 17 – 18oC. Nhiệt độ cao trên 28oC kết hợp với độ ẩm không khí thấp sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình trao đổi chất trong cây và chất lượng bắp khi thu hoạch. Nhiệt độ cao trên 25oC trong thời kỳ nở hoa sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của nhị, nhụy, hạt phấn và gây nên hiện tượng rụng nụ, rụng hoa. Ở nhiệt độ trên 25oC cây sinh trưởng chậm, thời gian cuốn bị kéo dài, cây nhỏ còi cọc dẫn đến bắp nhỏ, năng suất và chất lượng bắp đều giảm. Khi nhiệt độ trên 35oC sẽ gây rối loạn trong quá trình trao đổi chất, chất nguyên sinh bị biến đổi, các hạt protein bị tan vỡ, quang hợp giảm, cây nhanh chóng già cỗi, nhiệt độ thấp dưới 10oC cây không cuốn bắp. Bắp cải là cây hai năm, để thông qua giai đoạn xuân hóa cần nhiệt độ thấp, những giống chín muộn yêu cầu nhiệt độ thấp nghiêm khắc hơn giống sớm. Các giống thông qua giai đoạn xuân hóa thuận lợi khi nhiệt độ 3 – 5oC, có một số giống có thể thông qua giai đoạn xuân hóa ở 10 – 12oC và thời gian qua giai đoạn xuân hóa từ 30 – 40 ngày, phụ thuộc vào đặc tính của giống. Giống cải bắp Hà Nội có thể qua giai đoạn xuân hóa ở nhiệt độ thấp dưới 15oC với thời gian 20 – 25 ngày. Ánh sáng: Cải bắp là cây ưa thích ánh sáng ngày dài, mức độ mẫn cảm phụ thuộc vào đặc tính của gióng. Trong quá trình sinh trưởng, phát triển, cải bắp yêu cầu thời gian chiếu sáng dài, cường độ ánh sáng trung bình. Ở thời kỳ trải lá, thời kỳ hình thành bắp, cây rất mẫn cảm với ánh sáng, cây quang hợp ở cường độ ánh sáng 20.000 – 22.000 lux. Thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng ảnh hưởng lớn đến chất lượng giống và cuốn bắp. Ươm cây giống trong điều kiện chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy cây sinh trưởng, rút ngắn thời gian ở vườn ươm. Ánh sáng ngày ngắn và cường độ ánh sáng yếu làm giảm hàm lượng Vitamin C trong cây từ 25 – 30%, nhưng ánh sáng quá mạnh không có lợi cho sự tổng hợp Vitamin C. Giống muộn và trung bình sinh trưởng trong điểu kiện ánh sáng ngăn sẽ có lợi cho quá trình tích lũy vật chất. Trong cây, do thời gian sinh trưởng kéo dài, để qua giai đoạn ánh sáng, yêu cầu thời gian chiếu sáng trên 14 giờ/ngày. Nước: Rau cải, đặc biệt là bắp cải ưa ẩm, ưa thích tưới nước, không chịu hạn, cũng không chịu ngập úng. Cải bắp có nguồn gốc ỏ vùng ẩm ướt, hệ rễ cạn, khả năng hút nước ở tầng dưới đất dưới sâu kém, cây có nhiều lá, diện tích khá lớn, hàm lượng nước trong lá cao, cường độ thoát hơi nước của bắp cải lớn. Do đó cây bắp cải yêu cầu độ ẩm đất và không khí cao trogn suốt thời gian sinh trưởng. Khi đất và không khí thiếu ẩm cây sinh trưởng kém, còi cọc, lá nhỏ, cuốn chậm, bắp xốp, nhiều chất xơ dẫn đến năng suất và chất lượng đều giảm. Người ta tính toán một cây bắp cải một ngày đêm tiêu hao 10 lít nước. Năng suất cải bắp cao nhất nhất khi độ ẩm đất là 80%, độ ẩm không khí từ 85 – 90%. [1] 2.3.2.2. Cà chua: Nhiệt độ: Cà chua ưa khí hậu ấm áp, khả năng thích nghi rộng, vì vậy được sản xuất nhiều nơi trên thế giới; cà chua chịu được nhiệt độ cao, nhưng vẫn mẫn cảm với giá rét. Cà chua sinh trưởng trong phạm vi nhiệt độ 15 – 35oC, hầu hết những giống cà chua trồng trọt sinh trưởng không bình thường khi nhiệt độ dưới 15oC và trên 35oC. Nhiệt độ thích hợp nằm trong giới hạn từ 22 – 24oC, giới hạn nhiệt độ tối cao và tối thấp đối với sinh trưởng nảy mầm, tốt ở nhiệt độ 25 – 30oC, tối ưu là 29oC, trong giới hạn nhiệt độ 15.5 – 29oC nhiệt độ càng cao hạt nảy mầm càng nhanh. Cây con sinh trưởng tốt trong điều kiện nhiệt độ 25 – 26oC, quả đậu tốt ở nhiệt độ 18 – 20oC và phát triển thuận lợi khi nhiệt độ 20 – 22oC, sắc tố hình thành ở nhiệt độ 20oC, trên 35oC sắc tố bị phân giải; quả chín ở nhiệt độ từ 24 – 30oC. Cà chua qua giai đoạn xuân hoa có thể phân thành 3 loại: + Giai đoạn xuân hóa ở nhiệt độ 8 – 12oC. + Giai đoạn xuân hóa ở nhiệt độ 20 – 25oC. + Nhóm thứ 3 thuộc loại trung bình. Thời gian qua giai đoạn xuân hóa khoảng 9 – 10 ngày kể từ khi mọc. Ánh sáng: Cà chua là loại cây trồng không phản ứng với độ dài ngày vì vậy nhiều giống cà chua có thể ra hoa ở điều kiện thời gian chiếu sáng dài hoặc ngắn (cây trung tính). Nếu nhiệt độ thích hợp thì cà chua có thể sinh trưởng, phát triển ở nhiều vùng sinh thái khác nhau. Nhiều tác giả cho rằng, tất cả các giống cà chua trồng trọt đều thông qua giai đoạn ánh sáng với chế độ chiếu sáng 11 – 13 giờ/ngày. Avakiam (1936 - 1967) nghiên cứu 25 giống cà chua trong nhà kính và 50 giống cà chua trên đồng ruộng đã đi đến kết luận: không có giống nào điển hình cho ngày ngắn và ngày dài. Vấn đề này đã được thực tiễn sản xuất ở nước ta kiểm chứng trong nhiều năm qua. Cà chua là cây ưa ánh sáng mạnh, ánh sáng đầy đủ cây con sinh trưởng tốt, cây ra hoa, đậu quả thuận lợi, năng suất và chất lượng quả tốt. Thiếu ánh sáng hoặc trồng trong điều kiện ánh sáng yếu làm cho cây yếu ớt, lá nhỏ, mỏng, cây vống, ra hoa, quả chậm, dẫn đến năng suất và chất lượng giảm, hương vị nhạt. Thiếu ánh sáng nghiêm trọng dẫn đến rụng nụ, rụng hoa; ánh sáng yếu ức chế quá trình sinh trưởng, làm chậm quá trình chuyển giai đoạn từ sinh trưởng dinh dưỡng đến sinh trưởng sinh thực. Ánh sáng yếu làm cho nhụy phát triển không bình thường, giảm khả năng tiếp thụ hạt phấn của núm nhụy. Cường độ ánh sáng thích hợp cho cây cà chua sinh trưởng và phát triển của cây cà chua là 4.000 – 10.000 lux. Ở giai đoạn của thời kỳ ra hoa cần chế độ chiếu sáng 9 – 10 giờ trở lên trong ngày. Ánh sáng đỏ làm tăng tốc độ phát triển của lá, hạn chế chồi nách phát triển, thúc đẩy quá trình hình thành sắc tố lycopen và coroten. Ánh sáng lục làm tăng hàm lượng chất khô một cách mạnh mẽ. Chất lượng, cường độ và thời gian chiếu sáng ảnh hưởng đến chất lượng quả, đặc biệt là thành phần hóa học. Nước: Để tạo 1 tấn chất khô cà chua cần 570 – 600m3 nước, muốn có năng suất 50 tấn/ha cà chua cần lượng nước 6000m3/ha. Đất quá khô hạn hoặc thừa ẩm đều gây bất lợi cho cây cà chua, thiếu nước cây sinh trưởng còi cọc, quả chậm lớn, thiếu nước nghiêm trọng dẫn đến rụng nụ, rụng hoa. Nếu thừa ẩm, đặc biệt khi nhiệt độ không khí cao (95%) làm cho cây sinh trưởng mạnh, lá mềm, mỏng, giảm khả năng chống chịu điều kiện bất thuận và sâu bệnh hại, hàm lượng nước trong quả chín cao, giảm nồng độ các chất hòa tan, không chịu được vận chuyển và bảo quản. Nhu cầu của cà chua đối với nước thay đổi trong quá trình sinh trưởng. Hạt cà chua cần lượng nước từ 325 – 364% so với khối lượng bản thân để nảy mầm, khi độ ẩm đất là 70% thì số lượng hạt nảy mầm đạt cao nhất và số lượng cây giống đạt tiêu chuẩn cũng cao nhất. Độ ẩm đất thích hợp cho cà chua sinh trưởng và phát triển từ 70 – 80% và độ ẩm không khí 50 – 60%, khi độ ẩm không khí trên 60% cây cà chua dễ dàng bị nhiễm bệnh hại, đặc biệt là cây con. [1] 2.3.2.3. Cây cúc Nhiệt độ: Cây cúc có nguồn gốc ôn đới nên chỉ thích hợp với khí hậu mát mẻ hoặc nóng trung bình, nhiệt độ thích hợp cho cây cúc sinh trưởng và phát triển vào khoảng 16 – 18oC. Cúc có thể chịu được nhiệt độ từ 10 – 35oC nhưng dưới 10oC và trên 35oC cây cúc sinh trưởng và phát triển kém. Độ ẩm: Độ ẩm đất từ 60 – 70% và độ ẩm 55 – 65% rất thích hợp cho sự sinh trưởng của cây hoa cúc. Độ ẩm trên 80% cây cúc sinh trưởng mạnh nhưng tạo điều kiện cho nấm bệnh phát triển. Ánh sáng: Cây hoa cúc thuộc loại cây ngày ngắn, ưa sáng đặc biệt vào thời kỳ phân cành, cây cần nhiều ánh sáng để quang hợp tạo nên các chất hữu cơ cần thiết cho cây, tuy nhiên ánh sáng mạnh cũng làm cho cúc chậm lớn. Đối với cúc, thời gian chiếu sáng rất quan trọng, nói các khác ngày đêm dài hay ngắn có tác dụng rất khác nhau đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây hoa cúc. Trong điều kiện trồng tự nhiên, ở những vùng có vĩ độ cao cúc chỉ nở hoa vào mùa đông, đông xuân vì lúc này ngày ngắn đêm dài. Như vậy, màu cúc bắt đầu từ tháng 6, 7 hoặc 8 dương lịch và sẽ trổ bông vào tháng 11, còn nếu bắt đầu trồng vào mùa đông để có bông vào mùa hè, trong điều kiện tự nhiên là không được. Trong giai đoạn sinh trưởng của cây cúc cần ngày dài để phát triển thân, lá, chiều cao, và cần ngày ngắn để chuyển sang giai đoạn phát triển và ra hoa. Ngày nay người ta cần sản xuất hoa cúc cắt cành quanh năm bằng cách chiếu sáng nhân tạo để kéo dài ngày và che tối để tạo ngày ngắn. [4] 2.3.2.4. Hoa hồng Nhiệt độ và ánh sáng: Nhiệt độ thích hợp nhất cho cây hoa hồng phát triển là 18 – 25oC. Hồng là cây ưa sáng, thời gian chiếu sáng trong ngày càng dài càng tốt, cường độ ánh sáng 45.000 – 50.000 lux. Đa số giống hoa Hồng thích trồng nơi có nắng nhiều, chứ không thích trồng vào chỗ rợp, nơi có tàn cây lớn che phủ. Thời gian trong ngày mà được ánh sáng chiếu vào khoảng 8, 9 giờ là tốt nhất. Nắng sáng, trưa, chiều đều tốt; nắng trực xạ cũng chịu được nhưng nắng gắt quá, môi trường sống thiếu ẩm thì Hồng cũng chết lá, héo hoa. Nếu trồng vào nơi có thời gian rọi nắng ít trong ngày, cây hoa Hồng vẫn sống được, nhưng phát triển chậm, cây có nhiều lá, ít hoa, màu sắc hoa lợt lạt. Có một số giống trồng vào vùng thiếu nắng lại có khuynh hướng vươn thân lên cao trông khẳng khiu quá xấu. Đa số giống Hồng trồng nơi thiếu ánh nắng cần thiết lại dễ bị sâu bệnh tấn công. Được sống trong điều kiện có ánh nắng chiếu đầy đủ cây hoa Hồng sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, cho hoa nhiều, màu hoa sáng đẹp… Nhưng điều này không có nghĩa là cây Hồng phát triển tốt trong mùa nắng. Độ ẩm: Những tháng nắng gay gắt, không khí oi bức ngột ngạt, cây Hồng đòi hỏi phải được tưới nước nhiều và tưới nhiều lần trong ngày, nếu không hoa sẽ tàn mau, lá có khi phải rũ xuống vì mất nước. Hoa Hồng chịu mưa nhưng với lượng mưa vừa phải. Mùa mưa khí trời mát mẻ, dù thiếu tưới cây vẫn tươi xanh. Cây hoa Hồng trong mùa mưa phát triển mạnh, cành lá tươi tốt, nhưng ra ít hao. Hoa gặp mưa lại mau tàn. Cây hoa Hồng thích được tưới nước phủ phê trong mùa nắng, nhưng lại không chịu sống với nước ngập. Nơi trồng Hồng chỉ cần ngập gốc một buổi cây đã héo lá, xụ cành. Nếu ngập suốt ngày thì chắc chắn cây sẽ chết vì thối rễ. Để tránh trường hợp này, trồng Hồng ta phải trồng nơi khô ráo. Hễ gặp đất thấp thì phải lên liếp, lên luống trồng. Phải khai thông rãnh để phòng ngừa lúc mưa to nước được thoát hết đi. Ẩm độ không khí thích hợp là 80 – 85%, ẩm độ đất là 60 – 70%. Cây hoa Hồng thích sống ngoài nắng, nắng trong ngày càng chiếu nhiều càng tốt. Trời nắng sẽ làm cho môi trường trồng Hồng bị thiếu nước và nước trong thân cây Hồng cũng bốc hơi… Vì vậy cung cấp nước tưới cho cây Hồng là việc phải làm hàng ngày. Trong mùa nắng nên tưới mỗi ngày 2 lần: sáng và chiều. Tưới mát cho cây, tưới cho thật ẩm nhưng đừng để trương nước. Buổi trưa nắng gắt có thể tưới thêm một cữ nữa nhưng phải tưới nhiều nước, vì tưới quá ít nước sẽ làm cho đất nóng thêm lên làm tổn thương đến bộ rễ. Đôi khi vì đó mà dẫn đến việc cây Hồng phải chết héo. Buổi tối không nên tưới vì sẽ tạo môi trường tốt cho các loại nấm xâm nhập. Thông thoáng gió:Cây Hồng thích nghi với nơi thông thoáng, có gió nhẹ khoảng 3m/s. Nếu trồng nơi không thông thoáng cây phát triển chậm nhưng nếu gió to quá thì trồng Hồng lại không thích hợp vì gió to sẽ càn lướt cây Hồng, khiến gốc thường bị lung lay dẫn đến kiệt sức dần và hoa cũng chóng tàn. [5] CHƯƠNG III ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 3.1.1. Thời gian nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này và trong phạm vi cho phép của một chuyên đề tốt nghiệp, tôi đã tiến hành nghiên cứu từ ngày 10/2/2010 đến ngày 5/5/2010. 3.1.2. Địa điểm nghiên cứu Các khảo sát về nhà kính thuộc mảng nhà kính của các hộ nông dân sản xuất kinh doanh nhỏ được thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Lạt; các khảo sát thuộc mảng nhà kính của các doanh nghiệp được thực hiện tại Công ty Cổ phần Công nghệ sinh học Rừng Hoa Đà Lạt và Công ty TNHH Organik Đà Lạt, các khảo sát về nhà kính thuộc mảng nhà kính của các viện nghiên cứu, trường học được thực hiện tại nhà kính của Khoa Nông Lâm – Trường Đại học Đà Lạt 3.2. Đối tượng nghiên cứu Các dạng nhà che phủ đang được nông dân trên địa bàn thành phố Đà Lạt đưa vào sử dụng cho việc sản xuất, bao gồm: nhà mái hình chữ A không lệch, nhà mái chữ A lệch, nhà mái nghiêng nhiều lớp, nhà mái vòm dạng hình cung tròn…. Các dạng nhà che phủ đang được sử dụng tại các doanh nghiệp như: nhà kính dạng mái vòm và mái chữ A lệch đang được sử dụng trong khu sản xuất của Công ty Cổ phần Công nghệ sinh học Rừng Hoa Đà Lạt; dạng nhà mái chữ A lệch đang được sử dụng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_tn_ks_mot_so_mo_hinh_nha_kinh_nha_mang_tai_tp_da_lat_lam_dong_4274 (2).doc
Tài liệu liên quan