Khi thịtrường chứng khoán Việt Nam phát triển quá nóng, Ngân hành nhà nước Việt
Nam đã đưa ra những đềxuất vềcác giải pháp cấp bách đểkiểm soát đầu tưgián tiếp nuốc
ngoài. Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo của Thủtướng Chính phủ: Chúng ta vẫn đang ởgiai
đọan đầu tưthu hút vốn, do đó không thể đặt vấn đềkhống chếlên hàng đầu mà phải quản
lý theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho nguồn vốn này chảy vào đúng mạch, đúng chỗ,
đúng nơi. Đó là công việc rất quan trọng và cấp bách hiện nay.
Quan điểm này xuất phát từnhu cầu vốn cần thiết cho sựphát triển kinh tếViệt Nam
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời nhận thấy được cơhội và
tầm quan trọng của nguồn vốn FII.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm soát vốn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tích tỷ lệ vốn thực hiện so với mức vốn cam kết.
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 9
* Tỷ lệ vốn FDI giải ngân so với mức vốn đăng ký:
Năm Số DA Tổng số vốn đăng ký
Tổng số vốn thực
hiện (triệu USD)
Tỷ lệ
giải ngân (%)
2006 987 12,004.0 4,100.1 34
2007 1,544 21,347.8 8,030.0 38
2008 1,171 64,000.0 11,500.0 18
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tổng số vốn đăng ký tăng mạnh qua các năm. Nếu như
năm 2006 số vốn đăng ký là 12 tỷ USD, thì đến năm 2008 đã tăng lên 64 tỷ USD (gấp 5
lần). Tuy nhiên mức độ giải ngân nguồn vốn này còn rất thấp so với vốn đăng ký. Cụ thể tỷ
lệ giải ngân năm 2006 chỉ đạt 34%, đến năm 2008 chỉ còn 18%. Việc giải ngân vốn FDI còn
thấp có thể kể đến những nguyên nhân sau:
- Môi trường kinh tế vĩ mô Việt Nam đang có nhiều vấn đề như lạm phát cao, hơn nữa
họ nhìn thấy Việt Nam chưa khắc phục được những hạn chế cố hữu về thể chế, luật lệ, tính
dự báo của luật lệ...
- Sự yếu kém về quy hoạch, hạ tầng, đường đi thì thiếu, điện yếu, thiếu nhân lực chất
lượng cao và sự chậm chễ trong sự giải quyết công việc... Điển hình như khu vực Cái Mép -
Thị Vải có ba cảng đang thi công, nhưng không có đường vào. Đường vào không có thì dự
án không thể thực hiện việc thi công điện, nước và những công trình thành phần khác…
- Công tác quy hoạch lại có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về
bảo hộ sản xuất trong nước… Chỉ đến khi nào khắc phục được những hạn chế này thì lượng
FDI giải ngân mới tốt hơn được.
Bên cạnh đó, mặc dù nhận được ưu đãi lớn song các doanh nghiệp FDI thường tìm
cách "lờ" đi các điều khoản cam kết với địa phương về kinh tế, xã hội và môi trường.
Nghiên cứu của CIEM chỉ rõ, đóng góp của chủ doanh nghiệp FDI cho bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và công đoàn không hề vượt trội hơn so với các doanh nghiệp trong nước, thậm
chí có năm còn thấp hơn. Chỉ có 10% số doanh nghiệp này dành sự đầu tư thích đáng cho
phát triển bền vững nguồn nhân lực. Đáng lo ngại nhất là vấn đề môi trường, có tới 80%
doanh nghiệp FDI không đầu tư trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, 60 - 81% doanh
nghiệp không chịu chi cho hoạt động bảo vệ môi trường hàng năm.
Đến nay, mới chỉ có 28 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung; khoảng 20 KCN
khác đang xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư. Số đông còn lại chưa xây dựng do nhiều nguyên
nhân như năng lực tài chính hạn chế, ý thức tuân thủ luật bảo vệ môi trường không cao… Ô
nhiễm sông Thị Vải như là một điển hình của sự phát triển KCN.
* Khả năng hấp thụ vốn FDI của nền kinh tế:
- Thực tế cho thấy vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất, kinh doanh bất
động sản và các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, du lịch … đây là những ngành yêu
cầu cao về trình độ, trong khi đó nguồn cung lao động có thể đáp ứng được còn rất hạn chế.
Thực trạng này khiến nhiều dự án qui mô lớn bị chậm tiến độ thực hiện. Vì vậy, nếu không
có chính sách kinh tế hợp lý trong việc khuyến khích dịch chuyển lao động có tay nghề thì
vị thế của Việt Nam dưới con mắt nhà đầu tư nước ngoài rất dễ bị ảnh hưởng.
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 10
- Bên cạnh đó khối doanh nghiệp FDI cũng chính là khối có kim ngạch nhập khẩu rất
lớn và là một trong những nhóm doanh nghiệp đóng góp “tích cực” vào con số nhập siêu
tăng rất cao trong năm nay. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt
24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, nhưng khối doanh
nghiệp này cũng nhập khẩu tới 28,458 tỷ USD. Tổng nhập siêu xấp xỉ 4 tỷ USD của khối
này đã chiếm gần 1/4 thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008.
- Về vấn đề chuyển giao công nghệ, trong 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài, theo Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, số hợp đồng chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam chỉ mới
được ký kết khoảng 10 hợp đồng trong số khoảng 9.000 dự án đầu tư vào Việt Nam. Nhiều
bí quyết công nghệ bên Việt Nam vẫn chưa làm chủ được. Điều này có nghĩa là Việt Nam
vẫn còn phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, năng lực nội sinh của công nghệ chưa được
kiến tạo và phát huy.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dẫn đầu danh sách các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam là các doanh nghiệp châu Á như: Malaysia với 14,8 tỷ USD (26%), Đài
Loan với 8,6 tỷ USD (18,6%), Nhật Bản: 7,3 tỷ USD (15,7%), sau đó là Brunei,
Singapore… trong khi các doanh nghiệp Mỹ chỉ chiếm 1,4 tỷ USD (3%). Điều đó phản ánh
một thực tế là chúng ta mới chỉ tiếp cận được với các công nghệ trung bình hoặc trên trung
bình của các nước trong khu vực.
- Thị trường vốn Việt Nam còn ở giai đoạn phát triển sơ khai, cải cách doanh nghiệp
nhà nước chậm chạp là nguyên nhân dẫn tới những rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng. Bên
cạnh đó, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính (hệ thống thông tin, thanh
toán, tính minh bạch, khuôn khổ pháp lý...) cũng là những trở ngại không nhỏ trong việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường này. "Việt Nam cần một hệ thống ngân hàng có
khả năng chống chọi trước các dòng vốn lớn đổ vào"-ông Alain Cany, Giám đốc điều hành
Ngân hàng HSBC Việt Nam bình luận.
Một vấn đề lớn và mang tính hệ thống đặt ra đối với thị trường tài chính Việt Nam là
khả năng tự vệ của thị trường trước xu hướng các dòng vốn đang trở nên ngày càng linh
hoạt hơn. "Công nghệ hiện đại đang cho phép hàng tỷ USD được chuyển vào hoặc ra khỏi
thị trường chỉ với một cú nhắp chuột"-ông Michael Smith, Tổng giám đốc HSBC khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương cảnh báo. Và theo ông này, thì đây là thách thức "không chỉ
riêng đối với Việt Nam mà còn đối với hầu hết các nền kinh tế châu Á". Đó chính là thách
thức về việc xây dựng một hệ thống tài chính lành mạnh có thể chịu đựng được những giao
động không thể tránh khỏi của các dòng vốn.
- Trong thời gian gần đây, một loạt các vụ đình công trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài do chế độ trả công thiếu thoả đáng khi tình hình giá cả sinh hoạt tăng lên
nhanh chóng làm giảm thu nhập thực tế của công nhân, làm tăng tính chất “bần cùng” của
người lao động. Điều này, cho thấy tính chất phức tạp của an ninh về việc làm cho người lao
động Việt Nam nếu giới chủ không đáp ứng thoả đáng quyền lợi chính đáng của họ. Đây là
yếu tố vừa ngấm ngầm, vừa công khai phản ánh mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong
điều kiện hiện đại. Sự yếu kém của tổ chức công đoàn, sự kém hiểu biết của người lao động
và cơ chế quản lý hiệu quả không cao gần như đang tiếp sức thêm cho quyền lực và tính độc
quyền của nhà đầu tư nước ngoài trước yêu cầu cao về việc làm và thu nhập của người lao
động Việt Nam.
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 11
2.2.2 Kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp (FII):
Khi thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển quá nóng, Ngân hành nhà nước Việt
Nam đã đưa ra những đề xuất về các giải pháp cấp bách để kiểm soát đầu tư gián tiếp nuốc
ngoài. Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: Chúng ta vẫn đang ở giai
đọan đầu tư thu hút vốn, do đó không thể đặt vấn đề khống chế lên hàng đầu mà phải quản
lý theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho nguồn vốn này chảy vào đúng mạch, đúng chỗ,
đúng nơi. Đó là công việc rất quan trọng và cấp bách hiện nay.
Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu vốn cần thiết cho sự phát triển kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời nhận thấy được cơ hội và
tầm quan trọng của nguồn vốn FII.
2.2.2.1. Vai trò của vốn FII:
- Vốn đầu tư gián tiếp khi đổ vào Việt Nam sẽ tạo động lực hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư trong nước. Thực tế cho thấy, khi các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng qua các phiên
giao dịch trên TTCK sẽ tạo ra lực hút đối với nhà đầu tư trong nước, đó là họ sẽ đổ vốn
nhiều hơn vào TTCK và kết quả là tổng số vốn đầu tư trên thị trường sẽ tăng lên
- Việc tham gia của các nhà đầu tư gián tiếp sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường
tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị
thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động
“phi thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công
nghệ, quản lý…). Đồng thời khi FII gia tăng sẽ làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam
trở nên sôi dộng hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng. Bên cạnh đó sự
gia tăng dòng FII sẽ góp phần phát triển các định chế và dịch vụ tài chính – chứng khoán,
các dịch vụ tư vấn, bảo hiểm, kế tóan, kiểm tóan
- Vốn FII thường rót vào các DN do người VN nắm quyền chi phối về quản lý, giúp
DN trong nước tăng trưởng nhanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, tiến tới việc hình thành
các tập đoàn đa quốc gia mang thương hiệu VN. Thực tế, đã có nhiều điển hình thành công
theo mô hình này, qua con đường phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK
như: Vinamilk, Bảo Minh, Kinh Đô, ACB, Sacombank...
- Tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn
nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Thông qua quá trình tham gia của nhà đầu tư
gián tiếp, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi
dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói
riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị
trường hiện đại.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp và Nhà nước theo các nguyên
tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Cụ thể việc quản lý và quản trị doanh
nghiệp phát hành chứng khóan sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn về báo cáo tài
chính và minh bạch hóa thông tin, hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư gián tiếp sẽ phải
được hòan thiện, kiện toàn. Đồng thời nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và thực hiện
hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp.
Để thấy rõ hơn hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp tại Việt Nam, là giá trị
vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 12
Nếu như năm 2006 dòng vốn FII vào Việt Nam chỉ khoảng trên 1 tỷ USD thì đến cuối năm
2007 dòng vốn này đã tăng đáng kể khoảng 5-7 tỷ USD, điều này thể hiện rõ nét qua diễn
biến trên thị trường chứng khóan, đây là giai đọan TTCK Việt Nam rất sôi động với số
lượng các nhà đầu tư nước ngòai tham gia rất đông. Tuy nhiên đến năm 2008 dưới tác động
của khủng hỏan thế giới, vốn FII vào Việt Nam sụt giảm đáng kể khoảng 4 tỷ USD. Theo dự
báo của các chuyên gia năm 2009 thu hút vốn FII càng trở nên khó khăn, thậm chí vốn FII
sẽ ngừng chãy vào Việt Nam.
Bên cạnh những chính sách khuyến khích trong việc thu hút vốn FII, nguồn vốn này
cũng gặp một số hạn chế
2.2.2.2 Những hạn chế:
-Hạn chế về danh mục đầu tư: Theo quyết định số 260/2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư ban hành ngày 10/05/2002 ghi rõ các doanh nghiệp thuộc những lĩnh vực như kinh doanh
dịch vụ khách sạn, nhà hàng, vận tải đường bộ, đường ống, sản xuất thiết bị viễn thông, sản
xuất các dịch vụ tư vấn phần mềm máy tính … (35 ngành nghề) mới được bán cổ phần cho
nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, có nhiều ngành nghề đòi hỏi công nghệ cao, vốn của
nước ngoài để có điều kiện thành lập và phát triển doanh nghiệp nhưng chưa được phép gọi
vốn từ bên ngoài, chẳng hạn như ngành quản lý nợ, tài sản, bất động sản, dịch vụ định giá
doanh nghiệp, định mức tín nhiệm, tư vấn kiến trúc đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng …
- Hạn chế về mức thuế: Theo qui định về luật thuế, thì mức thuế suất đối với đối với
họat động mua bán, chuyển nhượng chứng khoán là 0,1%/doanh thu chịu thuế, điều này còn
một số hạn chế đó dù nhà đầu tư nước ngoài lãi hay lỗ vần phải nộp thuế trên mức chuyển
nhượng, trong khi đó giá trị đầu tư nước ngoài rất cao, vì vậy tổng số thuế phài nộp tương
đối nhiều. Đồng thời trong cấu trúc thuế có sự phân biệt giữa người Việt Nam và người
nước ngoài, cụ thể:
+ Mức thuế 1% đối với người Việt Nam có thu nhập từ 5 tr.đ/tháng trở lên và
người nước ngòai là 8 tr.đ/tháng trở lên;
+ Mức thu nhập áp dụng thuế suất 40% đối với người Việt Nam có thu nhập
trên 40 tr.đ/tháng, người nước ngòai thu nhập trên 80 tr.đ/tháng. Quy định này không
phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra sự bất bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế cũng như môi
trường kinh doanh trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bên cạnh đó việc qui định về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần đối với nhà đầu tư nước
ngòai vẫn còn nhiều hạn chế, trước khi Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg có hiệu lực thì tỷ lệ
sở hữu cổ phần tối đa của nhà đầu tư nước ngoài là 30%. Trong khi đó, khi TTCK Việt Nam
phát triển mạnh mẽ (giai đọan 2006-2007), nhà đầu tư nước ngòai rất mong đợi vào việc mở
room của Chính phủ để họ gia tăng tỷ lệ sở hữu đối với những doanh nghiệp mà họ muốn
đầu tư. Đến 15/04/2009 khi Quyết định số 55/2009 được ban hành cho phép nhà đầu tư
nước ngòai được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ của công ty cổ phần đại chúng (trừ một số
ngành như ngân hàng, năng lượng … thì tỷ lệ vẫn là 30%). Tuy nhiên đây là khỏan thời gian
TTCK Việt Nam đang đi xuống, việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngòai không còn mạnh
mẽ như trước, đây là một trong những hạn chế về chính sách thu hút vốn của nước ta.
2.2.3 Kiểm soát vốn ODA:
Nhờ thành công của đường lối đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước, nước ta đã vận động, thu hút được một lượng
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 13
đáng kể vốn ODA phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 1993 đến nay, cam
kết ODA năm sau cao hơn năm trước, nguồn vốn ODA đã được sử dụng để xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển
y tế, giáo dục và khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, cải cách hành chính, luật pháp.
Công tác quản lý nhà nước về ODA được tăng cường và từng bước đi vào nề nếp, tuy
nhiên vẫn còn một số hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Vì vậy, vấn
đề kiểm soát nguồn vốn ODA được xem là vấn đề quan trọng trong việc nâng cao uy tín của
Việt Nam trước thế giới, đồng thời gia tăng hiệu quả sử dụng vốn ODA. Để kiểm soát vốn
ODA, trước hết phải xác định được đối tượng sử dụng một cách hợp lý ở đầu vào, đồng thời
nâng cao tính minh bạch thông tin, hiệu quả sử dụng ở đầu ra.
2.2.3.1 Đối tượng sử dụng vốn ODA:
- Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và
vùng lãnh thổ để ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ
Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng
vốn ODA cho từng thời kỳ. Trong đó 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời
kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn
+ Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số)
+ Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên
+ Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển
giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai
- Cụ thể, nguồn vốn ODA sẽ tập trung vào đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng qui mô
lớn ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, các tuyến giao thông nối các vùng Bắc
Nam, hai hành lang một vành đai kinh tế, trục giao thông Đông – Tây, giao thông vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Đây là cơ sở cho quá trình tăng trưởng nhanh và xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam
- Đồng thời Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát và bào đảm đủ vốn đối
ứng cho các chương trình dự án ODA, sửa đổi cách giao chỉ tiêu kế hoạch vốn đối ứng để áp
dụng trong kế hoạch nhằm bảo đảm để các Bộ, cơ quan và tỉnh, thành phố linh hoạt phân bổ
vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA theo đúng tiến độ thực hiện đã thỏa thuận với
nhà tài trợ.
- Bên cạnh đó, nhà nước áp dụng chính sách thuế ưu đãi đối với dự án ODA cụ thể:
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 14
+ Đối với những dự án ODA viện trợ không hoàn lại được miễn hoàn toàn các
khoản thuế gián thu (gồm thuế nhập khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB), và được hoàn lại số
thuế GTGT đã trả khi trực tiếp mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT tại VN để thực hiện
dự án …
+ Đối với thuế trực thu thì việc miễn thuế được thực hiện trên cơ sở qui định
tại hiệp định về viện trợ không hoàn lại căn cứ theo điều kiện, tính chất, đặc điểm của từng
dự án ODA viện trợ không hoàn lại mà Chính phủ Việt Nam sẽ cam kết với nhà tài trợ việc
miễn thuế trực thu tại hiệp định
+ Chuyên gia nước ngoài làm việc cho các dự án ODA nếu được Bộ kế hoạch
và đầu tư cấp giấy xác nhận là chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án
ODA thì sẽ được hưởng ưu đãi về thuế, phí như: miễn thuế NK, thuế TTĐB, thuế GTGT, lệ
phí trước bạ và thuế thu nhập cá nhân theo qui định tại phần I Thông tư số 52/2000/TT-BTC
ngày 05/06/2000 của Bộ tài chính.
Từ chủ trương, định hướng kiểm soát nguồn vốn ODA một cách đúng đắn cùng với
kế hoạch phát triển kinh tế được đánh giá là đáng tin cậy và bền vững về mặt tài chính, đồng
thời được đảm bảo bằng những biện pháp thực hiện thiết thực. Vì thế, Việt Nam càng tạo
niềm tin cho các nhà tài trợ cụ thể là nguồn vốn ODA được cam kết, ký kết và giải ngân
tăng dần qua các năm:
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
19
93
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
Năm
Tr
iệ
u
U
SD Cam kết
Ký kết
Giải ngân
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 15
Cùng với việc kiểm soát nguồn vốn ODA ở đầu vào là việc nâng cao tính minh bạch
thông tin và hiệu quả sử dụng vốn ODA ở đầu ra.
2.2.3.2 Công tác chống tham nhũng trong việc sử dụng nguồn vốn ODA:
- Chính phủ chỉ đạo Bộ tài chính đưa ra các văn bản cần thiết để tinh giản hóa các
quy trình, thủ tục kiểm soát chi, thanh toán khối lượng hoàn thành, thủ tục giải ngân vốn
ODA, rà soát các định mức chi tiêu của các Ban Quản lý dự án
- Đồng thời nhằm phát huy vai trò của báo chí trong phòng chống tham nhũng, Thủ
tướng chính phủ đã ký ban hành quy chế về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí,
trong đó yêu cầu các cơ quan, đơn vị phải tạo điều kiện để các cơ quan ngôn luận tiếp cận
đầy đủ chính xác nguồn thông tin chính thống về hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Bên cạnh việc phát huy nội lực, Việt Nam cũng đã tăng cường mở rộng hợp tác với
các nước như Inđônêxia, Lào trong công tác phòng chống tham nhũng, ký thỏa thuận đa
phương về phòng chống tham nhũng gồm 8 nước ASEAN, qua đó khẳng định quyết tâm
của Việt Nam đối với công tác này.
Để khẳng định quyết tâm phòng chống tham nhũng. Lần đầu tiên, Thủ tướng Việt
Nam xuất hiện và đối thoại trực tiếp với các nhà tài trợ với một cam kết rõ ràng, Việt Nam
sẽ đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, đảm bảo các nguồn vốn đầu tư
nói chung trong đó vốn ODA được quản lý và sử dụng hiệu quả. Thông điệp này được thể
hiện bằng hành động thực tế khi Việt Nam gửi đến Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ bản báo
cáo chi tiết về vụ việc PMU 18 và những kết quả xử lý của vụ án gây nhiều quan ngại cho
các nhà tài trợ trong thời gian qua và gần đây nhất là vụ PCI.
Qua vụ việc PCI đã được hai nước (Việt Nam và Nhật Bàn) áp dụng các biện pháp
như thiết lập đường dây nóng, công khai thông tin đấu thầu, mời bên thứ ba cùng đánh giá
thầu và tăng cường giám sát kiểm tra đối với quá trình đấu thầu. Bên thứ ba phải là đơn vị
có chuyên môn cao trong các cơ chế, chế độ đấu thầu thực hiện các hợp đồng đấu thầu quốc
tế.
Việc kiểm soát dòng vốn ODA được minh chứng cụ thể đối dự án được ký kết giữa
Tổng công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (Bộ giao thông vận tải) với nhà thầu
Nippon Koei (Nhật Bản) và Công ty cổ phần tư vấn giao thông vận tải phía Nam về dịch vụ
tư vấn, giám sát xây dựng đường cao tốc TP.HCM-Long Thành-Dầu Giây với tổng giá trị
trung thầu khoản 18 triệu USD.
Các bước tiến hành gói thầu này sẽ tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp cần thiết theo
quy định của Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – Nhật Bản về phòng chống tham nhũng liên quan
đến ODA Nhật Bản đưa ra nhằm phòng chống tham nhũng trong các dự án sử dụng vốn
ODA từ Nhật, trong đó Việt Nam sẽ tăng cường tính minh bạch trong quá trình chọn thầu và
phía Nhật cam kết đẩy mạnh hoạt động giám sát. Cụ thể:
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 16
+ Việt Nam sẽ nâng cao năng lực cho cơ quan thực hiện dự án về công tác đấu
thầu và quản lý hợp đồng trong dự án ODA, cùng với đẩy nhanh việc áp dụng hệ thống đấu
thầu điện tử từ năm 2009 đến 2015.
+ Việt Nam sẽ công bố thông tin liên quan đến mua sắm công, thông tin cần
được công bố gồm tên, quốc tịch và giá chào thầu của các đơn vị, doanh nghiệp trúng thầu,
các nhà thầu giành được hợp đồng và giá trị hợp đồng.
Quá trình kiểm soát vốn đã đạt được những mục tiêu nhất định nhưng bên cạnh đó là
cái giá phải trả cho việc kiểm soát vốn không phải ít.
2.3 Mục tiêu đạt được và cái giá phải trả cho việc kiểm soát vốn:
2.3.1 Mục tiêu đạt được:
Từ những quan điểm, chính sách của Chính phủ Việt Nam về việc thu hút nguồn vốn
đầu tư đã đạt được một số kết quả sau:
- Tổng vốn đầu tư của toàn xã hội tăng dần qua các năm, trong đó có sự đóng góp
đáng kể từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Giá trị vốn đầu tư tại Việt Nam qua các năm
Chia ra
Tổng số Kinh tế
Nhà nước
Kinh tế ngoài
nhà nước
Khu vực có vốn
đầu tư nước
ngoài
Giá thực tế Tỷ đồng
2006 404712 185102 154006 65604
2007 461900 200000 187800 74100
2008 637300 184400 263000 189900
Nguồn: Tổng cục thống kê
- Tạo không khí sôi động cho thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam vốn còn non
trẻ. Đó là giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện thu hút được nhiều nguồn vốn đầu
tư để mở rộng sản xuất kinh doanh, đồng thời kích thích sự “hưng phấn” từ các nhà đầu tư
trong nước;
- Bên cạnh việc hấp thụ vốn là việc tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật từ các chuyên gia
nước ngòai để từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật nhà nước về các chính
sách đầu tư, đồng thời tạo điều kiện để thị trường tài chính Việt Nam phát triển theo hướng
đa dạng và chuyên sâu hơn và bảo vệ sự ổn định về tài chính và tiền tệ.
- Đối với nguồn vốn ODA, với chính sách phân cấp thời gian qua đã mở rộng được
đối tượng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong việc ra quyết định hoạt động kinh tế - xã
hội quan trọng ở địa phương. Địa phương cũng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, ngành
cung cấp hơn, đồng thời điều phối hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tình, huyện, tạo
Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
[
GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 17
cơ hội tốt hơn cho người dân tham gia quyết định, từ đó góp phần cải thiện được phúc lợi
kinh tế, xã hội.
2.3.2. Chi phí phải trả cho việc kiểm soát vốn:
- Cái giá chung nhất cho việc kiểm soát vốn chính là sẽ làm chậm lại các cơ hội thu
hút vốn đầu tư khi mà các quốc gia ngày càng cạnh tranh quyết liệt để thu hút dòng vốn toàn
cầu đồng thời ảnh hưởng đến tâm lý và chiến lược của các nhà đầu tư nước ngoài
- Kiểm soát vốn làm chi phí giao dịch vốn tăng cao (tính trên tổng qui mô dự án).
Theo nhiều khảo sát, chi phí giao dịch tại Trung Quốc là 1,2%, Việt Nam là 2%, Hong Kong
chỉ 0,013%.
- Việc thu hút ồ ạt nguồn vốn đầu tư gián tiếp, trong khi khả năng hấp thụ nguồn vốn
này còn hạn chế, từ đó gây khó khăn trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Cụ thể trong thời
gian qua NHNN phải đưa đồng nội tệ ra để thu hút ngọai tệ vào để bình ổn tỷ giá, kết quả là
gia tăng tỷ lệ lạm phát và làm giảm tỷ lệ dự trữ ngọai hối của quốc gia.
- Với chính sách kêu gọi, ưu đãi đầu tư đã dẫn đến tình trạng khai thác triệt để nguồn
tài nguyên quốc gia, gây mất cân bằng trong ngành nghề, lĩnh vực … (nhiều sân Golf được
hình thành, trong khi tỷ lệ đất sản xuất nông nghiệp ngày bị thu hẹp) từ đó gây ra những hệ
quả như: thất nghiệp, và đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng
(điển hình là bột ngọt Vedan).
- Việc không hạn chế nguồn vốn ODA đã làm cho tỷ lệ nợ nước ngòai của Việt Nam
ngày càng tăng và cùng với tình trạng thất thóat lãng phí nguồn vốn này đã làm giảm uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế (đặc biệt là Nhật Bản).
2.4 Các biện pháp kiểm soát quá trình đảo ngược dòng vốn quốc tế:
Như chúng ta đã biết, dòng vốn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kiem soat von cua VN.pdf