PHỤ LUC
Trang
A- ĐẶT VẤN ĐỀ 1
I. LỜI MỞ ĐẦU 1
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 3
1.Thực trạng 3
2. Kết quả thực trạng 3
B. GIẢI QUẾT VẤN ĐỀ 4
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 4
1. Giải pháp chung 4
2. Giải pháp cụ thể 6
3. Quy trình thực hiện 7
II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 8
C. KẾT LUẬN 14
I. KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU 14
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT 16
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13779 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kỹ năng vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học Địa lý 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm của môn Địa lý là có sự quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên, với các hoạt động sản xuất trong xã hội, nên các hình thức tổ chức dạy học địa lý cũng có nhiều điểm khác biệt với một số môn học khác ở chỗ: Nó vừa có hình thức dạy học trong lớp, vừa có hình thức dạy học ngoài lớp.
Ngoài hai hình thức trên, hình thức thảo luận là hình thức tổ chức dạy học trung gian giữa trong và ngoài lớp. Hình thức này đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị ý kiến về vấn đề nhất định, rồi tiến hành thảo luận. Buổi thảo luận của học sinh THCS thường được tiến hành ngay trong tiết học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên hoặc của một học sinh do giáo viên chỉ định.
Hình thức thảo luận thường được áp dụng ở các lớp từ THCS trở lên. Nó có tác dụng rõ rệt đến việc giúp học sinh mở rộng kiến thức, bày tỏ thái độ, đào sâu thêm những vấn đề học tập trên cơ sở phân tích, nhận xét phát triển tư duy khoa học, rèn luyện phương pháp nghiên cứu, lập luận, trình bày vấn đề.
Dạy học nhóm là hình thức xã hội của dạy học, trong đó học sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc, kết quả làm việc theo nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.
Dạy học nhóm còn được sử dụng bằng những tên gọi khác nhau như dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm nhỏ. Dạy học nhóm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là một hình thức xã hội, hay hình thức hợp tác của dạy học. Cũng có tài liệu gọi đây là một hình thức tổ chức dạy học. Tùy theo nhiệm vụ cần gải quyết trong nhóm mà có những phương pháp làm việc khác nhau được sử dụng. Khi không cần phân biệt giữa hình thức và phương pháp dạy học cụ thể thì dạy học nhóm trong nhiều tài liệu cũng được gọi là phương pháp dạy học nhóm.
Dạy học nhóm được áp dụng cho nhiều vấn đề, nội dung giảng dạy của môn học Địa lý. Tuy nhiên đối với các vấn đề có cấu trúc tương tự nhau, nhưng có liên quan với nhau về cấu trúc chung, mỗi nhóm độc lập giải quyết một vấn đề, hoặc các vấn đề tổng hợp đòi hỏi tính khái quát cao thì dạy học nhóm phù hợp hơn cả.
Hơn nữa mục tiêu giáo dục hiện nay rất chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ở tất cả các khối lớp, mà không có một biện pháp nào đem lại kết quả khả quan bằng phương pháp thảo luận nhóm. Qua phương pháp này giúp các em rèn luyện các kĩ năng sống như: tư duy, tự nhận thức, giao tiếp, làm chủ bản thân…
Với cương vị là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy chương trình lớp 6, tôi nhận thấy môn học Địa lý ở lớp 6 rất trừu tượng, có nhiều vấn đề khó, hơn nữa mới bước sang cấp học mới, cách học mới nên các em còn nhiều bỡ ngỡ, tự ti, không dám trình bày suy nghĩ, ý kiến của mình. Kiến thức khó, trừu tượng, đặc biệt trong chương trình có nhiều bài thực hành rèn luyện kĩ năng, nếu chỉ để giáo viên giảng, hướng dẫn thì các em sẽ bị động và không tiếp thu được. Hơn nữa sự tưởng tượng của trò có một khoảng cách xa với sự tưởng tượng của thầy nên vận dụng phương pháp thảo luận giúp các em cùng một mức độ hiểu biết nếu trao đổi trình bày cho nhau dưới sự hướng dẫn của thầy giúp các em sẽ hiểu bài nhanh hơn. Tôi thấy việc tập cho các em có khả năng giao tiếp, hợp tác trong học tập, tìm hiểu kiến thức và đặc biệt là khả năng trình bày trước đám đông là rất cần thiết. Một lí do nữa là tập cho các em làm quen dần với các phương pháp mới ngay từ khi các em vừa bước sang cấp học mới thì đến những lớp học cao hơn các em sẽ vận dụng thành thạo phương pháp học này thì giáo viên cũng đỡ vất vả trong việc tổ chức học nhóm ở các năm học sau.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1.Thực trạng.
Từ trước đến nay, thảo luận chỉ được coi là một biện pháp hỗ trợ cho việc học tập ở ngoài lớp của học sinh. Thực ra, phương pháp cho học sinh thảo luận ở trên lớp có tác dụng rất tốt cho việc phát huy tối đa tính tích cực của học sinh. Đồng thời, quá trình thảo luận dước sự hướng dẫn của giáo viên cũng tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa giáo viên và học sinh, giúp cho giáo viên nắm được hiệu quả giáo dục về mặt nhận thức cũng như có thái độ, quan điểm, xu hướng hành vi của học sinh.
Trước đây thường quan niệm phương pháp thảo luận là một phương pháp thích hợp với các học sinh lớn tuổi ở các lớp cuối cấp trong các trường phổ thông. Tuy nhiên, trong nhà trường của chúng ta, phương pháp này còn ít sử dụng và đặc biệt là rất ít được sử dụng ở việc giảng dạy Địa lý 6. Có nhiều nguyên nhân giải thích tình hình này. Có thể là do thời gian eo hẹp, sự sắp xếp thời khóa biểu chưa hợp lý, cơ sở vật chất thiếu thốn (phòng, lớp không đủ cho các nhóm học sinh thảo luận) v.v.. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là do phương pháp này chưa được chú trọng đúng mức, không được coi như một phương pháp dạy học chính thức ở trên lớp. Và các giáo viên giảng dạy ở lớp 6 thường ngại các em còn nhỏ, bài học dài, kiến thức khó nên có thể nói thường sử dụng biện pháp thuyết trình cũ mà chưa quan tâm đến việc phát huy tính tích cực của các em.Tôi là một giáo viên đã giảng dạy nhiều năm ở lớp 6 tôi cũng gặp nhiều khó khăn khi tiến hành phương pháp dạy học này. Và chính những chăn trở đó đã trở thành động lực để tôi viết nên đề tài này.
2. Kết quả thực trạng:
Qua kết quả học tập nhiều năm học trước và cụ thể là thống kê khảo sát chất lượng sau học kì I của học sinh khối 6 trường THCS Định Tân - Yên Định năm học 2009 - 2010 như sau:
Lớp 6A: Lớp đối chứng.
Lớp 6B: Lớp thực nghiệm.
Lớp
Tổng số bài
Loại giỏi
Loại khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
32
0
0
4
12.5
16
50
12
37.5
6B
35
0
0
5
14
14
40
16
46
Chúng ta thấy rõ ràng kết quả học tập chưa cao, chưa có học sinh giỏi, tỉ lệ học sinh khá còn ít, loại TB và yếu nhiều, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục ảnh hưởng đến chất lượng chung của sự nghiệp giáo dục và sự phát triển xã hội.
Trước thực trạng đó, tôi luôn nghiên cứu tài liệu, học hỏi điều chỉnh trong từng tiết học giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, phát huy tính tư duy sáng tạo, rèn luyện khả năng hợp tác gây hứng thú học tập bộ môn, chú trọng rèn luyện được các kĩ năng cần thiết, đặc biệt là kỹ năng vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học Địa lý 6
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Nếu muốn thành công với dạy học nhóm thì người giáo viên phải nắm vững phương pháp thực hiện. Dạy học nhóm đòi hỏi giáo viên phải có năng lực lập kế hoạch và tổ chức, còn học sinh phải có sự hiểu biết về phương pháp, được luyện tập và thông thạo cách học này. Khi lập kế hoạch, công việc nhóm phải được phản ánh toàn bộ trong quá trình dạy học. Ví dụ cần phải suy nghĩ xem cần sự hướng dẫn của giáo viên như thế nào để các nhóm có thể làm việc một cách hiệu quả. Điều kiện để học sinh đạt được thành công trong học tập cũng là phải nắm vững các kỹ thuật làm việc cơ bản. Thành công của nhóm còn phụ thuộc vào việc đề ra các yêu cầu công việc một cách rõ ràng và phù hợp.
1. Giải pháp chung.
a. Tìm hiểu khái niệm về phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm là phương pháp được tiến hành ở trong lớp, học sinh được chia làm nhiều nhóm nhỏ, có thể là theo cặp hoặc theo số lượng học sinh từ 4 đến 6 em. Nhiệm vụ của nhóm có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một bài hay một chủ đề chung.
Bản chất của phương pháp này là phương pháp tổ chức cho học sinh học tập theo các nhóm nhỏ để giải quyết các vấn đề / thực hiện các nhiệm vụ có lien quan đến nội dung bài học.
b. Tìm hiểu về ưu điểm, nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm.
* Ưu điểm:
Phương pháp dạy học hợp tác tạo thuận lợi cho học sinh được giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ để trình bày những hiểu biết của mình cho bạn học nghe, đồng thời được lắng nghe và bàn bạc về những nội dung bạn trình bày. Nhờ vào việc học trong nhóm, học sinh phát triển được năng lực tự đánh giá (trong khi so sánh ý kiến của mình và của các bạn trong nhóm với ý kiến của giáo viên) và sự tự tin ở bản năng, phương pháp làm việc và thái độ của học sinh.
Khi làm việc theo nhóm, học sinh xử lý các tài liệu mới, tự mình tìm hiểu và cùng các bạn trong nhóm thảo luận xoay quanh một bài cụ thể. Hoạt động thảo luận làm cho việc học theo nhóm thường sôi nổi và trong môi trường học tập đó, ngay cả các học sinh nhút nhát, ít phát biểu trong lớp cũng sẽ mạnh dạn tham gia xây dựng bài. Như vậy, hoạt động nhóm mang lại cho học sinh những cơ hội thuận lợi để làm quen với nhau, gắn bó với nhau bởi hoạt động tập thể và tạo nên động cơ để học sinh tích cực hoạt động, đặc biệt khi có yếu tố cạnh tranh (thi đua). Hơn thế nữa, hầu hết các hoạt động nhóm đều mang trong nó cơ chế tự sửa các lỗi hiểu sai của nhau trong bầu không khí rất thoải mái. Với hoạt động làm việc nhóm, học sinh có thể cùng nhau hoàn thành một nhiệm vụ, đạt được những điều mà các em không thể làm được một mình.
* Nhược điểm:
+ Sử dụng phương pháp này thường mất nhiều thời gian.
+ Phương pháp này chỉ thực sự có hiệu quả khi dung lượng kiến thức trong một bài không quá nhiều, số lượng học sinh trong một lớp không quá đông ... và giáo viên phải theo dõi sát sao hoạt động của các nhóm.
2. Giải pháp cụ thể.
Để cho việc sử dụng phương pháp hướng dẫn học sinh thảo luận có kết quả tốt, giáo viên cần quan tâm đến 2 khâu công việc rất quan trọng là: chuẩn bị nội dung thảo luận và tổ chức thực hiện công việc thảo luận.
a. Chuẩn bị nội dung thảo luận:
Cần chọn bài, chọn vấn đề thích hợp cho học sinh thảo luận, những bài cho học sinh thảo luận thường là những bài không khó về mặt nội dung nhưng lại có một vấn đề được nhiều người quan tâm, có nhiều cách giải quyết khác nhau. Những vấn đề này thường dễ gây hứng thú cho học sinh, lôi cuốn các em tích cực tham gia vào cuộc thảo luận. Nhất thiết không nên chọn những vấn đề mà cách giải quyết đã rõ. Việc thảo luận sẽ biến thành một cuộc tham gia minh họa, làm rõ thêm cho vấn đề trong quá trình thảo luận, giáo viên cần tạo điều kiện để cho học sinh mạnh dạn, tự do để phát biểu ý kiến riêng của mình. Như vậy không phải bài nào cũng thích hợp với phương pháp này. Việc lựa chọn bài không chính xác sẽ làm cho buổi thảo luận khô khan, tẻ nhạt thiếu sôi động, dẫn đến hiệu quả giáo dục thấp.
Khi đã chọn được bài đúng yêu cầu, giáo viên cần báo cho học sinh tự nghiên cứu trước bài đó, vấn đề đó ở nhà, để chuẩn bị ý kiến phát biểu. Ý kiến chuẩn bị của học sinh phải được ghi ra giấy. Sau buổi thảo luận, giáo viên thu để kiểm tra (Có thể cho điểm).
Sau đây là các câu hỏi kiểm tra dùng cho việc chuẩn bị dạy học nhóm:
- Chủ đề có phù hợp với dạy học nhóm không?
- Các nhóm làm việc với nhau nhiệm vụ giống nhau hay khác nhau?
- Học sinh có đủ kiến thức, điều kiện cho công việc nhóm chưa?
- Cần trình bày làm việc nhóm như thế nào?
- Cần chia nhóm theo tiêu chí nào?
Cần tổ chức bàn ghế, lớp học như thế nào?
Nếu đặt ra câu hỏi và giải đáp cho các câu hỏi đó thì đã góp 1 ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự thành công của buổi thảo luận.
b. Tổ chức thảo luận:
+ Trước buổi thảo luận, giáo viên cần nêu lại một lần nữa yêu cầu, mục đích và nội dung của vấn đề cần thảo luận. Sau đó chỉ định người điều khiển cuộc thảo luận (Có thể là lớp trưởng).
+ Nếu có địa điểm, lớp có thể phân thành nhiều nhóm để thảo luận. Trong quá trình trao đổi, giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến thảo luận (Có thể phát biểu ý kiến về cách làm nếu cần).
Khi gần kết thúc thảo luận, giáo viên tập hợp những ý kiến đã trao đổi bổ sung, giải thích thêm và kết luận.
Thông thường thời gian thảo luận trong 1 tiết không nhiều, trong trường hợp cuộc thảo luận vẫn còn nhiều ý kiến chưa kết thúc thì giáo viên có thể cho học sinh sắp xếp thời gian, thảo luận tiếp vào giờ tự học và việc tổng kết để vào hôm khác.
* Một số chú ý khi thực hiện dạy học nhóm:
- Cần luyện cho học sinh quy tắc làm việc nhóm.
- Trao đổi để tiến hành làm việc nhóm.
- Luyện tập về kỹ năng làm việc nhóm.
- Duy trì trật tự cần thiết trong làm việc nhóm.
- Giáo viên quan sát, hỗ trợ các nhóm học sinh.
- Giúp ổn định các nhóm tri làm việc cần thiết.
3. Quy trình thực hiện
- Bước 1: Hình thành các nhóm làm việc.
Bước này bao gồm các công việc cụ thể sau đây:
+ Tổ chức nhóm: Nhóm thông thường có từ 4 đến 8 người, mỗi nhóm có một nhóm trưởng và một thư ký.
+ Chỉ định chỗ làm việc của các nhóm (Nếu giáo viên quyết định bố trí lại cách kê bàn ghế trong lớp thì phải nêu rõ yêu cầu trước khi cho học sinh xê dịch bàn ghế).
+ Giao nhiệm vụ cho các nhóm (nhiệm vụ phải được viết ra và cách thực hiện phải được hướng dẫn rõ ràng).
- Bước 2. Các nhóm thực hiện công việc.
Các nhóm làm việc theo trình tự sau:
+ Nhóm thỏa thuận các công việc cần thực hiện, cách thực hiện và phân công công việc trong nhóm.
+ Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm để hoàn thành nhiệm vụ được giao (Trường hợp tất cả các nhóm cùng thực hiện một nhiệu vụ) hoặc các thành viên trong nhóm báo cáo cho nhóm về nội dung và cách trình bày cho những thành viên trong nhóm khác (nếu các nhóm khác thực hiện cùng một nhiệm vụ).
+ Phối hợp các công việc của các cá nhân thành “sản phẩm chung” của nhóm.
+ Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp (trường hợp tất cả các nhóm cùng thực hiện một nhiệm vụ) hoặc với các nhóm khác (nếu các nhóm không thực hiện cùng một nhiệm vụ).
- Bước 3. Tổng hợp kết quả của các nhóm.
Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm; các nhóm khác quan sát, lắng nghe, nhận xét và bổ sung ý kiến.
- Bước 4. Giáo viên tóm tắt ý kiến phản hồi từ các nhóm, sau đó cùng thảo luận với cả lớp để chốt lại những nội dung chủ yếu của bài học. Cuối cùng, giáo viên nhận xét kết quả làm việc của các nhóm và tổng kết.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Không phải tất cả các bài học ở chương trình lớp 6 đều phù hợp với phương pháp này nhưng cũng không ít bài có thể vận dụng được.Tuy nhiên nội dung của đề tài có giới hạn nên tôi chọn một số bài có nội dung tương đối khó và trừu tượng có nhiều khái niệm khó nên hoạt động của học sinh được tổ chức theo cặp và nhóm là rất phù hợp.
Tiết 10/ Bài 9
Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức
Trình bày được hiện tượng ngày, đêm dài ngày theo mùa ở các vĩ độ khác nhau trên Trái Đất.
2.Kỹ năng:
Sử dụng được hình vẽ để trình bày được hiện tượng ngày đêm dài ngắn ở các địa điểm có vĩ độ khác nhau xác định được các chí tuyến, vòng cực trên hình vẽ và trên quả địa cầu.
II. CHUẨN BỊ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Quả địa cầu.
Tranh “ Hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo mùa”
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Mở bài:
2. Bài mới:
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung chính
Hoạt động 1: Tìm hiểu hiện tượng ngày, đêm dài ngắn ở các vĩ độ khác nhau trên trái đất.
* Mục tiêu: Biết được hiện tượng ngày đêm dài ngắn ở các vĩ độ khác nhau trên trái đất là hệ quả chuyển động quanh mặt trời của trái đất.; Khái niệm chí tuyến.
* Thời lượng: 20 phút
* Cách tiến hành: (Nhóm /lớp)
- Giáo viên treo tranh “Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa” cho học sinh quan sát và phân biệt đường biểu hiện trục trái đất (Bắc, Nam) và đường phân chia sáng tối,
- Giáo viên chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm:
+ Nhóm 1,2, 3 trả lời các câu hỏi của phiếu học tập số 1.
+ Nhóm 4,5, 6 trả lời các câu hỏi của phiếu học tập số 2.
- Giáo viên phát phiếu học tập, treo bảng phụ nội dung của phiếu học tập số 1 và số 2.
Phiếu học tập số 1:
Quan sát hình 24 và đọc mục 1 trong sách giáo khoa, trả lời các câu hỏi sau:
1. Vì sao đường biểu hiện trục Trái Đất (Bắc, Nam) và đường phân chia sáng tối không trùng nhau?
2. Vào các ngày 22/6 hoặc 22/12, nửa cầu nào ngả về phía Mặt Trời, nửa cầu nào chếch xa phía Mặt Trời.
3. Vào các ngày 22/6 hoặc các ngày 22/12, ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc với mặt đất ở vĩ tuyến bao nhiêu? Vĩ tuyến đó là đường gì?
Phiếu học tập số 2.
Quan sát hình 25 và đọc mục 1 trong SGK và trả lời các câu hỏi sau:
1: Sự khác nhau về độ dài của ngày, đêm của các địa điểm A, B ở nửa cầu Bắc và các địa điểm tương ứng A’, B’ ở nửa cầu Nam vào các ngày 22/6 và 22/12?
2. Nhận xét hiện tượng ngày đêm dài ngắn của những địa điểm nằm ở các vĩ độ khác nhau?
3. Rút ra kết luận về hiện tượng ngày, đêm dài ngắn trên Trái Đất.
- Học sinh thảo luận nhóm 10 phút đại diện một vài nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
1. Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn ở các vĩ độ khác nhau trên Trái Đất
- Giáo viên tóm tắt chuẩn xác kiến thức:
- Ngày 22/6 nửa cầu Bắc là mùa hạ, có ngày dài, đêm ngắn; nửa cầu Nam là mùa đông, có ngày ngắn, đêm dài; ngày 22/12 hiện tượng ngược lại.
Kết luận: Mùa hạ có ngày dài, đêm ngắn; mùa đông có ngày ngắn, đêm dài.
- Càng xa xích đạo về phía hai cực, hiện tượng ngày đêm dài, ngắn càng biểu hiện rõ rệt.
- Ngày 21/3 và 23/9, mọi nơi trên Trái Đất có ngày đêm dài bằng nhau.
- Các địa điểm nằm trên đường Xích Đạo có ngày và đêm bằng nhau.
- Vĩ tuyến 23027’B và 23027’N là chí tuyến Bắc và Nam, đây là những đường mà ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc vào mặt đất trong ngày 22/6 và 22/12.
Hoạt động 2: Tìm hiểu hiện tượng ngày đêm dài 24 giờ ở hai miền cực.
* Mục tiêu: Biết được ở hai miền cực số ngày có ngày, đêm dài 24 giờ thay đổi theo mùa; Khái niệm vòng cực
* Thời lượng: 15 phút.
* Cách tiến hành: (Cặp).
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 25 trong sách giáo khoa và trả lời các yêu cầu ở mục 2.
- Học sinh trao đổi theo cặp (khoảng 5 phút).
- Giáo viên gọi một vài học sinh phát biểu.
2. ở hai miền cực có số ngày, đêm dài suốt 24 giờ thay đổi theo mùa.
- Giáo viên tóm tắt, chuẩn xác kiến thức và giải thích thêm về:
+ Số ngày hoặc đêm dài 24 giờ theo mùa ở các vĩ độ 66033’ Bắc và Nam.
+ Khái niệm vòng cực.
- Giáo viên hỏi: Nguyên nhân của hiện tượng ngày đêm dài ngắn khác nhau theo vĩ độ trên Trái Đất.
- Ngày 22/6 và 22/12 các địa điểm ở các vĩ tuyến 66033’ Bắc và Nam đến hai cực có số ngày hoặc đêm dài 24 giờ.
- Các địa điểm ở các vĩ tuyến 66033’ Bắc và Nam đến hai cực có số ngày hoặc đêm dài 24 giờ dao động từ 1 ngày đến 6 tháng tùy theo mùa.
- Các địa điểm nằm ở cực Bắc và cực Nam có ngày hoặc đêm dài suốt 24 giờ trong 6 tháng tùy theo mùa.
- Các vĩ tuyến 66033’ Bắc và Nam là các vòng cực Bắc và Nam. Các vòng cực là những đường giời hạn khu vực có ngày hoặc đêm dài 24 giờ.
3. Đánh giá.
IV. Hoạt động nối tiếp.
Trả lời các câu hỏi ở phần câu hỏi và bài tập cuối bài.
Tiết 12/ Bài 10:
cấu tạo bên trong của trái đất
Phần 1
Hoạt động của GV và HS
Nội dung chính
Mục tiêu: Nêu được tên các lớp cấu tạo của Trái Đất và đặc điểm của từng lớp.
GV giới thiệu, vào bài: Để tìm hiểu các lớp đất sâu trong lòng đất, con người không thể quan sát và nghiên cứu trực tiếp. Vì lỗ khoan sâu nhất chỉ đạt 1.500m trong khi bán kính của Trái đất dài hơn 6.300 km thì độ khoan sâu thật nhỏ.
- Vì vậy để tìm hiểu các lớp đất sâu hơn phải dùng phương pháp gián tiếp: + PP địa chấn.
+ PP trọng lực.
+ PP địa từ.
Hoạt động 1: cá nhân / lớp ( 5’). Xác định tên, vị trí các lớp cấu tạo của Trái Đất.
1. Cấu tạo bên trong của TĐ.
GV treo hình cấu tạo của Trái Đất trên bảng.
Dựa vào H 26 và ảnh trên bảng cho biết Trái Đất có cấu tạo gồm mấy lớp?
HS lên xác định trên bảng.
Hoạt động 2: nhóm/ lớp ( 15’).Trình bày đặc điểm các lớp cấu tạo bên trong của TĐ.
HS: quan sát bảng trang 32
GV chia lớp làm 3 nhóm (phân nhóm trưởng và thư kíp).Treo bảng phụ có nội dung của các phiếu học tập của tất cả các nhóm.
GV phát phiếu học tập cho các nhóm.
Nhóm 1: Tìm hiểu về độ dày của 3 lớp.
Nhóm 2: Tìm hiểu về trạng thái của 3 lớp.
Nhóm 3: Tìm hiểu về nhiệt độ của 3 lớp.
HS thảo luận ( 5’)
GV treo bảng phụ đã kẻ và ghi sẵn nội dung chính (được che lại)
GV gọi các nhóm trình bày, các nhóm góp ý bổ sung cho nhau. Nhận xét và chuẩn kiến thức bằng cách mở nội dung từng phần đã được chuẩn bị sẵn:
- Gồm 3 lớp: - Vỏ
- Trung gian
- Lõi.
- Đặc điểm cấu tạo bên trong của TĐ:
Lớp
Độ dày
Trạng thái
Nhiệt độ
Lớp vỏ
Từ 5 km đến 70 km
Rắn chắc
Càng xuống sâu nhiệt độ càng cao, nhưng tối đa chỉ tới 10000 C
Lớp trung gian
Gần 3. 000 km
Từ quánh dẻo đến lỏng
Khoảng 1. 5000 C đến 4.7000C
Lớp lõi
Trên 3. 000 km
Lỏng ở ngoài rắn ở trong
Cao nhất khoảng 5. 0000 C
GV nhấn mạnh lớp vỏ có vai trò quan trọng nhất vì là nơi tồn tại của các thành phần tự nhiên khác và là nơi sinh sống, hoạt động của xã hội loài người.
Trong các bài có phần thực hành rèn luyện kĩ năng thì vận dụng phương pháp thảo luận cũng rất phù hợp. Tôi xin cho 2 ví dụ sau:
Tiết 4/ Bài 4
PHƯƠNG HƯỚNG TRÊN BẢN ĐỒ
KINH ĐỘ, VĨ ĐỘ VÀ TỌA ĐỘ ĐỊA LÝ
Phần 3
Mục tiêu: Xác định được phương hướng, tọa độ địa lí của một điểm trên bản đồ và quả Địa Cầu.
3. Bài tập.
Hoạt động: nhóm / lớp ( 10’ )
GV chia lớp làm 6 nhóm (2 bàn 1 nhóm)
+ Nhóm 1, 6: Làm phần a (T 16)
a. Các chuyến bay:
- HN - Viêng Chăn: Hướng TN
- HN- Giacácta: Hướng Nam.
- HN- Manita: Hướng ĐN
+ Nhóm 2, 4: Làm phần B
b. Tọa độ ĐL của các điểm A, B, C như sau:
A 1300Đ B 1100T C 1300T
100B 100B 00B
+ Nhóm 2+ 5: làm phần C
Đại diện các nhóm lên bảng trình bày. nhóm khác góp ý.
GV chuẩn xác kiến thức và hướng dẫn cho các em cách xác định tọa độ địa lí khi điểm đó nằm ngoài đường kinh tuyến hay vĩ tuyến.
c. Các điểm có tọa độ ĐL cho sẵn là E và D.
E 1400Đ D 1200Đ
00B 100N
Tiết 20/Bài 16: THỰC HÀNH ĐỌC BẢN ĐỒ (HOẶC LƯỢC ĐỒ)
BẢN ĐỒ TỈ LỆ LỚN
Bài 2
Mục tiêu: Hướng dẫn cho học sinh cách tìm:
- Khoảng cách giữa các đường đồng mức.
- Tìm độ cao của một số địa điểm.
+ Có 3 loại:
- Địa điểm cần xác định độ cao trên đường đồng mức đã ghi số.
- Địa điểm cần xác định độ cao trên đường đồng mức không ghi số.
- Địa điểm cần xác định độ cao nằm giữa khoảng cách các đường đồng mức.
Tiến hành: Cặp/ lớp ( 25’)
Hoạt động 1 ( 5’):
GV treo H44 phóng to
GVcho lớp làm việc theo cặp (2 em cùng bàn 1 cặp làm việc với nhau) trả lời các yêu cầu trong sách giáo khoa.
Hoạt động 2 ( 10’): Các cặp thảo luận.
Gv quan sát.
Hoạt động 3 ( 10’): GV gọi mỗi cặp lên trình bày một yêu cầu. Nếu sai cặp khác góp ý.
GV chuẩn xác và cho điểm các cặp làm tốt.
+ Hướng từ đỉnh núi A1 đến đỉnh núi A2: Tây - Đông .
+ Sự chênh lệch độ cao của các đường đông mức là: 100m
+ Độ cao của các đỉnh: A1 = 900 m ;A2 > 600 m
Các điểm C: B1: 500 m
B2 : 650 m
B3> 500 m
+ Đỉnh A1 cách A2 khoảng 7.500 m.
+ Sườn Tây dốc hơn sườn Đông, vì các đường đồng mức dày hơn.
C- KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU
Sau khi tiến hành khảo sát kết quả giảng dạy theo các bước và các yêu cầu đã đề ra, tôi nhận thấy hiệu quả đem lại rất khả quan. Số lượng học sinh nắm bài hiểu bài cao hơn. thông qua việc sử dụng phương pháp này, học sinh đã được trang bị những kĩ năng trong quá trình thảo luận nhóm nên không chỉ giáo viên giảng dạy thấy nhẹ nhàng và kiểm soát được hoạt động của học sinh mà còn phát huy được tính tích cực sáng tạo, rèn luyện kĩ năng sống và hứng thú của các em trong việc lĩnh hội kiến thức.
Vì vậy chất lượng được nâng cao rõ rệt, cụ thể được khảo sát trong học kì I và nửa đầu học kì II của năm học 2010 - 2011 như sau:
Lớp 6A: Lớp đối chứng.
Lớp 6B: Lớp thực nghiệm.
Lớp
Số bài
Loại giỏi
Loại khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
32
1
3
6
19
20
62,4
5
15,6
6B
35
5
14,2
15
43
14
40
1
2,8
Từ khảo sát kết quả cho thấy chất lượng giáo dục của lớp 6B kết quả cao so với lần 1. So với lớp 6A (lớp đối chứng) thì chất lượng của 6B tăng cao rõ rệt.Với kết quả thực nghiệm này thì ta thấy rõ ràng các biện pháp, yêu cầu đã đưa ra ở trên là đúng đắn nên đã mang lại hiệu quả cao, góp phần đạt được mục tiêu của giáo dục đề ra.
Đây là một phương pháp đã được nói đến rất nhiều trong các tài liệu, và được bàn luận sôi nổi nhất sau mỗi tiết thao giảng ở cấp cơ sở và cấp huyện vì có thực hiện nhưng cũng còn nhiều hạn chế trong mỗi tiết.Trong quá trình thực hiện bản thân tôi cũng đã rút ra một số kinh nghiệm:
- Phương pháp này có thể áp dụng cho cả bài học lĩnh hội kiến thức mới và cả những bài thực hành.
- Không phải bài nào cũng thích hợp với phương pháp này nên trước khi áp dụng cho bài nào thì giáo viên phải cân nhắc kĩ và trả lời được hai câu hỏi quan trọng sau:
+ Phương pháp này có phù hợp với nội dung, mục tiêu bài học và điều kiện dạy học (trình độ HSt, lớp học, phương tiện dạy học) không?
+ Áp dụng phương pháp này ở mức độ nào là thích hợp, cho một phần của bài học hay cho toàn bộ bài học?
- Tùy mục đích sư phạm và yêu cầu của nội dung học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học, các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc được giao những nhiêm vụ khác nhau.
- Cần lưu ý trách nhiệm cá nhân trong nhóm, mỗi thành viên trong nhóm phải thực hiện một nhiệm vụ nhỏ trong nhiệm vụ chung của cả nhóm. Muốn vậy, GV(hoặc nhóm trưởngh) cần phân công thật cụ thể cho tất cả các thành viên trong nhóm.
II. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
Qua quá trình tìm hiểu và thực hiện đề tài tôi thấy rằng để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm có hiệu quả cần có những lớp tập huấn thêm cho giáo về nhiều hình thức thảo luận làm phong phú thêm phương pháp dạy học này.
Bên cạnh đó kiến thức Địa lí 6 rất khó và trừu tượng nếu chỉ để
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương pháp thảo luận sử dụng ở việc giảng dạy Địa lý 6.doc