Đề tài Lạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

1. Cơ sở lý luận chung về lạm phát 2

1.1 Khái niệm về lạm phát 2

1.2 . Phân loại lạm phát 3

1.2.1. Xét về mặt định luợng 3

1.1.2.Xét về mặt định tính .Lạm phát bao gồm: 4

1.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát 5

1.4.Tác động của lạm phát 11

1.5. Biện phát khắc phục lạm phát 13

1.5.1. Những biện pháp tình thế 13

1.5.2 Những biện pháp chiến lược 14

2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 15

2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam 15

2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 16

2.2.1. Nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam 17

2.2.2. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tê 21

3.Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay 22

3.1 Giải pháp đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam 22

3.2 Các giải pháp mà NHNN đã thực hiện nhằm kiểm soát lạm phát 23

3.3 Các giải pháp NHNN thực hiện nhắm kiểm soát lạm phát trong thời gian tới: 25

3.4 .Các giải pháp Chính phủ thực hiện nhằm kiểm soát lạm phát 25

KẾT LUẬN 30

TÀI LIỆU THAM KHẢO 31

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5997 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài chính để vay tiền trong dân chúng,bù đắp cho phần bị thiếu hụt.Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó,không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát.Một biện pháp khác Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền .Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ,do đó tăng cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát.Tuy nhiên ở các nước đang phát triển,do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách là rầt khó thực hiện.Đối với các quốc gia này,con đường duy nhất đối với họ là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế,khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. Do vậy, trong mọi trường hợp,tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao,kéo dài là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát e .Lạm phát theo tỷ giá hối đoái Tỷ hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát Thứ nhất, khi tỷ giá tăng ,đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước,muốn kéo giá hàng lên cao theo mức tăng của tỷ giá hối đoai Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu ,hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao,đẩy chi phí về nguyên liệu tăng lên,lại quay trở về lạm phát phí - đẩy như đã phân tích ở trên.Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền ,làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác,đặc biệt là cac hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và nhũng ngành có mối lien hệ chặt chẽ với nhau(nguyên liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác….) 1.4.Tác động của lạm phát a. Lạm phát và lãi suất Từ những thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới trên thế giới,các nhà kinh tế cho rằng: lạm phát cao và triền mien có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế ,chính trị và xã hội của một quốc gia Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất. Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình ,hệ thống ngân hàng phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của tài sản nợ và tài sản có của mình,tức là phai luôn luôn giữ cho lãi suất thực ổn định.Ta biết rằng , lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát.Do đó,khi tỷ lệ lạm phát tăng cao,nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên theo tỷ lệ lạm phát.Việc tăng lãi suất danh nghĩa dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng b.Lạm phát và thu nhập thực tế Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi,lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thực tế của người lao động.VD:với 600.000 đồng tiền lương một tháng hiện nay,một công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo(với giá 3000đ/1kg).Vào năm sau,nếu tiền lương của công nhân này không đổi,nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng thêm50% so với năm trước , tức là giá gạo đã tăng lên 4500đ/kg,thì với số lương nhận được trong 1 tháng người công nhân này chỉ có thể mua được133,3kg gạo Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi (tức là tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn nhưng tài sản có lãi ,tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản có lãi,các khoản lợi tức .Điều đó xảy ra là cho chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở thu nhập danh nghĩa ,khi lạm phát tăng cao ,điều đó làm số thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao(mặc dù thuế suất vẫn không tăng).Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế),thực (sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát) mà người cho vay bị giảm đi Suy thoái kinh tế ,thất nghiệp gia tăng ,đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin cuỉa dân chúng đối với chính phủ và những hậu quả về chính trị xã hội có thể xảy ra c. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ la người có lợi.Điều này đã tạo nên sự phân phối không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay. Lạm phát tăng cao còn khiến cho những người thừa tiền và giàu có ,dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hóa , tài sản , nạn đầu cơ xuất hiện , tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường , giá cả hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn .Cuối cùng những người dân vốn đã nghèo càng trở lên khốn khó hơn,họ thậm chí không mua nổi những hàng hóa thiết yếu,trong khi đó những kẻ đầu cơ đã vét sạch hàng hóa và trở nên giàu có hơn.Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập,về mức sống giữa người giàu và người nghèo d. Lạm phát và nợ quốc gia Lạm phát cao làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân,nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở lên trầm trọng hơn .Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài.Lý do là vì lạm phát tăng đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ 1.5. Biện phát khắc phục lạm phát Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây ra những hậu quả lớn trong đời sống của nhân dân lao động và cho tăng trưởng kinh tế,vì vậy ,Chính Phủ các quốc gia cần phải có những biện pháp khắc phục lạm phát . Lịch sử chống lạm phát của các nước trên thế giới cho thấy:Trong hoàn cảnh cụ thể ,Chính phủ cần thiết phải áp dụng các biện pháp tình thế(hay các biện pháp cấp bách) và các biện pháp mang tính chiến lược 1.5.1. Những biện pháp tình thế Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức tốc “cơn sốt lạm phát”,trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện pháp thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát: -Thứ nhất: Các biện pháp tình thế thường được Chính phủ các nước áp dụng ,trước hết là phải giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông.Biện pháp này còn goi là đóng bang tiền tệ.Tỷ lệ lạm phát càng cao,ngay lập tức ngân hàng Trung Ương phải dùng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng,dừng việc mua vào các chưng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế: như ngân hàng T Ư bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ,bán ngoại tệ và vay,phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách Nhà nước,tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư.Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong 1 thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân,do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.Ở Việt Nam ,các biện pháp này được áp dụng thành công vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 -Thứ hai:Thi hành “chính sách tài chính thắt chặt” như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế,cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu tới mức có thể được -Thứ ba: Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch ,giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hóa từ ngoài vào -Thứ tư:Đi vay và xin viên trợ nước ngoài -Thứ năm:Cải cách tiền tệ.Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm phát lên quá cao mà các biện pháp trên chưa mang lại hiệu quả mong muốn 1.5.2 Những biện pháp chiến lược Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của đất nước,làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách biền vững.Các biện pháp chiến lược thường được áp dụng là: Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa Có thể nói đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát ,duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.Sản xuất trong nước ngày càng phát triển,quỹ hàng hóa được tạo ra sẽ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng hóa về chủng loại,tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ.Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa cho tiêu dùng trong nước Chính phủ cần phải chú trọng phát triển các ngành các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như: xuất khẩu hàng hóa,phát triển nganh du lịch… Kiện toàn bộ máy hành chính,cắt giảm biên chế quản lý hành chính .Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giẩm chi têu thường xuyên của Ngân sách nhà nước trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách Nhà nước. Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý,chống thất thu,đặc biệt là thất thu về thuế,nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước 2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác quản lý kinh tế vĩ mô là việc tìm cách kiềm chế lạm phát. Thực ra không phải 10 gần đây lạm phát mới xuất hiện ở Việt Nam mà từ năm 1980 về trước, lạm phát cũng đã tồn tại, chỉ có điều biểu hiện của nó không rõ ràng, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, đại hội V trở về trước không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ dùng cụm từ "Chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền"; "Thị trường vật giá không ổn định" Lạm phát ở thời kỳ này là "lạm phát ngầm" nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do thì tăng cao, vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như thu nhập quốc dân. Sau một thời kỳ "ủ bệnh" đã bột phát thành lạm phát công khai với mức lạm phát phi mã cũng tăng giá ba chữ số. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này. "Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt qua nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng". Trong điều hành vĩ mô phát triển kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các cấp các ngành vì sự phát triển và ổn định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này. Lạm phát đã giảm từ hơn 700% một năm vào năm 1986 xuống còn chỉ 35% vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm. 2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 - Tình hình hiện tại: lạm phát cao, tăng trưởng thấp Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dự tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đó chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tính đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đó ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đó vượt qua mức theo mục tiêu đó đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)... -Lạm phát tác động xấu đên tình hình tăng trưởng kinh tế xã hội:Lạm phát làm giảm trầm trọng tốc độ tăng trưởng GDP và nó làm cho người dân nghèo thêm, kiềm chế sản xuất trong khối doanh nghiệp. -Ảnh hướng đến đời sống của các tầng lớp dân cư: Người dân nhất là những người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chiụ sự tác động trực tiếp nhất của lạm phát trong cơn bão tăng giá. Lạm phát cũng làm giảm việc làm cho người dân trong trung và dài hạn -Ảnh hưởng nhiều đến khối doanh nghiệp: Lạm phàt cũng gây ra tình trạng thiếu tiền vì các doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản xuất của mình. Do đó, số lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu trong trung và dài hạn 2.2.1. Nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam Một số nhìn nhận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam : Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70% so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây. Vậy thì đâu là nguyên nhân dẫn đến lạm phát của Việt Nam tăng cao? Có thể đề cập đến hai nhóm nguyên nhân: Một là: Các nhân tố tác động từ kinh tế toàn cầu ,hai là: Các nhân tố từ nội tại nền kinh tế Việt Nam a. Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu: Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đó đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đó tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới - là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực - thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đó khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đó giảm càng giảm sút. Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực - thực phẩm liên tục leo thang đó tạo nên cơn sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đó buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm. Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đó đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đó phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vốn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. b. Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam: Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đó tốc động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đó cố gắng kiểm soát giỏ xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đó phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đó tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đó tác động làm chi phí sản xuất tăng cao. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm. Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đó khiến giỏ gạo xuất khẩu và giỏ một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đó đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng mạnh. Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đó khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đó thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bì nh quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua. Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đó tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đó phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng. 2.2.2. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tê Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. * Đối với lĩnh vực sản xuất Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. * Đối với lĩnh vực lưu thông Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. * Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. * Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. 3.Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay 3.1 Giải pháp đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm. Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, vỡ đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây.DOC
Tài liệu liên quan