Đề tài Một số biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

Chuyên đề này có kết cấu 3 phần: 2

Lời nói đầu 2

Kết luận 2

Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Phạm Thị Thêu, và của các cán bộ phòng thẩm định kinh tế - kỹ thuật Cục đầu tư phát triển Hà Nội trong quá trình em hoàn thành chuyên đề này. 2

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ 3

I) Dự án đầu tư 3

1) Khái niệm về đầu tư 3

2) Khái niệm dự án đầu tư 3

3) Vai trò của dự án đầu tư 4

3.1 - Dự án đầu tư giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong phát triển 4

3.2 - Dự án đầu tư tác động đến quan hệ cung cầu về sản phẩm và dịch vụ trên thị trường, cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội. 5

3.3 - Dự án đầu tư là phương tiện để chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế 6

3.4 - Dự án đầu tư tác động đến tăng cường khả năng khoa học và công nghệ 6

4) Chu trình của dự án đầu tư 7

4.1. Giai đoạn xây dựng dự án 7

4.1.1 - Nghiên cứu cơ hội đầu tư 7

4.1.2 - Nghiên cứu tiền khả thi 8

4.1.3 - Nghiên cứu khả thi 8

4.1.4 - Thông qua dự án (duyệt và thẩm định dự án) 8

4.2. Giai đoạn thực hiện dự án 9

4.3. Giai đoạn vận hành dự án đầu tư 9

4.4. Giai đoạn đánh giá sau thực hiện dự án 9

4.5 Giai đoạn kết thúc dự án 10

II) Thẩm định dự án đầu tư 11

1) Khái niệm thẩm định dự án 11

2) Sự cần thiết phải thẩm định dự án 12

3) Mục đích thẩm định dự án 15

4) Các yêu cầu khi thẩm định dự án 16

5) Phương pháp thẩm định dự án 17

5.1- Phương pháp so sánh 17

5.2- Phương pháp phân tích độ nhạy 17

5.3 - Phương pháp triệt tiêu rủi ro 18

6. Nội dung cơ bản của thẩm định dự án đầu tư 19

6.1- Phân tích sự cần thiết phải đầu tư 19

6.2 - Thẩm định dự án về phương diện thị trường 19

6.2.1 - Kiểm tra cân đối nhu cầu về sản phẩm của dự án 19

6.2.2 - Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của dự án 20

6.3- Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật 20

6.3.1- Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng 20

6.3.2 - Xem xét việc lựa chọn hình thức đầu tư và công suất của dự án 21

6.3.3- Nghiên cứu về dây chuyền công nghệ và thiết bị lựa chọn. 22

6.3.4- Kiểm tra về giải pháp xây dựng 22

6.3.5- Đánh gía về chương trình, tiến độ thực hiện dự án 23

6.4 - Thẩm định về phương diện tổ chức 23

6.5- Thẩm định về mặt tài chính của dự án 23

6.5.1- Thẩm tra việc tính toán xác định tổng vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn 23

6.5.2- Kiểm tra việc tính toán giá thành - chi phí sản xuất 25

6.5.3- Kiểm tra cơ cấu vốn và cơ cấu nguồn vốn 25

6.5.4- Kiểm tra và xác định doanh lợi của dự án 26

6.6- Thẩm định về mặt kinh tế - xã hội của dự án 27

7) Hệ thống chỉ tiêu thẩm định hiệu quả tài chính dự án 27

7.1 - Chỉ tiêu lợi nhuận thuần 28

O là doanh thu thuần 28

7.2 - Chỉ tiêu thu nhập thuần (NPV) 29

7.3 - Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư (T) 29

7.4 - Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ 30

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN TẠI CỤC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 33

I) Khái quát về Cục đầu tư phát triển Hà Nội 33

1) Quá trình hình thành phát triển Cục đầu tư phát triển Hà Nội 33

2) Cơ cấu tổ chức của cục đầu tư phát triển Hà Nội: 34

3) Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục đầu tư phát triển Hà Nội: 34

II) Tình hình thẩm định dự án đầu tư tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 35

1) Phạm vi thẩm định dự án đầu tư 35

2) Nhiệm vụ của các phòng trong công tác thẩm định dự án 36

3) Kết quả thẩm định các dự án đầu tư tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 37

3.1 - Thẩm định vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước: 37

3.2 - Thẩm định các dự án đầu thầu, xét chọn thầu: 37

3.3 - Tư vấn thẩm định dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước trên địa bàn 38

III) Thẩm định dự án "Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp VIHA" tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 40

1) Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư 40

2) Thẩm định dự án về phương diện thị trường 42

2.1 - Đánh giá về thị trường xe đạp 42

2.2- Đánh giá về hiện trạng ngành xe đạp Việt Nam 43

3) Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật 44

3.1 - Đánh giá về phương án lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án 44

3.2 - Đánh giá về công nghệ của dự án 45

3.3 - Đánh giá về thiết bị của dự án 45

3.4- Đánh giá tác động môi trường của dự án 47

3.5- Kiểm tra về giải pháp xây dựng 48

4) Thẩm định về phương diện tổ chức 48

5. Thẩm định về tài chính của dự án 49

5.1- Nguồn vốn đầu tư 49

5.2- Kiểm tra tính toán giá thành - chi phí sản xuất 51

5.3-Tính toán khấu hao cơ bản hàng năm 51

Ta có tỉ lệ: Thiết bị 21472 52

5.4- Tính toán lãi vay 52

5.5- Kiểm tra phần tính toán doanh thu, chi phí và lợi nhuận của dự án 53

Khoản mục 53

Moayơ 53

Năm 54

I) CF biến đổi 54

6) Đánh giá hiệu quả tài chính của dự án 55

Tỉ suất chiết khấu (r) 57

NPV 57

 IRR = 0.12 + (0.13-0.12) = 0.129 = 12.9% > 8.6% 58

7) Kết luận chung của cán bộ thẩm định về dự án "đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha" 58

IV) Những tồn tại trong công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 58

1) Những tồn tại trong quá trình thực hiện thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội nói chung 58

2) Những tồn tại trong khi thẩm định dự án "Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha" 62

Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN TẠI CỤC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 64

I) Một số biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 64

1) Cải tiến cơ cấu bộ máy quản lý của Cục đầu tư phát triển Hà Nội 64

2) Tăng cường mối quan hệ và trách nhiệm giữa các phòng trong công tác thẩm định dự án 65

3) Tổ chức nâng cao và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ thẩm định 68

3.1 - Đối với đội ngũ lãnh đạo 68

3.2 - Đối với đội ngũ cán bộ thẩm định dự án 69

4) Tăng cường cập nhật và xử lý thông tin kịp thời, đầy đủ để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án 70

4.1 - Thông tin do điều tra trực tiếp từ doanh nghiệp xin vay vốn 71

4.2 - Thông tin thu thập từ bên ngoài 71

5) Tham gia xây dựng các chính sách của Nhà nước về thẩm định dự án đầu tư theo hướng ngày càng phù hợp 72

6) Hoàn thiện về tiêu chuẩn, giới hạn áp dụng trong phân tích Kinh tế - tài chính dư án: 73

7) Một số biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án “ Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha” 75

1. Phân tích rủi ro của dự án 75

2. Xử lý lạm phát trong thẩm định tài chính 76

II) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 78

KẾT LUẬN 80

TÀI LIỆU THAM KHẢO 81

 

doc84 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành phố, thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư phát triển với tư cách là thành viên tham gia xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển Hà Nội, là chủ tịch hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng thành phố, và là chủ tịch hội đồng thẩm định xét duyệt quyết toán dự án hoàn thành đối với vốn ngân sách địa phương... Trong 4 năm qua, cục đầu tư phát triển Hà Nội được UBND thành phố Hà Nội và bộ Tài chính đánh giá là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. 2) Cơ cấu tổ chức của cục đầu tư phát triển Hà Nội: Biên chế của Cục đầu tư phát triển Hà Nội do tổng cục trưởng Tổng cục đầu tư phát triển quy định trong phạm vi tổng số biên chế được giao của Tổng cục Hơn 4 năm qua, cục đầu tư phát triển Hà Nội đã tiến hành tổ chức, sắp xếp lại các phòng ban nghiệp vụ cho phù hợp với thực tế công việc được giao, trang bị cơ sở vật chất, tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ, rà soát, cân đối cán bộ cử đi học đại học, tin học, ngoại ngữ... Đến nay biên chế cán bộ tại cục là 148 người với 10 phòng chức năng và một chi cục đảm nhận công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư phát triển tại địa bàn thành phố Hà Nội. Đứng đầu cục đầu tư phát triển Hà Nội là cục trưởng; giúp việc cục trưởng có hai phó cục trưởng. Cục trưởng, phó cục trưởng cục đầu tư phát triển Hà Nội do Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng cục trưởng Tổng cục đầu tư phát triển. 3) Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục đầu tư phát triển Hà Nội: Cục đầu tư phát triển Hà Nội có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau: Tham gia với uỷ ban kế hoạch và sở tài chính vật giá thành phố về chủ trương, kế hoạch đầu tư phát triển của địa phương bằng nguồn vốn ngân sách địa phương. Quản lý Nhà nước về tài chính đầu tư phát triển tại địa phương theo sự phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tham gia thẩm định về tài chính các dự án đầu tư phát triển, tham gia chọn thầu, xét thầu theo quy định cụ thể của Tổng cục trưởng Tổng cục Đầu tư phát triển. Nhận và quản lý các loại vốn ngân sách Nhà nước đầu tư, các nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước theo quy định của chính phủ, bao gồm cả vốn của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương Thực hiện việc cấp phát vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho chủ dự án theo kế hoạch đầu tư đã được phê duyệt và hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tổ chức việc cấp và thu hồi vốn tín dụng ưu đãi đối với các dự án, chương trình, mục tiêu do Chính phủ hoặc Uỷ ban nhân dân thành phố chỉ định. Mở và quản lý tài sản của chủ đầu tư, tổ chức thực hiện các hình thức thanh toán theo quy định hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng cục đầu tư phát triển để đảm bảo việc cấp phát và tín dụng ưu đãi kịp thời. Được quyền yêu cầu chủ đầu tư cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến việc quản lý vốn đầu tư phát triển của Nhà nước. Kiểm tra việc sử dụng vốn đầu tư của dự án; áp dụng các biện pháp quản lý theo quy định hiện hành nhằm đảm bảo và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển của Nhà nước. Xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo Tổng cục trưởng Tổng cục đầu tư phát triển quyết định xử lý khi phát hiện có sự vi phạm chế độ quản lý vốn đầu tư phát triển của Nhà nước. Tổ chức công tác kế toán, thống kê và quyết toán việc cấp phát vốn đầu tư, tín dụng đầu tư ưu đãi theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng cục đầu tư phát triển. Giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc thẩm tra quyết toán, có ý kiến nhận xét bằng văn bản đối với các công trình, dự án đầu tư theo hướng dẫn quyết toán vốn đầu tư của Bộ tài chính. Quản lý công chức, viên chức trực thuộc theo chế độ hiện hành và theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ tài chính. II) Tình hình thẩm định dự án đầu tư tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 1) Phạm vi thẩm định dự án đầu tư Cục đầu tư Hà Nội thẩm định các dự án đầu tư thuộc nhóm B, C của địa phương, một số dự án của Trung ương (nếu được Tổng cục đầu tư phát triển uỷ quyền). Bao gồm: Các dự án đầu tư do do cơ quan quyết định đầu tư đề nghị tham gia ý kiến. Các dự án đầu tư vay vốn tín dụng Nhà nước. Bộ phận thẩm định (phòng thẩm định kinh tế - Kỹ thuật) chủ trì thẩm định dự án đầu tư, tham gia ý kiến với cơ quan quyết định đầu tư và chủ đầu tư. 2) Nhiệm vụ của các phòng trong công tác thẩm định dự án Để phù hợp với tình hình thực tế tại cục đầu tư phát triển Hà Nội nhằm đảm bảo công tác thẩm định dự án được tiến hành thẩm định kịp thời, đúng chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước và Tổng cục đầu tư phát triển, các phòng ban của cục đầu tư phát triển Hà Nội trong công tác thẩm định dự án đầu tư có các nhiệm vụ sau: Tham mưu cho cục trưởng trong việc tổ chức chỉ đạo, thực hiện và kiểm tra đôn đốc các công việc có liên quan đến công tác thẩm định kinh tế, kỹ thuật tại cục ĐTPT. Có nhiệm vụ nghiên cứu và có ý kiến tham mưu cho lãnh đạo cục, chi nhánh và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia tham gia tổ tư vấn của các cấp thẩm định các dự án đầu tư thuộc kinh tế trung ương và kinh tế địa phương có sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trên địa bàn. Nghiên cứu và có ý kiến tham mưu cho lãnh đạo cục tham gia tổ tư vấn của các cấp về đấu thầu, xét chọn thầu các dự án đầu tư có sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn Trực tiếp kiểm tra các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án đầu tư vay vốn tín dụng Nhà nước và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Phòng thẩm định Kinh tế - Kỹ thuật phối hợp với phòng Tín dụng tham mưu cho lãnh đạo cục trình duyệt các dự án này. Thông qua công tác thẩm định kinh tế, kỹ thuật, tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm, những vấn đề về kinh tế - tài chính từ các dự án đầu tư trên địa bàn. Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền những vấn đề cần bổ xung, sửa đổi trong các văn bản pháp quy cho phù hợp. Là đầu mối nghiên cứu, xử lý, giải đáp các chế độ quản lý Xây dựng cơ bản, quản lý vốn đầu tư và các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật có liên quan. Sưu tầm, tích luỹ các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, các thông tin có liên quan đến công tác thẩm định trên địa bàn (kể cả trong và ngoài tỉnh, ngoài nước) nhằm phục vụ cho công tác thẩm định kinh tế - kỹ thuật của Cục. Đồng thời báo cáo về Tổng cục để tổng hợp và thông tin cho các Cục phục vụ cho công tác thẩm định của toàn ngành. Thực hiện chế độ báo cáo về công tác thẩm định kinh tế - kỹ thuật theo quy định. 3) Kết quả thẩm định các dự án đầu tư tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 3.1 - Thẩm định vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước: Để thực hiện công tác quản lý vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước được chặt chẽ, có hiệu quả, đúng chế độ. Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã thực hiện công tác thẩm định dự án tín dụng theo đúng quy trình nghiệp vụ. Kết quả thực hiện thẩm định dự án tín dụng như sau: Năm Số dự án thẩm định Số dự án từ chối cho vay Số dự án Số vốn( Tỉ đồng) 2003 12 18.8 7 2004 52 208.180 8 2005 27 149.800 5 2006 39 447.500 12 3.2 - Thẩm định các dự án đầu thầu, xét chọn thầu: Phòng thẩm định Kinh tế - Kỹ thuật là đầu mối tổ tư vấn đấu thầu, xét chọn thầu về xây lắp các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước do Cục quản lý theo yêu cầu của chủ đầu tư. Phòng cấp phát, Tín dụng và chi cục là đầu mối tổ tư vấn đấu thầu, xét chọn thầu là thiết bị theo yêu cầu của chủ đầu tư. Tham gia công tác đấu chọn thầu của thành phố là một hình thức mới đối với dự án nhằm lựa chọn các nhà thầu có năng lực, có giá thầu hợp lý đảm bảo các yêu cầu về kinh tế - kỹ thuật cao nhất, góp phần tiết kiệm chi hàng chục tỷ đồng cho Nhà nước. Số dự án mà Cục đầu tư phát triển Hà Nội tham gia tư vấn xét chọn thầu của thành phố các năm qua thể hiện qua bảng sau: Năm Số dự án tư vấn xét chọn thầu Tiết kiệm chi (Tỉ đồng) 2003 67 14.35 2004 72 7.15 2005 37 2.89 2006 51 3.00 - Tư vấn thẩm định dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước trên địa bàn Khi tiếp nhận hồ sơ trình duyệt dự án do sở Kế hoạch - Đầu tư gửi đến, phòng Thẩm định Kinh tế - Kỹ thuật có trách nhiệm nghiên cứu, là đầu mối dự thảo ý kiến tham gia đóng góp trình lãnh đạo Cục duyệt để gửi hội đồng thẩm định thành phố và tham gia hội đồng thẩm định thành phố. Đối với dự án quan trọng (nhóm A,B) phòng Thẩm định phối hợp với các phòng có liên quan (phòng Tổng hợp, Cấp phát, Tín dụng) nghiên cứu dự án và chuẩn bị ý kiến đề xuất lãnh đạo Cục tham dự. Công tác thẩm định dự án đầu tư của thành phố bao gồm: thẩm định dự án tiền khả thi, dự án khả thi, dự án quy hoạch và giai đoạn nghiên cứu đầu tư của dự án. Trong những năm qua, Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã tham gia hội đồng thẩm định dự án đầu tư của thành phố và đã đóng góp nhiều ý kiến và đề nghị được hội đồng chấp nhận. Số dự án đã được thẩm định được thể hiện qua bảng sau: Năm Số dự án đầu tư của thành phố được thẩm định Giá trị (tỉ đồng) Số dự án phải làm lại hoặc không làm 2003 122 737 12 2004 186 3755 18 2005 143 4013 15 2006 97 2120.017 7 Đánh giá chung về kết quả thẩm định tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội: Trong những năm qua Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã thẩm định được một số lượng dự án tương đối lớn với quy mô vốn đầu tư ngày càng tăng. Công tác thẩm định dự án nhìn chung đã chấp hành theo đúng chế độ Nhà nước quy định, đúng quy trình nghiệp vụ thẩm định của Tổng cục đầu tư phát triển. Các kết luận và kiến nghị thẩm định được đưa ra là những căn cứ khá vững chắc để ra quyết định chấp thuận đầu tư hay không chấp thuận đầu tư cho dự án. Đồng thời thông qua thẩm định dự án có thể tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà nước nhiều tỉ đồng. Các dự án phải xem xét lại hay phải lập lại thường có đặc điểm: Chưa đủ điều kiện pháp lý để có thể thực hiện dự án Quy mô đầu tư chưa phù hợp Mục tiêu đầu tư không đáp ứng đòi hỏi mục tiêu đầu tư chung của cả nước Số liệu tính toán không hợp lý Tính toán thiếu các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án Ví dụ: Thẩm định dự án “Cải tạo nâng cấp trường mầm non Hoạ Mi phường Mai Dịch” ngày 17/3/1999 , hội đồng thẩm định đã đưa ra ý kiến như sau: Cần phải xem xét lại quy mô, mật độ xây dựng dự án: Diện tích đất là 2622 m2, diện tích xây dựng là 1026 m2 , mật độ xây dựng lớn chưa đảm bảo tiêu chuẩn sân chơi. Trang thiết bị có chi phí lớn: 339,5 triệu, cần phải xem xét lại chi phí để đảm bảo tính khả thi, có thể bỏ một số phòng không cần thiết như phòng nghỉ giáo viên (3 phòng), phòng WC, bếp bố trí không thuận tiện (nên bố trí ở tầng 1 thay vì ở tầng cao). Không tận dụng được các vật liệu, trang thiết bị của trường cũ khi bị phá dỡ hoàn toàn. Dự án tính thiếu chi phí phòng cháy chữa cháy, chi phí tôn nền. Hội đồng thẩm định đã đưa ra kết luận chính thức: Chỉ thông qua dự án khi có sửa đổi bổ xung theo ý kiến kết luận. Đồng thời đề nghị chủ đầu tư cho biết rõ kinh phí đã đầu tư cải tạo và xây dựng thêm của các năm trước (2004 - 2005 - 2006) và hiện trạng các hạng mục đó. III) Thẩm định dự án "Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp VIHA" tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội Sau khi tiếp nhận báo cáo nghiên cứu khả thi dự án “ Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp VIHA” theo đúng quy trình trên, bộ phận thẩm định dự án phải có ý kiến đánh giá về dự án trên các mặt sau: Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư Công ty xe đạp VIHA là doanh nghiệp Nhà nước, một thành viên của Liên hiệp các xí nghiệp xe đạp- xe máy Hà Nội. Sản phẩm chính của công ty hiện nay là xe đạp hoàn chỉnh và một số phụ tùng xe đạp. Sản phẩm xe đạp của hiệp hội các nhà sản xuất xe đạp Việt Nam nói chung và của công ty xe đạp VIHA nói riêng có các yếu điểm sau: Kiểu dáng mẫu mã đơn điệu Chất lượng không đồng đều và nhìn chung là còn kém Giá thành cao so với mức chất lượng đạt được Trang thiết bị của công ty hiện tại phục vụ việc sản xuất xe đạp và phụ tùng là các thiết bị vạn năng, đa số do Việt Nam sản xuất - không phải là thiết bị chuyên dùng để sản xuất xe đạp và đã được khai thác sử dụng từ những năm 60, cho đến nay đã trở thành cũ kỹ, lạc hậu với năng suất thấp và độ chính xác kém. Sự không đồng bộ của thiết bị và công nghệ chế tạo lạc hậu ở nhiều công đoạn dẫn đến năng suất thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng không đảm bảo, sản phẩm không có sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Dây chuyền sản xuất moayơ và khung xe đạp hiện đang sử dụng bao gồm các thiết bị gá lắp, dụng cụ do công ty tự chế tạo, phần lớn cũng đã được thiết kế và khai thác từ những năm 80. Ưu điểm của dây chuyền này là đơn giản, thao tác vận hành thay thế, sửa chữa dễ dàng nằm trong khả năng gia công chế tạo của công ty nên luôn chủ động phục vụ sản xuất. Tuy nhiên các dây chuyền đã bộc lộ nhiều nhược điểm như độ chính xác thấp, sản lượng thấp, tính chất công nghệ thủ công. Theo chiến lược phát triển chung của liên hiệp xe đạp - xe máy LIXEHA thể hiện trong phân công đầu tư giữa các thành viên, công ty VIHA được giao trách nhiệm chuyên sản xuất moayơ sắt mạ sản lượng 300.000 - 500.000 bộ/ năm và sản xuất khung, lắp ráp xe đạp sản lượng từ 100.000 - 200.000 xe/ năm. Trong khi đó về cơ bản công ty chưa có một dây chuyền chuyên dùng cho sản xuất xe đạp và phụ tùng. Vì vậy việc đầu tư một dây chuyền sản xuất moayơ sắt mạ và một dây chuyền sản xuất khung xe đạp có chất lượng cao là cần thiết. Dự án: “Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp VIHA” là dự án nằm trong nhóm ngành ưu tiên đầu tư của chính phủ và phù hợp với các chính sách, quy định của chính phủ. Cụ thể: Ngày 18/11/2005 tại thành phố Hồ Chí Minh, thủ tướng Võ Văn Kiết đã làm việc với lãnh đạo Bộ công nghiệp, các Tổng công ty, công ty và xí nghiệp chuyên sản xuất xe đạp để bàn về việc khôi phục và phát triển ngành này. Thủ tướng đã có ý kiến chỉ đạo như sau: Xe đạp là mặt hàng truyền thống của ngành cơ khí sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam. Đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đường giao thông mở ra ở khắp các vùng, đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về xe đạp tăng nhiều đòi hỏi ngành sản xuất xe đạp phải sớm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, phục vụ thị trường trong nước và hướng ra xuất khẩu. Thủ tướng chỉ đạo Bộ công nghiệp chủ trì phối hợp với Bộ tài chính, Bộ thương mại, Bộ nội vụ, Tổng cục hải quan xây dựng phương án cụ thể về thuế nhập khẩu, thuế doanh thu, ngăn chặn việc nhập lậu buôn bán trốn thuế mặt hàng xe đạp, chính sách nhập khẩu phụ tùng và nguyên vật liệu trong nước chưa sản xuất được nhằm khuyến khích sản xuất và bảo hộ hợp lý mặt hàng này để trình thủ tướng chính phủ quyết định. Ngày 9/2/2006 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 29/2006/QĐ - TTg về giải pháp hỗ trợ phát triển một số lĩnh vực thuộc ngành cơ khí. Trong đó có nêu: Nhà nước dành khoản vốn tín dụng ưu đãi trung và dài hạn từ năm 2006 cho việc đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ để thúc đẩy ngành sản xuất xe đạp trong nước phát triển. Ngày 3/3/2006 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 52/ 2006/QĐ - TTg nêu rõ đối tượng cho vay của kế hoạch tín dụng đầu tư năm 2006 trong đó có ngành ưu tiên là sản xuất xe đạp. Như vậy việc đầu tư cho dự án là cần thiết. Một mặt dự án sẽ góp phần hiện đại hoá dây chuyền sản xuất moayơ và khung xe đạp của công ty, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Mặt khác dự án sẽ tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống của người lao động, tăng thu cho công ty cũng như đóng góp vào ngân sách Nhà nước cho phát triển. Thẩm định dự án về phương diện thị trường 2.1 - Đánh giá về thị trường xe đạp Xe đạp là phương tiện giao thông đã trải qua hàng trăm phát triển, cải tiến để có cấu tạo hoàn chỉnh như bây giờ. Xe đạp có ưu điểm: Giá rẻ, phù hợp với khả năng và sức mua của mọi tầng lớp người lao động Diện tích chiếm chỗ của xe đạp trên đường thấp Là phương tiện vận tải hàng hoá tiện lợi Là phương tiện giao thông “sạch” không có chất thải gây ô nhiễm môi trường Nước ta hiện nay có khoảng gần 80 triệu dân, trong đó người có thu nhập trung bình và thấp chiếm đa số. Vì vậy nhu cầu sử dụng xe đạp làm phương tiện đi lại thậm chí vận chuyển hàng hoá là rất lớn. Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80, xe đạp đã là phương tiện giao thông thịnh hành nhất, hàng năm cả nước tiêu thụ 1,3 triệu chiếc trong đó sản xuất trong nước đạt 500.000 xe/ năm và nhập từ nước ngoài theo các nguồn khác nhau khoảng 800.000 xe/ năm. Từ khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới, kinh tế phát triển, nhu cầu sử dụng xe gắn máy tăng mạnh ở các đô thị. Vì vậy đã không ít người vội cho rằng xe đạp đã hết thời và kỷ nguyên của các loại xe máy, ô tô Việt Nam đã bắt đầu. Nhưng thực tế cho thấy xe đạp vẫn là phương tiện giao thông chính ở vùng nông thôn và dùng cho học sinh đi học, người có thu nhập trung bình ở đô thị. Hiện nay trên cả nước có khoảng 14 - 15 triệu xe đạp đang sử dụng, tính trung bình mỗi gia đình Việt Nam có 01 xe đạp. Tỉ lệ này được coi là thấp và nhu cầu xe đạp vẫn đang tăng. Thống kê cho thấy lượng xe đạp bị hư hỏng cần phải thay thế là 5%/ năm và số phụ tùng hư hỏng cần thay thế là 20%/ năm. Như vậy số xe cần thay thế là 700.000 - 750.000 xe/ năm và phụ tùng thay thế khoảng 3 triệu bộ / năm. Thêm vào đó, với mức tăng dân số trung bình 2%/ năm nghĩa là có khoảng 14 triệu trẻ em đến tuổi đi học và khoảng 1/5 số tre em cần sử dụng xe đạp, tương đương với 300.000 xe/ năm. Như vậy nhu cầu xe đạp ở nước ta là gần 1 triệu xe/ năm. Theo tính toán của Bộ công nghiệp, hàng năm riêng thị trường nội địa có nhu cầu khoảng 700.000 chiếc xe đạp, nhu cầu phụ tùng bao gồm cho lắp xe mới và thay thế (moayơ, xíchlíp, đùi đĩa, phanh, yên...) cũng sẽ tăng lên từ 2 - 3 lần. Đối với thị trường xuất khẩu, trước đây chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh thực hiện việc lắp ráp xe đạp xuất khẩu theo phương thức nhập 100% phụ tùng và xuất 100% số xe lắp ráp, đạt sản lượng 300.000 xe/ năm. Vài năm gần đây Liên hiệp xe đạp LIXEHA cũng thực hiện một số hợp đồng tương tự và cho đến nay vẫn được các khách hàng châu Âu đặt. Nhưng tiếc là công ty chưa đáp ứng được các đơn đặt hàng đó cả về chất lượng và số lượng. Hiện nay có nhiều nước sản xuất xe đạp phục vụ cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu như Trung Quốc, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Braxin, Pháp... So với các nước đó, ngành sản xuất xe đạp Việt Nam có nhiều thuận lợi: Trong tiềm thức người nước ngoài, Việt Nam vẫn là đất nước của xe đạp, có một ngành công nghiệp xe đạp. Xe đạp là sản phẩm có nhiều chi tiết cần gia công và lắp ráp, không đòi hỏi kỹ thuật cao, yêu cầu nhiều thao tác thủ công, nhiều lao động.Trong khi đó ở Việt Nam lực lượng lao động dồi dào, khéo tay và nhân công tương đối rẻ. Hàng hoá Việt Nam đang được hưởng thuế suất ưu đãi khi nhập khẩu vào châu Âu (và nay mai là Mỹ) Chính phủ Việt Nam có nhu cầu xuất khẩu nhiều mặt hàng để trả nợ nước ngoài với kim ngạch lớn, trong đó có mặt hàng xe đạp. Điều này được thể hiện trong thông báo số 6093/BKH - TMDV ngày 30/9/2005 của Bộ kế hoạch và đầu tư về việc trả nợ cho Liên bang Nga theo nghị định ký giữa hai nước năm 2004, trong đó xe đạp và phụ tùng xe đạp trả nợ trị giá 1,3 triệu rúp chuyển nhượng và giao cho LIXEHA Hà Nội thực hiện. Với những tính toán như vậy, có thể khẳng định rằng nhu cầu tiêu thụ xe đạp, phụ tùng xe đạp trong nước và dành cho xuất khẩu ở hiện tại và những năm tiếp theo là rất lớn. Điều đó đặt ra vấn đề cho ngành xe đạp Việt Nam phải hiện đại hoá công nghệ sản xuất, sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng, mẫu mã phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và giá cả hợp lý. 2.2- Đánh giá về hiện trạng ngành xe đạp Việt Nam Ngành lắp ráp và sản xuất phụ tùng xe đạp ở Việt Nam được hình thành từ nhưng năm 40, giai đoạn ban đầu chủ yếu là lắp ráp và làm một số công đoạn sản xuất khung. Sau năm 1954, ngành sản xuất xe đạp ở miền Bắc phát triển nhanh với công ty xe đạp Thống Nhất là chủ đạo và một số xí nghiệp sản xuất phụ tùng. Sản xuất xe đạp được phát triển mạnh nhất vào những năm đầu thập kỷ 80, tập trung phần lớn tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thái Bình, Nam Định với số lượng 530.000 xe và 9.000 tấn phụ tùng hàng năm. Để thúc đẩy sản xuất, hiệp hội xe đạp - xe máy Việt Nam được thành lập bao gồm 150 hội viên trong đó có 45 nhà sản xuất xe đạp và phụ tùng xe đạp. Thời kỳ đầu, chỉ riêng Liên hiệp các xí nghiệp xe đạp - xe máy Hà Nội (LIXEHA) đã đạt sản lượng 104.000 xe và 2.200 tấn phụ tùng hàng năm. Ngành sản xuất xe đạp là một ngành sản xuất lâu năm đã từng hưng thịnh nhưng vài năm gần đây sản phẩm sản xuất ra bị hàng ngoại lấn át. Những nguyên nhân chủ yếu đó là: Do thị trường xe đạp Việt Nam bị hàng nhập lậu của Trung Quốc có giá rẻ, mẫu mã đẹp. Thiết bị máy móc của các doanh nghiệp xe đạp nhìn chung đều quá cũ và lạc hậu. Trang thiết bị lại không đồng bộ, trên một dây chuyền có thể có đủ chủng loại của nhiều nước như Việt Nam, Pháp, Nga, Tiệp, Trung Quốc... Tính chất không ổn định của thiết bị gây ra hỏng hóc, năng suất thấp, chất lượng kém, lượng phế phẩm cao. Do công nghệ lạc hậu, phần lớn thuộc thế hệ những năm 50 nên chi phí vật tư lớn. Trên thực tế, chi phí nguyên vật liệu cho sản xuất một sản phẩm ở nước ta tính trung bình gấp 1,7 lần so với chi phí mà ở các nước Đông Âu bỏ ra Do nắm bắt thị trường yếu kém nên không đáp ứng được nhu cầu về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm. Như vậy, có thể nói ngành sản xuất xe đạp Việt Nam có đầy đủ thị trường trong nước và xuất khẩu. Nếu được đầu tư đúng mức, ngành sản xuất xe đạp sẽ tồn tại, phát triển, chiếm lĩnh thị trường trong nước và từng bước mở rộng phạm vi kinh doanh ra thị trường thế giới. Với thực trạng của ngành sản xuất xe đạp Việt Nam hiện nay cũng như xu hướng phát triển của ngành trong tương lai thì việc đầu tư cho dự án “ Đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp VIHA” là cần thiết Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật 3.1 - Đánh giá về phương án lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án Dự án “ Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp VIHA” được thực hiện trong khu đất nhà xưởng của công ty tại đường Nguyễn Tuân - quận Thanh Xuân - Hà Nội. Địa điểm xây dựng dự án là khá hợp lý do vị trí dự kiến đầu tư là khu vực đã được san nền, nằm trong khuôn viên nhà xưởng sản xuất của công ty vì vậy tận dụng được các trang thiết bị cũ và thuận tiện cho công tác bảo vệ. Ngoài ra khu đất này nằm trong quy hoạch khu công nghiệp Thượng Đình thuộc quận Thanh Xuân, địa điểm rất thuận tiện cho việc cấp thoát nước, cung cấp điện và thông tin liên lạc... Để đảm bảo diện tích đầu tư xây dựng mới cần di chuyển 7 hộ dân trong mặt bằng, chi phí đền bù, phá dỡ công trình và san nền được tính toán tương đối hợp lý theo quy định của Chính phủ. 3.2 - Đánh giá về công nghệ của dự án Công nghệ sử dụng trong ngành xe đạp Việt Nam hiện nay vẫn là công nghệ của những năm 50, từ đó dẫn đến chi phí nguyên vật liệu chính cho sản xuất một sản phẩm của ta bằng 1,7 lần so với các nước Đông Âu, chi phí năng lượng gấp 3,6 lần, thời gian gia công cơ khí gấp 10 lần. Với các chi phí như vậy, sản phẩm làm ra không thể cạnh tranh trên thị trường được. Công nghệ sản xuất moayơ sắt mạ và công nghệ sản xuất khung xe mà công ty xe đạp VIHA đưa ra, theo các cán bộ chuyên về công nghệ đánh giá là khá hiện đại. Công nghệ này đang được ứng dụng ở nhiều nước có ngành sản xuất xe đạp phát triển và nó có ưu điểm: Tiêu hao vật tư tối thiểu (dưới 10%) Quy trình gia công cơ được rút gọn tối đa Năng suất rất cao Sản phẩm được tạo hình đẹp, chất lượng bề mặt tốt Giá thép vật liệu rẻ, Thép sử dụng cho vỏ moayơ là CT3, cho bộ côn trục là CT5. 3.3 - Đánh giá về thiết bị của dự án Các nước châu Âu có công nghệ và kỹ thuật sản xuất xe đạp cao cấp, các dây chuyền thiết bị có chất lượng rất cao và ổn định cho phép sản xuất các loại xe đạp có tiếng trên thế giới. Tuy nhiên các dây chuyền đều có công suất lớn thường không dưới 1 triệu xe/ năm có mức độ tự động hoá cao và có giá thành khá cao. Ngoài ra chi phí chuyển giao công nghệ và các chi phí dịch vụ đi kèm cũng đắt. Các dây chuyền của các nước phát triển châu á như Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc hợp lý hơn về công suất và có giá thành hạ. Các thiết bị này thường được sao chép các thiết bị của châu Âu, Mỹ nhưng được đơn giản hoá hệ thống vận hành và hệ thống điều khiển, chỉ sử dụng các chi tiết máy có yêu cầu kỹ thuật cao của châu Âu, Mỹ. Kinh nghiệm đầu tư của các công ty xe đạp ở Trung Quốc và một số nước Đông Nam á cho thấy thiết bị của Đài Loan hợp lý về quy mô, công suất và chất lượng được sử dụng ở khu vực. Các hãng này đều cam kết chuyển giao công nghệ, cung cấp chuyên gia giám sát, lắp đặt, đào tạo công nhân vận hành thiết bị và có thể cung cấp tài chính cho người mua 3 đến 5 năm. Các điều kiện về kỹ thuật, tài chính, giá cả sẽ được điều chỉnh cụ thể khi các hãng tham dự thầu cung cấp thiết bị. Đối với dự án, một số thiết bị chính của dây chuyền sản xuất khung xe đạp được nhập của hãng RANSBURG (Nhật), dây chuyền sản xuất moayơ sắt mạ được nhập của hãng SEES MEGA ( Đài Loan), các thiết bị bổ xung còn lại được chế tạo trong nước. Nhìn chung các công ty cung cấp thiết bị cho dự án được đánh giá là có uy tín, thiết bị cung cấp tương đối hiện đại và có chi phí hợp lý. Tổng giá trị thiết bị: 21.407.510.900 (đồng) Trong đó: - Thiết bị nhập ngoại kèm vật tư: 1.579.039 (USD) - Thiết bị trong nước : 880.000.000 (đồng) (Tỉ giá được áp dụng theo tỉ giá hiện hành : 1USD = 13.000 VNĐ) Khi thẩm định, các cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0198.doc
Tài liệu liên quan