MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
IV. Giả thiết khoa học
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
VI. Giới hạn của đề tài
VII. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá
II. Thực tiễn của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo
CHƯƠNG II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HÀNH VI GIAO TIẾP CÓ VĂN HOÁ CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ 4 - 5 TUỔI
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ
CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM VÀ PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM
(kết quả đánh giá thực nghiệm)
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8773 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp để luyện phát âm đúng cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi ở Huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iới hạn, khi cùng với bạn trẻ vẫn dễ so sánh hơn, dễ thể hiện mình hơn và nắm được nhiều tri thức, kỹ năng trong hoạt động chung.
Giao tiếp trẻ em vơí trẻ em xuất hiện giữa và dưới nhiều hình thức khác nhau với sự phức tạp dần và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành tâm lý và nhân cách trẻ.
- Giao tiếp thực hành xúc cảm: Xuất hiện ở trẻ 3 - 4 tuổi, đặc trưng của hình thức giao tiếp này là: Trẻ muốn có bạn cùng chơi cho vui hơn chứ chưa có sự phối hợp hành động Giao tiếp này thể hiện ở chỗ các thành viên đều muốn trẻ khác chú ý đến mình và đánh giá hành động của mình, tìm mọi cách để phô diễn khả năng của mình nhưng không cho bạn can thiệp vào công việc của mình, chúng không lắng nghe lẫn nhau nên không có sự đồng cảm lẫn nhau nên dễ thể hiện tình cảm tiêu cực. Vì vậy, khi tổ chức các hoạt động này người lớn cần dự tính trước những xung đột có thể xảy ra, dạy trẻ nhận biết nhân cách của bạn vì đây là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự giao tiếp của con người, tuy có một số hạn chế nhất định nhưng hình thức giao tiếp này có tác dụng phát triển tính năng động, tích cực, sáng tạo và hình thành sự tự giác của trẻ.
Giao tiếp công việc tình huống xuất hiện ở trẻ 4 tuổi, ở tuổi này nhu cầu giao tiếp của trẻ tăng lên, đặc biệt là trong trò chơi thể hiện rất rõ nhu cầu giao tiếp này. Trẻ có xu hướng động tác làm việc với nhau, có trách nhiệm với công việc chung mặc dù mỗi trẻ thực hiện một phần công việc riêng nhưng phải phối hợp chặt chẽ để đạt mục đích chung. Trong giai đoạn này trẻ thường nhìn nhận bản thân qua thái độ của bạn, đồng thời nhận ra thái độ của bạn qua ánh mắt, nét mặt, lời nói, hành động. Thái độ cuả bạn có thể khích lệ những hành vi tích cực, ngược lại có thể gây ra những hành vi tiêu cực cho nên cần có sự quan tâm định hướng của người lớn trong quá trình tổ chức các hoạt động cùng nhau của trẻ. Chính giao tiếp các công việc đã tập hợp trẻ thành một nhóm chơi cùng tuổi hoặc khác tuổi, thể hiện rõ trong trò chơi đóng vai, chủ đề. Sự tham gia vào công việc chung đã tạo ra những phẩm chất đặc biệt ở trẻ mà A.UXOVA gọi là “tính xã hội”. Đó là năng lực tham gia vào trò chơi chung, hành động phù hợp trong xã hội đó, thiết lập quan hệ với trẻ khác, phục tùng những yêu cầu của thế giới trẻ em. Đây là những phẩm chất nhân cách cần thiết của con người lao động trong tương lai.
Tóm lại: giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo có vai trò rất quan trọng và giao tiếp với người lớn là cơ sở, tiền đề cho quá trình giao tiếp của trẻ sau này. Do đó, người giáo viên phải có những biện pháp, phương tiện nhằm mở rộng quan hệ giao tiếp cho trẻ, Đồng thời giáo viên cũng phải gần gũi với trẻ, giúp trẻ tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong cuộc sống và trong giao tiếp sau này.
4. Phương tiện giao tiếp của trẻ mầm non.
Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa hai hay nhiều người. Nó bao gồm sự gửi thông tin phản hồi để sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, các thông tin gửi đi cần có nghĩa và phải hiểu được các thông tin của đối tượng giao tiếp có thể lĩnh hội được qua hành vi giao tiếp thực của họ với các phương tiện lời nói và hành động thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ, giọng nói, nhịp độ và không gian giao tiếp. Đó là các phương tiện giao tiếp, giao tiếp được thực hiện bằng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
4.1 Giao tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ :
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc thù quan trọng, theo tâm lý học Xô Viết ngôn ngữ có nhiều chức năng : chức năng thông báo, chức năng truyền đạt thông tin, chức năng biểu cảm qua giọng điệu cấu âm và các biện pháp tu từ, từ đó biểu lộ tình cảm nhu cầu, thái độ của mình; chức năng tác động: sự tác động bằng ngôn ngữ có thể làm thay đổi trạng thái tâm lý, tình cảm và động cơ hành động của con người, tạo nên sự đồng tình từ hai phía. Trong giao tiếp có thể dùng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết nhưng ngôn ngữ nói là cơ bản.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ có những nét đặc trưng riêng biệt, vì ngôn ngữ không phải là chức năng bẩm sinh nên muốn sử dụng được ngôn ngữ phải qua quá trình đào tạo, rèn luyện lâu dài và phức tạp. Quá trình nắm lấy ngôn ngữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Yếu tố sinh lý: Gồm cơ quan phát âm và thính giác giúp con người nói và nghe được.
- Yếu tố tâm lý: Sự phát triển chức năng ngôn ngữ của trẻ em có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển tư duy, ý chí, tình cảm , trí nhớ…
- Yếu tố xã hội: Tiếp thu ngôn ngữ là quá trình tập luyện dưới sự hướng dẫn của người lớn. Cha mẹ, ông bà, anh ch, thầy cô giáo và những người gần gũi xung quanh trẻ là tập thể ngôn ngữ tạo nên xã hội mà trẻ cùng chung sống. Trải qua quá trình rèn luyện lâu dài và phức tạp, kỹ năng ngôn ngữ của trẻ được hình thành. Quá trình này được chia làm hai giai đoạn:
* Giai đoạn chuẩn bị: (giai đoạn tiền ngôn ngữ trước 1,5 tuổi)
Trong đó chỉ xuất hiện một số dấu hiệu báo trước các chức năng ngôn ngữ đã hình thành và giai đoạn phát triển (giai đoạn ngôn ngữ trước 1,5 đến 6 tuổi). giai đoạn này tính chất thực sự của ngôn ngữ nảy sinh và phát triển đến lúc trẻ có thể nói được như người lớn.Sự phát triển khả năng ngôn ngữ ở trẻ không phải là quá trình ngẫu nhiên mà có các quy luật nhất định. Vì vậy, để trẻ có thể sử dụng ngôn ngữ một cách dễ dàng trong giao tiếp cần tìm hiểu quy luật phát triển đó, ở trẻ khả năng hiểu đi trước khả năng nói. Việc hiểu chẳng qua là một phản xạ đối với một ấn tượng thính giác tổng quát. Việc học nói cũng vậy, tiếng nói bập bẹ đầu tiên là bản nhạc giàu âm điệu nhưng rối mớ lộn xộn. Sau này, dưới những ảnh hưởng của mọi người xung quanh lần lượt xuất hiện một số yếu tố tạo nên một loại từ trong vốn ngôn ngữ của trẻ, nội dung ý nghĩa của từ của câu cũng dần tách ra, cho nên các nhà ngôn ngữ cho rằng dạy trẻ nói trước hết là tìm hiểu các ấn tượng tổng quát như có tác động mạnh mẽ vào điều cần uốn nắn.
Việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ không biểu hiện một cách riêng rẽ mà gắn liền với sự phát triển khác như năng lực cảm thụ, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy … do đó, cần taọ mối quan hệ thường xuyên giữa các điều mà trẻ em thấy được và từ ngữ các em nghe được giữa hệ thống tín hiệu I và hệ thống tín hiệu II. Hơn nữa trong quá trình thích ứng với thế giới bên ngoài trẻ luôn đòi hỏi sự hiểu biết những gì các em nghe nhìn và tự thể nghiệm. Cho nên cần có kế hoạch cho trẻ tiếp xúc với môi trường bên ngoài để mở rộng tầm nhìn, nhận thức. Đồng thời, cũng là dịp thúc đẩy ham muốn tích luỹ từ ngữ tạo điều kiện cho vốn từ phát triển một cách tự nhiên.
Trẻ em hay bắt chước người lớn về mọi mặt: lời nói, cử chỉ, hành động, tác phong… Do đó, người lớn phải chú ý noí năng cho đúng, phát âm chính xác, rõ ràng có chọn lọc, dùng câu đúng quy tắc ngữ pháp, lời nói phải có tính biểu cảm kỹ năng ngôn ngữ của trẻ. Kỹ năng ngôn ngữ của trẻ còn được hình thành và phát triển qua các trò chơi. Đây là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, trong khi chơi trẻ phải dùng từ chỉ hành động của mình, chỉ đồ vật trong trò chơi, phải giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ để phối hợp hành động, để giao ước với những người cùng tham gia. Tính chất sôi nổi của trò chơi nghệ thuật, diễn cảm của lời nói một cách tự nhiên.
Như vậy, ngôn ngữ trẻ em nảy sinh và phát triển không phải vì bản thân nó mà vì nhu cầu thích ứng với hoàn cảnh khách quan, nhu cầu tự khẳng định, nhu cầu hoạt động …Việc thoả mãn những nhu cầu đó tạo điều kiện ngôn ngữ phát triển và nảy sinh.
Do vậy, cần cho trẻ được quan sát nhiều hơn, kết hợp với trò chuyện để giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp được tốt. Trong giao tiếp với trẻ người lớn cần sử dụng ngôn ngữ giàu hình tượng, sử dụng các ngôn ngữ, tục ngữ tạo điều kiện cho trẻ được làm quen với ngôn ngữ đậm đà và thuần tuý dân tộc.
Việc hình thành kỹ năng ngôn ngữ cho trẻ em bao gồm phát âm, tích luỹ vốn từ nói thành câu hoàn chỉnh.
Nghiên cứu quá trình xây dựng kỹ năng phát âm của trẻ cho thấy trẻ em tỏ ra rất nhạy bén trong việc tiếp thu đặc điểm và cách phát âm của những người xung quanh. Do đó phải tạo ra một môi trường mới với sự phát âm đúng quy cách. Đồng thời do sự phát âm của trẻ từ 2 - 6 tuổi chưa thật ổn định và chính xác nên cần thường xuyên theo dõi cách phát âm của trẻ khi nói chuyện với chúng, sớm cho trẻ có ý thức đầy đủ về cách phát âm đúng. Để giúp trẻ phát âm đúng cần tổ chức các tiết học rèn luyện về ngữ âm, cho trẻ kết hợp với dẫn chuyện, kể chuyện, đọc thơ và các trò “thách, nói”làm cho trẻ có cách phát âm đúng, rõ ràng và thêm phần diễn cảm.
Tích luỹ vốn từ: tốc độ phát triển vốn từ của trẻ không đều nhau có phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Quan trọng nhất là môi trường, vốn từ của trẻ em sẽ tăng nhanh khi được nghe người xung quanh nói nhiều, được người lớn chú ý gợi chuyện thường xuyên đối với trẻ. Những từ chỉ khái niệm cụ thể để lĩnh hội dễ tiếp thu hơn so với những từ chỉ khái niệm cụ thể trừu tượng. Vì vậy, để giúp đỡ trẻ lĩnh hội từ loại này cần có sự vật, hiện tượng cụ thể để minh họa cho những khái niệm đó hoặc dùng phương pháp kể chuyện để giúp trẻ lĩnh hội một số yếu tố của hệ thống tín hiệu thứ II nhưng vẫn giữa được nguyên tắc cơ bản là cái trừu tượng phải xây dựng trên cái cụ thể.
Tóm lại: Dạy trẻ nắm chắc một từ phải tạo cho trẻ cách phát âm đúng và hiểu đúng nghĩa của từ, sử dụng từ đúng cách nghĩa là sử dụng từ trong câu. Nói thành câu hoàn chỉnh khi lĩnh hội câu qua lời nói của người lớn sẽ tiếp thu những mô hình câu mà dần dần chúng sẽ rút ra. Vì vậy, phải cho trẻ làm quen với các loại mô hình khác nhau không có nghĩa là phân tích cho chúng thấy những câu gồm có chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ được sắp xếp theo một thứ tự nhất định mà bằng lời nói cụ thể người lớn sẽ trình bày lặp đi, lặp lại một cách có ý thức, có mô hình. Những câu dùng làm mẫu để nghe rồi nhận thức,bắt chước rồi sẽ ghi vào ký ức lúc nào không hay để đến khi vận dụng một cách tự nhiên, đúng luật lệ. Trên thực tế dạy phát âm, dạy từ không tách rời nhau.
Trong giao tiếp ngoài việc biết nói đúng, cần phải biết nói hay, diễn cảm để người nghe không những hiểu ý mà còn phải nhận được tình cảm của ta nữa. Tình cảm qua lúc nói chuyện thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của người nói. Riêng ngôn ngữ với những đặc thù tự có cũng có khả năng biểu đạt tình cảm để giúp trẻ nói một cách có tình cảm với người lớn, cần phải có phương thức diễn đạt tình cảm của ngôn ngữ . Cần có kế hoạch quan sát cuộc sống, thực hiện cho trẻ với mục đích rèn luyện ngôn ngữ diễn cảm của trẻ, cho trẻ tiếp thu với thiên nhiên bởi vì cái đẹp của thiên nhiên dễ tiếp xúc và gợi lên cho trẻ những cảm xúc phong phú sâu sắc, là cơ sở cho kỹ năng và thể hiện ngôn ngữ hay và đẹp.
Để tạo điều kiện cho việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, giáo viên mầm non phải luôn nâng cao tính tích cực giao tiếp của trẻ, giáo viên tích cực giao tiếp với trẻ, tạo điều kiện cho trẻ được giao tiếp, bộc lộ hiểu biết ý muốn của mình với bạn bè, với người lớn xung quanh. Cho trẻ tự nhận xét, đánh giá về mình về những nhân vật trong truyện và những người xung quanh. Dạy trẻ văn hoá giao tiếp là dạy trẻ các thành phần văn hoá giao tiếp. Văn hoá giao tiếp giúp cho ngôn ngữ sống động linh hoạt, có tính thực tiễn và tính sử dụng. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là các chuẩn mực, các hành vi văn hoá giao lưu.
Vì vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là góp phần giáo dục thẩm mỹ đạo đức dạy ngôn ngữ là dạy người.
4.2 Giao tiếp phi ngôn ngữ
Giao tiếp phi ngôn ngữ là những thông điệp giao tiếp không phải bằng lời, các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ hoặc là đi kèm theo ngôn ngữ, hoặc là xuất hiện một cách độc lập thay thế ngôn ngữ. So với ngôn ngữ các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nghèo nàn hơn, đơn điệu hơn, đôi khi mang tính chất mập mờ, nhưng trong nhiều trường hợp có ý nghĩa rất quan trọng trong giao tiếp. Để có thể hiểu được các tín hiệu phi lời và biết sử dụng nó qua lời trong quá trình giao tiếp cần phân biệt các dâú hiệu phi lời và biết sử dụng nó qua lời trong quá trình giao tiếp. Cần phân loại các dấu hiệu phi lời: phân loại chủ yếu dựa vào các giác quan phi lời nhận chúng bao gồm thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác.
Để có thể sử dụng các yếu tố phi lời trong giao tiếp ta hay xem xét một số yếu tố phi lời được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp:
- Nét mặt: Trong giao tiếp nét mặt giúp chúng ta nói rất nhiều điều, nhìn gương mặt để phỏng đoán người sâu sắc hay nông cạn, người siêng năng hay đần độn, ở nét mặt thể hiện suy nghĩ và hành động rõ nhất là cặp mắt và cái miệng tức là ánh mắt và nụ cười trong giao tiếp, nhiều khi cặp mắt mang thông tin gần bằng hoặc hơn cả lời nói, nó phô bày tâm trạng diễn đạt tình cảm.
- Nụ cười: Là một cử chỉ báo phi ngôn ngữ quan trọng, cần phải biết cười hồn nhiên, tránh cười gượng, cười vô vị, cười thương hại. Muốn có nụ cười tự nhiên phải biết yêu đời, nó là biểu hiện của sức khoẻ và hạnh phúc. Một đứa trẻ ốm yếu và bệnh tật trong người hoặc trong gia đình trẻ có chuyện gì buồn chẳng hạn bỏ nhau thì trên gương mặt trẻ không thể có một nụ cười hồn nhiên, tự tin.
- Tư thế: Tư thế hay còn gọi là sơ đồ thân thể, các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ phi giao tiếp cho rằng: Mỗi sự thể của hình dáng có thể là biểu hiện một ý tưởng, một người có sức khỏe về thể chất và nghị lực bao giờ cũng đi đứng đàng hoàng không cúi đầu lom khom…Trẻ cần phải chú ý uốn nắn, sửa sai tư thế để giúp trẻ có được tư thế tự nhiên, đàng hoàng thoải mái khi ngồi, đi đứng và trong mọi hoạt động.
VD: Khi trẻ đến lớp hoặc khi ra về phải đi đứng đàng hoàng, mắt nhìn vào cô và khoanh tay chào cô
- Cử chỉ: Cử chỉ bao gồm cử động chân tay, nếu cử chỉ hấp tấp vội vàng khi đi đứng hành động, nói năng thì nội tâm có điều bất an, khi giao tiếp cử chỉ của con người phải tự nhiên, thân thiết không nên kiểu cách thân mật đến suồng sã.
Muốn dạy trẻ cử chỉ đẹp đẽ người lớn cần gương mẫu trước mặt trẻ. Đồng thời uốn nắn trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. VD : Trong khi ăn phải lấy tay che miệng nếu bị hắt hơi và phải quay ra ngoài.
- Khoảng cách: Là một dấu hiệu của giao tiếp phi ngôn ngữ, khoảng cách nói lên quan hệ ít hay nhiều, tính chất nghi thức nhiều hay ít. Có trẻ khi được cha mẹ đón thì đứng ở cửa lớp chào cô trong khi cô đứng ở cuối lớp, giáo viên phải uốn trẻ không được chào cô như vậy, phải đến gần cô để chào cô và cô phải quay mặt lại với trẻ, có như vậy hành vi giao tiếp của trẻ mới thực sự là hành vi có văn hoá.
- Trang phục: Thể hiện cách ăn mặc trong khi giao tiếp, trang phục của người có văn hoá thể hiện ở chỗ ăn mặc gọn gàng, quần áo sạch sẽ. Không ai có thiện cảm với người đầu tóc bù xù, trang phục thì cẩu thả.
Khung cảnh tự nhiên: Đây cũng là một thành tố có vai trò nhất định trong giao tiếp. Trong lớp cô trang trí lớp, sắp xếp cho đẹp, khoa học.Trang trí ảnh đẹp, phù hợp với lứa tuổi và tầm nhìn của trẻ. Lớp học phải sạch đẹp, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, khung cảnh lớp như vậy cũng tạo ra cho trẻ trong quá trình giao tiếp được tốt hơn.
Tóm lại: Trong quá trình giao tiếp cả người nói và người nghe đều sử dụng tín hiệu phi ngôn ngữ. Người nói dùng các tín hiệu không lời cho các thông điệp bằng lời có thêm sức mạnh. Người nghe dùng các tín hiệu phi ngôn ngữ để diễn giải dụng ý của người nói, cảm giác của người nói và để có kết luận về nhân cách của người nói. Trẻ em cũng vậy khi giao tiếp trẻ cũng dùng các tín hiệu phi ngôn ngữ. Cho nên là một giáo viên mầm non cần chú ý uốn nắn, sửa sai cho trẻ trong khi giao tiếp.
II. Cơ sở thực tiễn của giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
1. Mục đích khảo sát:
Chúng tôi tiến hành thực tiễn nhằm xác định rõ tình hình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non và mức độ hình thành văn hoá giao tiếp cho trẻ mẫu giáo nhỡ
2. Nội dung khảo sát:
2.1 Khảo sát thực trạng công tác giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo.
Nội dung có trong ankét (phần phụ lục)
2.2 Khảo sát mức độ hình thành văn hoá giao tiếp của trẻ mẫu giáo nhỡ.
Nội dung có trong phần phiếu hỏi trẻ (phần phụ lục)
3. Thang đánh giá:
3.1 Thang đánh giá trình độ nhận thức của trẻ về giao tiếp có văn hoá được chia làm 3 mức độ.
- Mức độ cao: Trẻ trả lời đúng và đầy đứng xử
- Mức độ trung bình: Trẻ trả lời chưa đầy đủ hoặc còn sai sót.
- Mức độ thấp: Trẻ không trả lời được.
3.2 Thang đánh giá về trình độ và hành vi giao tiếp có văn hoá cũng được chia làm 3 mức độ.
- Mức độ cao: Thực hiện đúng và thường xuyên.
- Mức độ trung bình: Thực hiện đúng nhưng chưa thường xuyên.
- Mức độ thấp: Không thực hiện
Cách cho điểm:
- Mức độ cao: Từ 15 đến 20 điểm
- Mức độ trung bình: Từ 0 đến dưới 15 điểm
- Mức độ thấp: Từ 0 đến dưới 10 điểm
4. Phương pháp khảo sát:
Để khảo sát thực trạng hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Điều tra bằng ankét (đối với giáo viên).
- Phỏng vấn (đối với trẻ)
- Quan sát trẻ và giáo viên
5. Kết quả khảo sát:
5.1 Thực trạng về mức độ giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
Chúng tôi tiến hành khảo sát 30 giáo viên ở hai trường mẫu giáo trong huyện Yên Thuỷ và 100 trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi) của hai trường mầm non khu vực và xã Yên Lạc.
Bảng 1: Khảo sát trình độ nhận thức và hành vi của trẻ 4 - 5 tuổi về các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá.
STT
CÁC CHUẨN MỰC HÀNH VI
TRÌNH ĐỘ NHẬN THỨC VÀ HÀNH VI
NHẬN THỨC
HÀNH VI
1
Khi gặp hoặc chia tay với bạn, cô, cha, mẹ cháu phải làm gì? phải nói những gì?
1.78 (tốt)
1.30 (TB)
2
Nếu chẳng may cháu làm hỏng đồ chơi của bạn hoặc làm bạn bị ngã hay muốn đi qua trước mặt bạn cháu phải nói gì?
1.58(tốt)
1.24(TB)
3
Khi được cô, cha mẹ, anh chị giúp đỡ cháu phải làm gì?
1.70 (tốt)
1.20 (TB)
4
Nếu cháu muốn lấy đồ dùng, đồ chơi của bạn (hoặc của lớp), muốn nhờ bạn hoặc cô giúp đỡ cháu phải làm gì?
5
Cháu phải nói năng, xưng hô với bạn và người lớn, em nhỏ như thế nào?
1.51`(tốt)
0.60(TB)
6
Khi nhận hoặc đưa đồ vật cho người khác cháu phải nhận hoặc đưa như thế nào? phải nói gì?
1.37(tốt)
0.50 (yếu)
7
Đã bao giờ cháu hứa với mẹ, cô, anh chị… điều gì chưa?
1.65(tốt)
0.50 (yếu)
8
Nếu cháu và nhiều bạn khác cùng thích một đồ chơi nhưng không có đủ cho mỗi cháu thì cháu phải nói gì và làm gì?
1.10 (TB)
0.45 (yếu)
9
Khi chuẩn bị đi dạo ngoài trời nếu thấy bạn không đi giày được hoặc không mặc áo được cháu phải làm gì? nói gì với bạn đó?
1.25 (TB)
0.40 (yếu)
10
Khi thấy cô hoặc bố mẹ đang nói chuyện riêng thì cháu có thích lại gần và nói chuyện với họ không ?
1.20(TB)
0.55 (yếu)
Kết quả
160 (tốt)
0.45(yếu)
Từ bảng trên tôi có một số nhận xét như sau:
- Về nhận thức:
+ Các chuẩn mực nhận thức 1.2.3.4.5.10 được trẻ nhận thức tốt, các chuẩn mực đaọ đức này đạt từ 1,51 đến 1,78 điểm (60%).
+ Các chuẩn mực nhận thức 5.7.8.9 là các chuẩn mực nhận thức thấp hơn, các chuẩn mực đạt từ 1,10 đến 1,37 điểm (40%)
- Về hành vi: Đa số trẻ về các chuẩn mực hành vi còn thấp chiếm 70% loại yếu và 30% loại TB. Điều đó chứng tỏ rằng trẻ nhận thức một đằng và hành động một nẻo.
Nhận thức và hành vi về các chuẩn mực giao tiếp có văn hoá không tương xứng với nhau. So sánh mức độ đánh gía và hành vi giao tiếp của trẻ ở các chuẩn mực sau:
+ Chuẩn mực 1: Về nhận thức của trẻ đạt 1,78 điểm (loại tốt) nhưng về hành vi chỉ đạt 1,3 điểm (loại trung bình)
+ Chuẩn mực 2 và 3 về nhận thức đạt loại tốt nhưng về hành vi chỉ đạt loại trung bình. Điều này chứng tỏ trẻ nhận thức tốt, trả lời được các câu hỏi của cô đặt ra nhưng việc thực hiện các chuẩn mực đó chưa được thường xuyên.
+ Các chuẩn mực 4.6.10 trẻ nhận thức tốt nhưng về hành vi văn hoá chỉ đạt yếu. Điều này chứng tỏ trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày trẻ không thực hiện.
+ Các chuẩn mực 5.7.8.9 trẻ nhận thức đạt loại trung bình nhưng hành vi đạt loại yếu.
Qua thực tế khảo sát trẻ ở hai trường mầm non khu vực trường mầm non xã Yên Lạc chúng tôi thấy một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là:
- Giáo viên chưa biết sử dụng và phối hợp các biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ một cách thường xuyên liên tục và hệ thống.
- Chưa phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
5.2 Thực trạng về công tác giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá trong trường mầm non.
Kết quả khảo sát trên cho thấy một phần nào trách nhiệm của gia đình và nhà trường trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ ở trường mầm non hiện nay. Để hiểu rõ về công tác giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá ở trường mầm non, chúng tôi tiến hành khảo sát 30 giáo viên ở hai trường mầm non trên với nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá mà họ đã sử dụng. Sau đây là kết quả mà chúng tôi thu được trong đợt khảo sát.
+ Chúng tôi sử dụng phiếu điều tra ankét hỏi 30 giáo viên của hai trường mầm non kết hợp thu được như sau:
* Số ý kiến cho rằng giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục chiếm 72,3 %.
* Số ý kiến cho rằng nó ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chiếm 27,7%
+ Khi hỏi về nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ theo họ thì những nội dung 1.2.3.5.6.10 đã được họ quan tâm và sử dụng; còn các nội dung 4.7.8.9 họ chưa chú ý. Điều này đã chứng tỏ họ chưa hiểu một cách đầy đủ các nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
+ Khi hỏi về các phương pháp mà họ đã sử dụng để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ phần lớn số ý kiến cho rằng họ đã sử dụng phương pháp chế độ sinh hoạt hàng ngày chiếm 46,5%, phối hợp với gia đình chiếm 37,1% còn lại là các phương pháp như tổ chức các tiết học, trò chơi, nêu gương gương mẫu, khen thưởng họ có sử dụng nhưng còn hạn chế.
+ Khi hỏi về mức độ hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ thì chúng ta thu được kết quả như sau:
- Mức độ tốt 40%
- Mức độ khá 50%
- Mức độ yếu 10%
Đánh giá các mức độ trên đây của họ theo chúng tôi đánh giá một cách chủ quan nên thiếu chính xác. Để xác định rõ vấn đề này chúng tôi làm thực nghiệm phần sau:
+ Khi gặp những khó khăn trong quá trình hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ thì số ý kiến cho rằng thiếu phương tiện giáo dục chiếm 58,2%, số ý kiến khó khăn trong phối hợp với gia đình chiếm 64,3%. Còn lại các khó khăn khác như thiếu kiến thức cơ bản về phương pháp giáo dục thì họ không nói tới.
Một số điều đáng chú ý ở đây họ nói trong các phương pháp giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ thì phương pháp kết hợp giữa gia đình và nhà trường là phương pháp chính, còn phương pháp tổ chức lớp học, nêu gương khen ngợi ít được sử dụng, họ nói các kiến thức cơ bản trên tiết học thì họ nắm vững còn việc khó khăn trong việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Điều này chứng tỏ việc hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ họ chưa có phương pháp, biện pháp giáo dục cụ thể, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành giáo dục khác.
Qua điều tra chúng tôi thu được kết quả như sau:
Về kinh nghiệm mà họ đã thu được trong quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá như giáo viên luôn để ý, uốn nắn kịp thời (58% số ý kiến), nêu gương khen ngợi (22,1%) còn các kinh nghiệm khác như sưu tầm thơ, truyện có nội dung giáo dục lễ giáo phối hợp với gia đình là 96% số ý kiến.
Qua khảo sát một số giáo viên chúng tôi có ý kiến như sau:
- Giáo viên còn thiếu kiến thức cơ bản về giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
- Trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, giáo viên chưa có phương pháp và biện pháp giáo dục cụ thể và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
- Giáo viên chưa chủ động sáng tạo trong việc tổ chức giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, còn áp đặt hạn chế sử dụng phương pháp mới.
Nói tóm lại: Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách phát triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo.
Trên thực tế, giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ hiện nay ở các trường trong địa bàn huyệnYên Thuỷ còn rất thấp. Do nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình trên nhưng nguyên nhân chủ yếu là giáo viên chưa nắm chắc phương pháp giáo dục trẻ.
Để nâng cao hiệu quả của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo, chúng tôi đề ra một số biện pháp giáo dục phù hợp và có hệ thống giúp giáo viên dễ sử dụng trong việc giáo dục trẻ.
Chương II. Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
“Giao tiếp của trẻ là kỹ năng tham gia vào giao tiếp hoặc tổ chức hoạt động của trẻ.Trong đó các phương tiện hành vi là ngôn ngữ phù hợp với các chuẩn mực xã hội nhằm tạo mối quan hệ đạo đức cho trẻ”
Để nâng cao hiệu quả giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ, trước hết phải biết phối hợp sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các biện pháp sau:
1. Tổ chức tiết học vơí nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ với yêu cầu ngày càng cao.
Nguyên tắc tổ chức tiết học giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ là : Giáo viên phải dựa trên những chuẩn mực về giao tiếp để xây dựng những mẫu về phương thức giao tiếp nào đó mà trẻ chưa biết hoặc chưa hiểu rõ, điều quan trọng là phải động viên trẻ tích cực tham gia vào giao tiếp. Do vậy tiết học phải xây dựng từ dễ đến khó, từ những sự vật, hiện tượng thường gặp nhất trong cuộc sống hàng ngày gần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số biện pháp để luyện phát âm đúng cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi ở Huyện Yên Thuỷ - Tỉnh Hoà Bình.doc