Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn Tả người

Ngoài việc giúp học sinh nắm vững bài học, hiểu yêu cầu bài tập, giáo viên còn phải lưu ý thêm: để viết được đoạn văn ngắn theo yêu cầu thì phải xác định được nội dung và tìm ý, sắp xếp các ý rồi tìm cách diễn đạt sao cho phù hợp với nội dung đó. Nhờ vào định hướng trên học sinh đã viết như sau:

 "Bà nội em đã ngoài 70 tuổi. Mái tóc của bà bạc phơ luôn búi cao sau gáy. Gương mặt già với nhiều nếp nhăn hằn sâu. Lưng đã hơi còng, chân tay gầy guộc nhưng dáng đi của bà vẫn còn nhanh nhẹn lắm.”(Bài tập 4 tiết 30)

 "Mẹ em có dáng người nhỏ bé, lọt thỏm trong bộ quần áo bà ba đen. Mái tóc dài được mẹ búi cao để khi cúi xuống cấy tóc không bi bẩn. Đôi tay của mẹ đang thoăn thoắt như múa trên mặt ruộng

doc49 trang | Chia sẻ: trang80 | Lượt xem: 3373 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn Tả người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngữ, tục ngữ: Ngoài việc cung cấp, làm giàu thêm vốn từ cho các em thì giáo viên cũng cần quan tâm đến việc dạy thành ngữ, quán ngữ và tục ngữ thông dụng nhằm giúp cho cách diễn đạt của các em trong sáng, nhuần nhuyễn và sinh động, ngôn ngữ phong phú mang đậm bản sắc dân tộc. Sau khi học sinh học xong bài 2 tiết 30 tuần 15 tôi cho thi đố vui trong mục hoạt động tập thể của tiết sinh hoạt lớp hoặc những giờ luyện Tiếng việt, tiết mở rộng vốn từ theo chủ đề...nếu thấy thích hợp. Sau đó tôi cho học sinh liên hệ sử dụng một số thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ trong văn miêu tả, giúp các em nhận biết là sử dụng trong trường hợp nào để tả người: + Quan hệ gia đình: - Chị ngã em nâng. - Anh em như thể chân tay. Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần - Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. - Con có cha như nhà có nóc. - Con hơn cha là nhà có phúc. - Cá không ăn muối cá ươn, Con cãi cha mẹ trăm đường con hư. - Con hát, mẹ khen hay. - Cắt dây bầu dây bí, Ai nỡ cắt dây chị dây em - Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. - Kính trên nhường dưới. - Máu chảy ruột mềm. - Tay đứt ruột xót. + Quan hệ thầy trò: - Không thầy đố mày làm nên. - Muốn sang thì bắc cầu Kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. - Kính thầy yêu bạn. - Tôn sư trọng đạo. Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy. + Quan hệ bạn bè: - Học thầy không tầy học bạn. - Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ - Một cây làm chẳng lên non Ba cây chụm lại lên hòn núi cao. - Bán anh em xa. Mua láng giềng gần. - Thua thầy một vạn không bằng kém bạm một li. - Bạn bè con chấy cắn đôi. - Bạn nối khố. - Bốn biển một nhà. - Buôn có bạn, bán có phường. - Bạn bè là nghĩa tương tri, Sao cho sau trước chọn bề mới yên. + Nhận xét về con người: - Tài sắc vẹn toàn, khôi ngô tuấn tú, đẹp như hoa, đẹp như tiên, nghiêng nước nghiêng thành, trắng như tuyết, đỏ như son, khỏe như trâu, khỏe như voi, hiền như đất, hiền như Bụt, nóng như lửa. + Nói về như vất vả, khó nhọc: - Vượt núi băng rừng, trèo đèo lội suối, chân lấm tay bùn, hai sương một nắng, thức khuya dậy sớm, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Loại bài tập này giúp học sinh làm giàu vốn thành ngữ tục ngữ của mình, hiểu được nghĩa của thành ngữ tục ngữ. Qua đó các em có thể sử dụng trong mọi tình huống giáo tiếp và sử dụng trong văn tả người như nêu tình cảm của người viết với người được tả hay nhận xét về mối quan hệ của đối tượng miêu tả trong bài với mọi người xung quanh hay nhận xét về tính cách, vẻ đẹp hình dáng, tâm hồn... của đối tượng tả, trong bài văn tả người không chỉ sử dụng có từ đơn, từ ghép, từ láy mà còn có cả thành ngữ, tục ngữ, ca dao... làm cho bài văn có ngôn từ đa dạng, xúc tích, phong phú hơn. 1.1.5. Dạy Tập làm văn qua đơn vị câu, dấu câu: Một thực trạng khá phổ biến ở các bài văn của học sinh hiện nay là học sinh thường viết những câu " què”, câu " cụt” và bài viết không có dấu ngắt câu. Có khi trong cả bài viết các em chỉ ngắt câu để phân biệt ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Vì vậy, trước hết giờ học về câu cần rèn cho học sinh kĩ năng viết câu đúng. Có thể thực hiện điều này qua việc cho các em làm các bài tập thực hành về câu, sửa các viết sai câu và dùng sai dấu trong tiết Trả bài Tập làm văn. Một số bài học sinh viết như sau: Bài 1: "Mẹ em đẹp lắm mẹ có dáng người nhỏ nhắn nước da trắng hồng đôi bàn tay dịu dàng của mẹ làm không biết bao nhiêu là việc cho em và gia đình mẹ đẹp người và cũng đẹp cả nết..” Bài này học sinh chỉ sai là không chấm câu còn ý và nội dung thì đảm bảo. Vậy tôi yêu cầu học sinh đọc và xác định: - Đoạn văn trên tác giả tả đến đặc điểm nào của mẹ? - Mỗi đặc điểm đó có tương tương với một ý không? - Mỗi ý diễn đạt trọn vẹn có tương đương với một câu không? - Hãy ngắt đoạn văn trên thành các câu tương đương với mỗi ý vừa xác định được: đặt dấu chấm và viết hoa câu cho đúng. Qua gợi ý học sinh đã sửa được như sau: " Mẹ em đẹp lắm. Mẹ có dáng người nhỏ nhắn, nước da trắng hồng. Đôi bàn tay dịu dàng của mẹ làm không biết bao nhiêu là việc cho em và gia đình. Mẹ đẹp người và cũng đẹp cả nết...” Bài 2: Sửa các dòng chưa thành câu cho thành câu: - Trên gương mặt hồng hào. - Chòm râu trắng ấy. - Trong đôi mắt sâu thẳm của mẹ. - Bằng tình thương yêu cô truyền cho tôi. Yêu cầu học sinh chữa các dòng cho thành câu bằng hai cách khác nhau: bỏ một từ hoặc thêm bộ phận chủ ngữ, vị ngữ (đây thường là những dòng có các từ "khi”, "qua”, "trên”,"trong” đứng ở đầu câu đó là những trạng ngữ dài hoặc chỉ là một ngữ danh từ mà học sinh lầm tưởng là câu). Trong quá trình sửa sai tôi còn lưu ý thêm cho học sinh ngoài việc diễn đạt bằng những câu đơn còn phải diễn đạt bằng câu ghép hoặc câu có nhiều thành phần thì câu văn, đoạn văn sẽ không khô khan cứng nhắc mà trái lại rất mượt mà, sinh động. Các em có thể viết được những câu văn cấu tạo không chỉ có thành phần chính (chủ ngữ-vị ngữ) mà còn có nhiều thành phần phụ nhằm diễn tả sinh động đối tượng được nói đến (về màu sắc, hình dạng, kích thước, tính chất, hoặc đặc điểm riêng) qua việc làm các bài tập thực hành phân loại và viết các kiểu câu theo cấu tạo. Ví dụ: Tách các bộ phận câu, ghép các bộ phận câu cho trở thành câu đúng, thêm bộ phận thích hợp vào chỗ trống trong câu, đặt câu theo mô hình, theo đề hoặc cấu trúc cho sẵn, chuyển hai câu đơn thành câu ghép theo yêu cầu. Qua các bài tập câu, dấu câu, giáo viên giúp các em rèn luyện kĩ năng sử dụng dấu câu, đặt câu. Qua đó học sinh thấy rằng: Muốn diễn đạt đúng ý, tình cảm của mình đối với người định tả và để người đọc, người nghe thông hiểu và cảm nhận được nội dung ý tứ của bài văn thì phải biết diễn đạt thành câu rõ ý, đủ lời. Từ đó giúp các em làm quen với các kiểu câu khi diễn đạt và cấu trúc của một câu đúng, câu đủ thành phần, có thói quen và ý thức viết đúng câu, sử dụng đúng dấu câu. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc viết đoạn, viết bài tốt hơn. 1.1.6 Loại bài tập viết đoạn văn ngắn theo chủ đề, đề tài: Tiết luyện từ ở lớp 4-5 có loại bài dùng từ đặt câu, viết thành một đoạn văn ngắn theo chủ đề đã xác định nhằm luyện cho học sinh cuối bậc Tiểu học kĩ năng sử dụng từ ngữ ở mức độ cao, trực tiếp phục vụ cho việc làm văn nói-viết. Ở những bài tập này, giáo viên gợi ý hướng làm bài cho các em bằng một số câu hỏi nhằm viết một đoạn văn mạch lạc, đúng chủ đề cho trước (hoặc vấn đề do học sinh tự chọn theo yêu cầu của đề bài). Ví dụ: (Bài tập 2 tiết 28. Ôn tập về từ loại trang 143 Tiếng Việt 5 tập 1) đã yêu cầu học sinh dựa vào khổ thơ 2 của bài Hạt gạo làng ta để viết một đoạn văn ngắn tả mẹ đi cấy giữa trưa tháng sáu. Hay (bài tập 4 tiết 30. Bài tổng kết vốn từ trang 151 Tiếng Việt lớp 5 tập 1). Yêu cầu của bài là dùng một số từ (khoảng 5 từ ngữ) ở bài 3 để đặt câu viết một đoạn văn ngắn tả về hình dáng của một người thân hoặc một người em quen biết. - Sau khi cho học sinh đọc sách giáo khoa, xác định yêu cầu bài tập, giáo viên gợi ý bằng một số câu hỏi sau: + Người em định tả là ai? (bà, bố, mẹ, cô giáo.) + Đề bài yêu cầu tả chân dung hay hoạt động của người? + Người đó có hình dáng hay hoạt động gì nổi bật?(mái tóc, khuôn mặt, dáng đi, tư thế, tác phong, hành động trong lúc làm việc). - Ngoài việc giúp học sinh nắm vững bài học, hiểu yêu cầu bài tập, giáo viên còn phải lưu ý thêm: để viết được đoạn văn ngắn theo yêu cầu thì phải xác định được nội dung và tìm ý, sắp xếp các ý rồi tìm cách diễn đạt sao cho phù hợp với nội dung đó. Nhờ vào định hướng trên học sinh đã viết như sau: "Bà nội em đã ngoài 70 tuổi. Mái tóc của bà bạc phơ luôn búi cao sau gáy. Gương mặt già với nhiều nếp nhăn hằn sâu. Lưng đã hơi còng, chân tay gầy guộc nhưng dáng đi của bà vẫn còn nhanh nhẹn lắm.”(Bài tập 4 tiết 30) "Mẹ em có dáng người nhỏ bé, lọt thỏm trong bộ quần áo bà ba đen. Mái tóc dài được mẹ búi cao để khi cúi xuống cấy tóc không bi bẩn. Đôi tay của mẹ đang thoăn thoắt như múa trên mặt ruộng. Thỉnh thoảng mẹ lại đứng lên cho lưng đỡ mỏi và đưa mắt nhìn những hàng mạ thẳng tắp vừa mới cấy xong có vẻ hài lòng. Nhìn cách mẹ chia mạ, chăng dây và cấy em thán phục mẹ biết bao.” (bài tập 2 tiết 28). Loại bài tập này, với cách làm trên, sẽ giúp học sinh xác định rõ nội dung và chủ đề của đoạn văn định tả, xác định rõ bố cục của đoạn văn tránh được hiện tượng viết đoạn văn không rõ chủ đề, không rõ nội dung hoặc lạc yêu cầu của bài và khi viết bài văn các em sẽ xác định được đoạn này ở vị trí nào trong bài tránh được tình trạng lặp ý, lặp đoạn làm cho bài văn có chỗ thừa chỗ thiếu, lủng củng. 1.2. Dạy Tập làm văn qua phân môn Kể chuyện và Tập đọc. Qua việc dạy các bài kể chuyện, Tập đọc, giáo viên cung cấp cho học sinh nhiều vốn sống một cách gián tiếp, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho các em. Chính những tình cảm cao đẹp đó kết hợp với vốn sống trực tiếp giúp các em có thêm hểu biết và cảm xúc để làm các bài văn miêu tả đặc biệt là tả người. * Khi dạy kể chuyện, giáo viên chú ý dạy cho học sinh cách kể chuyện có trình tự theo các diễn biến của cốt truyện bằng lời văn của mình, thể hiện thái độ, tình cảm đối với nhân vật, với hành động của nhân vật. Ví dụ: Khi dạy bài kể chuyện ” Pa-xtơ và em bé” Sau khi hướng dẫn các em kể tìm hiểu về nhân vật Pa-xtơ như sau: GV: Để tiêm vác xin cứu em bé, Pa-xtơ đã phải trăn trở như thế nào? HS: Ông phải day dứt nhiều đêm. GV: Hành động và việc làm của ông đã cho ta biết ông là người như thế nào? HS: là thầy thuốc có trách nhiệm, nhiệt tình cứu chữa bệnh nhân, giàu lòng nhân hậu. GV: Em có tình cảm gì đối với nhân vật Pa-xtơ? HS: Yêu quý, kính trọng, khâm phục tài năng của ông. GV: Vậy khi miêu tả tính cách của một con người ta không nhất thiết phải nói trực tiếp là người đó tốt hay xấu... mà có thể đi sâu vào miêu tả cử chỉ hành động của nhân vật kết hợp với nêu cảm xúc của người viết, từ đó giúp cho người dọc hiểu và hình dung ra được nhân vật đó như thế nào, tính cách của nhân vật đó ra sao. * Khi dạy các bài Tập đọc, ngoài việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung và hình thức nghệ thuật của bài, giáo viên còn có nhiệm vụ giúp học sinh tích lũy được kinh nghiệm để làm văn. Việc yêu cầu các em trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài, nhất là những câu đòi hỏi các em phải tư duy, không ngoài mục đích dạy cho các em những kĩ năng làm văn. Khi trả lời các câu hỏi, muốn trả lời đúng và hay thì học sinh không những phải hiểu được nội dung mà các em còn phải huy động vốn từ ngữ của mình và lựa chọn hình thức diễn đạt sao cho có hiệu quả nhất. Loại câu hỏi gợi sự liên tưởng, tưởng tượng của học sinh đã trực tiếp giúp các em phát triển sức liên tưởng, óc tưởng tượng – những yếu tố cần thiết để làm văn. Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc ” Một chuyên gia máy xúc” có những chi tiết sau: "Tôi nhìn thấy một người ngoại quốc cao lớn, mái tóc vàng óng ửng lên như một mảng nắng...Bộ quần áo xanh màu công nhân, thân hình chắc và khỏe, khuôn mặt to chất phác, tất cả gợi lên ngay từ phút đầu những nét giản dị, thân mật...Đôi mắt sâu và xanh...Đôi tay to và chắc”. Ngoài việc hướng dẫn cho học sinh hiểu được nội dung của câu chuyện, tôi còn hướng dẫn cho các em nhận biết được các yếu tố có liên quan đến văn tả người như sau: - GV: Bài tập đọc thuộc thể loại văn gì? - HS: Kể chuyện. - GV: Nội dung là kể chuyện song tác giả đã xen lồng văn tả người các em ạ. Vậy tác giả đi sâu vào tả đặc điểm gì của anh A-lếch-xây? - HS: Tả dáng vẻ. - GV: Vậy khi tả chân dung của một người, ta có thể đi sâu vào tả ngoại hình của nhân vật đó có những nét nổi bật về hình dáng. Ở bài này tác giả đã rất tinh tế khi lựa chọn đặc điểm nổi bật về hình dáng để tả anh A-lếch-xây vì anh là người ngoại quốc có hình dáng khác hẳn hình dáng của người Việt Nam ta. Các em nên học tập cách tả ngoại hình này của nhà văn Hồng Thủy khi các em học thể loại văn tả người trong những tuần tới. Hay khi dạy bài Thái Sư Trần Thủ độ (tuần 20) có những câu văn diễn tả hoạt động đối thoại của Trần Thủ Độ với các nhân vật khác trong câu chuyện: - Ngươi có phu nhân xin làm cho chức câu đương, không thể ví như các câu đương khác. Vì vậy, phải chặt một ngón chân để phân biệt. - Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa. - Quả nhiên có chuyện như vậy. Xin bệ hạ cứ quở trách thần và thưởng cho người nói thật. Thể loại văn của bài này cũng giống như bài trước nên các em cũng dễ dàng nhận ra vì đã nhận diện nhiều ở học kì I. Do vậy tôi đi sâu vào khai thác nội dung sau: - GV: Bài kể về nhân vật có xen tả đặc điểm hình dáng hay tính cách (tả chân dung) của nhân vật không? - HS: Không tả trực tiếp chân dung của nhân vật. - GV: Vậy tác giả tả điểm gì của nhân vật? - HS: Tả về cử chỉ, hành động, lời nói, việc làm của nhân vật Thái sư Trần Thủ Độ. - GV: Việc tả như vậy có giúp ích gì cho người đọc không? - HS: Giúp người đọc hình dung ra tính cách của nhân vật. GV: Vậy khi tả người các em cũng có thể chọn cách đặc tả về hoạt động, cử chỉ lời nói của nhân vật để từ đó giúp người đọc hình dung ra nhân vật được tả có hình dáng hoặc tính nết như thế nào. Với cách dạy này sẽ giúp các em học tập cách tả và làm tốt các đề bài Tập làm văn tiết 32/ tuần 16 hay tiết 39/ tuần 20 hơn. * Việc dạy cho học sinh tìm hiểu, cảm thụ những bài văn, bài thơ hay đã tạo cho các em hứng thú để làm văn. Có hứng thú và cảm xúc, học sinh dễ dàng tìm từ, chọn ý giúp cho việc diễn tả được sinh động hấp dẫn. Ngoài việc sử dụng chính hệ thống những câu hỏi trong sách giáo khoa để dạy Tập làm văn, giáo viên cũng cần chọn các ngữ liệu khác để dạy, bằng cách gợi cho học sinh phát hiện những tín hiệu nghệ thuật (cách dùng từ, đặt câu, cách sử dụng một số biện pháp tu từ, sử dụng dấu câu) có trong bài Tập đọc và hướng dẫn các em phân tích cái hay, cái đẹp, giải thích cơ chế của nó, sau đó giáo viên đưa ra những văn cảnh, tình huống, yêu cầu học sinh tập diễn đạt theo mẫu. Ví dụ khi dạy bài: 'Hạng A Cháng”, "Người ăn xin”, "Bà tôi” có những câu văn đặc tả và những hình ảnh sinh động nhờ vào tài sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cách dùng từ, viết câu... mà tác giả đã dùng như: "Giọng bà trầm bổng, ngân nga như tiếng chuông đồng”. (bài Bà tôi - Tiếng Việt lớp 5 – tập 1). "A Cháng đẹp người thật. Mười tám tuổi, ngực nở vòng cung, da đỏ như lim, bắp tay, bắp chân rắn như trắc, gụ. Vóc cao, vai rộng, người đứng thẳng như cái cột đá trời trồng”. "A Cháng đeo cày. Trông anh hùng dũng như một chàng hiệp sĩ cổ đeo cung ra trận”. (bài Hạng A Cháng - Tiếng Việt lớp 5 – tập 1). "Đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi thảm hại. Chao ôi! Cảnh nghèo đói đã găm nát con người đau khổ kia thành xấu xí biết nhường nào!” ( bài Người ăn xin - Tiếng Việt lớp 4 – tập 1). Tôi đã dạy các em học tập: - Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật để tả người cho sinh động, giàu hình ảnh hơn như biện pháp so sánh trong bài Bà tôi và bài Hạng A Cháng. - Cách biểu lộ tình cảm trực tiếp trong bài qua những câu cảm, cách dùng dấu phẩy, dấu ba chấm, dấu chấm cảm để bài văn trở nên có cảm xúc, gần gũi với người đọc như ở bài Người ăn xin. Ngoài ra, tôi cũng lưu ý cho học sinh trong các bài tập đọc tác giả đã kết hợp tả hình dáng với tả các động tác lao động; tả người lao động với quang cảnh nơi họ làm việc; chọn lọc những chi tiết để nói lên sức khỏe, sự làm việc hùng dũng, nhịp nhàng của nhân vật. Ví dụ như bài: Người thợ rèn, Công nhân sửa đường. Vậy ta có thể áp dụng cách miêu tả này vào bài tả chị bán hàng làm việc lúc đông khách hay tả anh thợ xây đang xây nhà, tả bác nông dân đang cày ruộng... chúng ta phải tả kết hợp hình dáng với các động tác lao động (lấy hàng, đưa hàng, nhận tiền, trả tiền thừa hay căng dây, xúc vữa, chặt gạch, cách đặt viên gạch, điều khiển trâu cày...) Tả người lao động với quang cảnh nơi họ đang làm việc (cách bài trí gian phòng, sắp xếp, trưng bày các mặt hàng hay nơi công trường gạch, gỗ bê tông ngổn ngang). Chọn lọc những chi tiết nói lên sự tháo vát, nhanh nhẹn, khéo léo, sự làm việc hăng say, nhiệt tình của chị bán hàng hay anh thợ nề, của bác nông dân... * Tóm lại: Việc dạy học sinh Tập làm văn Tả người không nên chỉ chờ đến giờ Tập làm văn mà cần kết hợp dạy nó trong khi dạy các phân môn khác, làm được điều này sẽ khiến cho việc giảng dạy cũng như học Tập làm văn của giáo viên và học sinh nhẹ nhàng và có chất lượng hơn. 2. Giải quyết vấn đề 2: Rèn kĩ năng sử dụng văn tham khảo trong dạy học tập làm văn. Trước hết, cần phải xác định những "bài văn mẫu” ở đây không phải là những sản phẩm mang tính chuẩn mực mà nó chỉ là những tài liệu có chọn lọc đưa ra để tham khảo và học tập. Bởi thế, một vấn đề đặt ra cho giáo viên Tiểu học là trong giảng dạy Tập làm văn có nên dùng những "bài văn mẫu” hay không? Nếu có thì dùng như thế nào? Theo tôi, việc sử dụng những "bài văn mẫu” này là điều nên làm nhưng sử dụng nó như thế nào, điều đó còn tùy thuộc vào đặc điểm nhận thức của học sinh từng lớp, vào sự linh hoạt sáng tạo trong giảng dạy của giáo viên. Do vậy việc sử dụng những bài văn tham khảo này cần được giáo viên tính toán, cân nhắc kĩ về nhiều mặt: Dùng vào lúc nào? Dùng cả bài hay một đoạn? Dùng để giúp học sinh học tập điều gì? (về nội dung, cách trình bày và diễn đạt). Tránh sử dụng một cách tùy tiện, lạm dụng gây ảnh hưởng đến nền nếp học tập phân môn Tập làm văn. Như vậy, việc giáo viên giúp học sinh vận dụng linh hoạt hợp lí các "bài văn mẫu” là rất quan trọng. Để giúp học sinh sử dụng văn tham khảo tốt hơn tôi thường làm như sau: 1. Chọn tài liệu tham khảo. 2. Chọn bài và phân tích bài. 3. Chọn lọc câu, từ hay, hình ảnh đẹp. 4. Áp dụng để viết đoạn, bài. Cách tiến hành như sau: 2.1. Chọn tài liệu tham khảo: Như chúng ta đều biết trên thị trường có nhiều loại sách tham khảo cả chính thống và không chính thống. Do vậy việc lựa chọn tài liệu tham khảo là rất khó khăn đối với trình độ của học sinh. Vì vậy tôi đã trực tiếp tìm đọc và lựa chọn cho các em những quyển sách tham khảo sau: - Tuyển tập 150 bài văn hay cấp Tiểu học. Tác giả: Thái Quang Vinh, Trần Đức Niềm. Nhà Xuất bản Đại học sư phạm - Những bài văn đạt giải cấp quốc gia. Tác giả: Tạ Thanh Sơn, Nguyễn Trung Kiên. Nhà Xuất bản Đại học sư phạm - 40 Bộ đề ôn thi Tiếng Việt cuối cấp Tiểu học. Tác giả: Lê Phương Nga, Lê Hữu Thỉnh, Nguyễn Trí.Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam. Ưu điểm của những tài liệu này là: - Các bài văn đều có ngôn từ giản dị, dễ hiểu đối với học sinh. - Cách diễn đạt gọn, rõ ràng không quá trau truốt cầu kì. - Nhân vật được miêu tả gần gũi với học sinh, giúp học sinh dễ tưởng tượng, - Câu văn giàu hình ảnh, sát thực tế giúp học sinh dễ dàng học tập và làm theo. 2.2. Chọn và phân tích bài: Sau khi học sinh có trong tay một trong những quyển sách tham khảo trên, trước khi học bài trên lớp tôi hướng dẫn các em tiếp cận với bài văn tham khảo như sau: Ví dụ: Tiết 21/ tuần 12: Tả người thân trong gia đình em, tôi yêu cầu các em làm như sau: - Tìm trong sách tham khảo các bài văn có liên quan tới nội dung của bài ngày mai (tả người). - Đọc nhiều lần các bài văn đó. - Lựa chọn bài tiêu biểu nhất (Bố cục, nội dung, hình ảnh, nghệ thuật...) - Cuối giờ học hôm sau báo cáo kết quả lựa chọn của mình trước lớp. Nhờ vào yêu cầu đó hầu hết các em đều chọn được một bài mà mình ưng ý và báo cáo được kết quả như sau: - Em chọn bài văn tả bà (Tuyển tập 150 bài văn hay cấp Tiểu học). Vì bài đó có đoạn tả hình dáng bà rất hay. - Em chọn bài văn tả em bé (40 Bộ đề ôn thi Tiếng Việt cuối cấp Tiểu học). Vì đoạn tả hình dáng của em bé rất ngộ nghĩnh, đáng yêu. - Em chọn bài văn tả ông (Những bài văn đạt giải cấp quốc gia). Vì nó có bố cục rõ, dễ hiểu và có câu văn hay. Em chọn bài văn tả mẹ. (Những bài văn đạt giải cấp quốc gia). Vì bài tả tình cảm của người mẹ dành cho con rất xúc động. Qua bước này, tôi đã giúp các em tiếp cận được với nhiều đối tượng tả. Trong quá trình đọc bài các em phần nào hình dung ra cách tả một người như thế nào, bài văn có bố cục ra sao, có mấy phần, mấy ý lớn, từ đó các em có khả năng định hình cho ý tưởng tả, sắp xếp các phần, các ý cho bài viết của mình sau này. 2.3. Chọn lọc câu, từ hay, hình ảnh đẹp: Khi học sinh thực hiện xong bước chọn bài và phân tích bài, tôi hướng dẫn học sinh cách chọn từ ngữ, câu văn hay, hình ảnh đẹp thông qua các câu hỏi gợi ý sau: - Trong bài em vừa chọn có những từ ngữ, câu văn nào hay? - Hình ảnh gây ấn tượng nhất cho em là gì? - Có biện pháp nghệ thuật nào em cần phải học tập? Hầu hết học sinh đều tìm được và báo cáo trước lớp như sau: - Trong bài có: + Các từ ngữ hay là: nhỏ nhắn, tóc pha sương, giọng êm dịu. (tả bà). Hồng hào, ngây ngô, xinh xinh, hoa vàng...(tả em bé). + Câu văn hay: Đôi mắt của bà thâm lại theo năm tháng của cuộc đời. (tả bà). Em lớn lên trong vòng tay ấp ủ của mẹ hiền. Mẹ thương em bằng tấm lòng hiền hậu bao dung. (tả mẹ). Ông có gương mặt chữ điền, nước da hồng hào, rất phúc hậu. (tả ông). + Hình ảnh đẹp: Đôi mắt bé mở to, đen láy, trong veo như hồ nước. (tả em bé). Dáng mẹ hao gầy trong nắng. (tả mẹ). Đôi mắt ánh lên những tia sáng ấm áp vui tươi, không bao giờ tắt. (tả ông). + Biện pháp nghệ thuật: Cháu chẳng bao giờ quên được tình thương yêu bao la như trời biển của bà. (tả bà). Mẹ là vầng thái dương sưởi ấm cuộc đời em. (tả mẹ). Làm kĩ bước này giáo viên góp phần cung cấp cho các em một số câu văn, từ ngữ hay, hình ảnh đẹp, làm giàu vốn từ, giúp các em có thể học tập áp dụng vào bài viết của mình. 2.4. Áp dụng để viết đoạn, bài: Giáo viên cần lưu ý cho học sinh khi áp dụng văn tham khảo như sau: - Đọc nhiều sách tham khảo, càng đọc nhiều càng tốt nhưng cũng cần phải có sự chọn và ghi nhớ những câu, từ ngữ hay, hình ảnh đẹp. - Tự cảm nhận ý nghĩa, nội dung về các chi tiết mà mình lựa chọn. - Thông qua cảm nhận của riêng mình hãy biến các chi tiết vừa lựa chọn đó thành ngôn ngữ diễn đạt của cá nhân mình. - Xác định được các chi tiết lựa chọn đó dùng khi nào, lúc nào cho phù hợp với văn cảnh. - Có thể chọn ngữ liệu tham khảo tả đối tượng này để áp dụng tả cho đối tượng khác nhưng phải cùng một thể loại. - Tạo ra sản phẩm thực sự là của mình chứ không phải ghi nhớ, học thuộc để sao chép lại. Ví dụ: - Trong văn tham khảo có câu: Mẹ là vầng thái dương sưởi ấm cuộc đời em. (tả mẹ). Học sinh đã học tập cách viết biện pháp nghệ thuật so sánh và viết được như sau: Mẹ là vì sao sáng soi đường chỉ lối cho em vững bước đi vào đời. - Hay câu văn tham khảo: ” Em lớn lên trong vòng tay ấp ủ của mẹ hiền. Mẹ thương em bằng tấm lòng hiền hậu bao dung...(tả mẹ). Học sinh đã học tập cách viết câu văn hay, hình ảnh đẹp để viết như sau: Em lớn lên bằng những lời ru yêu thương của bà. Cả cuộc đời, bà luôn dành cho em thình yêu thương như biển trời. * Lưu ý: - Giáo viên có thể chỉ yêu cầu học sinh đọc tham khảo một đoạn hoặc ý, một câu tùy thuộc vào nội dung của tiết học. - Giáo viên có thể sử dụng văn tham khảo trong trong tiết lập dàn ý, hoặc trong giờ viết bài văn hoàn chỉnh để cho học sinh tham khảo về cách trình bày bố cục. - Sử dụng trong tiết viết đoạn để học sinh tham khảo cách sắp xếp ý, câu, cách viết mở đoạn kết đoạn, các từ ngữ hay... Khi giao việc đọc tham khảo ở nhà, giáo viên cần có lệnh cụ thể không được chung chung. - Kiểm tra kĩ năng đọc của học sinh trong giờ học tùy thuộc vào từng bài cụ thể (trước giờ học nếu đó là tiết viết bài, cuối buổi học nếu đó là tiết trả bài,..) Vậy qua việc sử dụng văn tham khảo giúp học sinh học tập cách dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cách bố cục, cấu trúc của một bài văn để vận dụng vào bài làm của mình khi viết văn tả người. 3. Giải quyết vấn đề 3: Rèn kĩ năng lập dàn bài chi tiết. Việc lập dàn bài là bước định hướng cụ thể cho bài làm văn của các em. Mỗi dàn bài Tập làm văn được coi như một bản kế hoạch, chỉ cần nhìn vào đó, ta có thể hình dung được nội dung bài văn sẽ được triển khai như thế nào. Nếu như làm được việc này, học sinh sẽ có điều kiện để chuẩn bị kĩ hơn khi viết thành văn trong tiết tập làm văn viết. Do đó, công việc của người giáo viên là phải chuẩn bị cho mình dàn bài để có thể cung cấp một số kiến thức có liên quan đến đề văn cho các em. Sau đây tôi xin đưa ra cách hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi tiết cho bài văn tả người theo các bước sau: Ví dụ: Hãy lập dàn ý cho bài văn tả người thân trong gia đình em.(Tiết 21 tuần 12) 3.1. Bước phân tích đề: Phân tích đề rất quan trọng. Nếu bỏ qua thì học sinh có khả năng lớn là sẽ làm lạc đề hoặc bài viết sẽ không trọng tâm. Vậy tôi đã dùng câu hỏi gợi mở để giúp học sinh phân tích đề như sau: Hoạt động của thầy Hoạt động của trò - Bài văn thuộc thể loại gì? - Đối tượng miêu tả là ai? - Nội dung miêu tả là gì? - Lời văn cần bộc lộ thái độ, tình cảm như thế nào? - Văn miêu tả. - Tả người thân. - Tả hình dáng tính tình. - Kính trọng, yêu thương. Kĩ năng này có tác dụng giúp học sinh xác định đúng thể loại văn và yêu cầu của đề bài, tạo điều kiện cho học sinh tả đúng đối tượng. 3.2. Bước phân tích đề: Dựa vào cấu tạo của bài văn tả người, bằng hệ thống câu hỏi, bằng các hình thức tổ chức dạy học, tôi giú

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSKKN Mot so bien phap giup hoc sinh lop 5 lam tot bai van Ta nguoi_12337300.doc
Tài liệu liên quan