Mục lục
Trang
A. Phần mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài .
2. Lịch sử vấn đề .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài.
7. Cấu trúc của bài tập nghiệp vụ sư phạm.
B. Phần nội dung.
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng kênh hìnhđể tạo biểu tượng cho học sinh trong giảng dạy lịch sử ở trường THCS.
1.1. Cơ sở lý luận.
1.1.1. Cơ sở xuất phát.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử nói chung và tạo biểu tượng không gian nói riêng. .
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng không gian nói riêng trong dạy học lịch sử.
1.1.4. Quan niệm về địa danh lịch sử và mối quan hệ giữa địa danh và biểu tượng không gian.
1.2. Thực tiễn của việc sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử nói chung, tạo biểu tượng không gian nói riêng ở trường THCS.
1.2.1. Đối với giáo viên.
1.2.2. Đối với học sinh.
Chương II: Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945( Lớp 9- THCS).
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản. .
2.1.1. Vị trí .
2.1.2. Mục tiêu.
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của chương trình .
2.2. Những kênh hình trong sách giáo khoa cần khai thác để tạo biểu tượng không gian cho học sinh.
2.2.1. Bảng thống kê kênh hình cần khai thác .
2.2.2. Nội dung kênh hình trong sách giáo khoa .
2.3. Những địa danh lịch sử cần sử dụng để tạo biểu tượng .
2.3.1. Bảng thống kê các địa danh lịch sử cần sử dụng .
2.3.2. Những địa danh lịch sử cần sử dụng
2.4. Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong dạy học Lịch sử nhằm tạo biểu tượng không gian.
2.4.1. Sử dụng lược đồ kết hợp với tường thuật, miêu tả xen kẽ với đàm thoại để tạo biểu tượng về không gian.
2.4.2. Sử dụng tranh ảnh lịch sử kết hợp với miêu tả khái quát và trao đổi đàm thoại nhằm tạo biểu tượng về không gian cho học sinh
2.4.3. Sử dụng tài liệu tham khảo đặc biệt là tài liệu về địa danh nhằm tạo biểu tượng về không gian trong dạy học lịch sử.
2.4.4. Kết hợp việc sử dụng kênh hình với với hệ thống câu hỏi nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử.
2.4.5. Sử dụng bài tập về nhà để củng cố biểu tượng không gian cho học sinh.
2.5. Thực nghiệm sư phạm.
2.5.1. Mục đích thực nghiệm. .
2.5.2. Nội dung thực nghiệm .
2.5.3. Phương pháp thực nghiệm.
2.5.4. Kết quả thực nghiệm.
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo. 3
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11040 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945( Lớp 9- THCS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a học sinh.
Bản đồ – lược đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm, thời gian, không gian, diễn biến của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Đồng thời bản đồ còn giúp các em củng cố, ghi nhớ kiến thức đã học. Bản đồ có thể chia thành hai loại chính: bản đồ tổng hợp và bản đồ chuyên đề.
Bản đồ- lược đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước hay nhiều nước có liên quan đến một thời kỳ nhất định trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Ví dụ: Lược đồ Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931)
Bản đồ chuyên đề nhằm diễn tả những sự kiện riêng hay một mặt của qúa trình lịch sử như diễn biến một trận đánh. Ví dụ: Khởi nghĩa Bắc Sơn(1940)…
- Sơ đồ lịch sử: Nhằm cụ thể hoá nội dung sự kiện bằng hình học đơn giản, diễn tả một tổ chức, một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử. Sơ đồ trong SGK có thể dùng để minh hoạ, cụ thể hoá kiến thức cho “kênh chữ” hoặc được dùng như một kênh thông tin độc lập nhằm đa dạng hoá nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Ví dụ: Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước của thực dân Pháp ở Đông Dương.
- Niên biểu lịch sử dùng để hệ thống hoá các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện của một nước hay nhiều nước trong một thời kỳ. Niên biểu được chia làm 3 loại chính: Niên biểu tổng hợp, niên biểu chuyên đề, niên biểu so sánh.
- Đồ thị lịch sử miêu tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Đồ thị có thể biểu diễn bằng mũi tên để minh hoạ sự vận động đi lên, sự phát triển của một hiện tượng lịch sử.
Việc phân loại kênh hình trong SGK có ý nghĩa rất quan trọng, nó định hướng cho giáo viên xác định những biện pháp để hướng dẫn học sinhlĩnh hội kiến thức qua kênh hình.
1.1.2.4. Các yêu cầu khi sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa
Muốn khai thác tốt và sử dụng có hiệu quả hệ thống kênh hình trong SGK, giáo viên phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Trước hết giáo viên phải hiểu rõ và có quan niệm đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của hệ thống kênh hình trong SGK. Phải coi kênh hình như một nguồn cung cấp kiến thức quan trọng, là chỗ dựa để học sinh “làm việc” với SGK trên cơ sở phát huy tính tích cực. Mặt khác, kênh hình còn là cơ sở để giáo viên dựa vào đó tổ chức các hoạt động học tập độc lập của học sinh cũng như phối hợp các phương pháp dạy học khác nhau trong quá trình day học. Từ quan niệm đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của kênh hình giáo viên sẽ xác định cách khai thác và sử dụng kênh hình một cách khoa học mang lại hiệu quả cao.
- Phải đảm bảo tính tư tưởng: Đây là một trong những nguyên tắc hàng đầu của việc dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Điều này thể hiện ở tính mục đích của nền giáo dục của mỗi chế độ giáo dục khác nhau. Mục đích của trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện, đáp ứng những yêu cầu phát triển của đất nước.
Bộ môn lịch sử với đặc trưng và nội dung của mình phải góp phần đắc lực vào thực hiện mục đích này. Dạy học lịch sử ở trường THCS phải khơi dậy ở học sinh lòng tự hào dân tộc, lòng yêu quý biết ơn quần chúng nhân dân, lòng yêu chuộng hoà bình, yêu chủ nghĩa xã hội, căm gét chiến tranh… Từ đó các em thấy được trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc hiện nay. Kênh hình trong SGK là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh, vì vậy khai thác và sử dung chúng góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cho học sinh.
- Phải đảm bảo tính chính xác, khoa học: Tính khoa học của kênh hình được xác định bởi độ chính xác về tỷ lệ, về vị trí địa lý, về phân bố, cách trình bày, phải có sự phối hợp giữa đặc điểm nội dung của sự kiện, hiện tượng lịch sử với nội dung thể hiện trên kênh hình và phương pháp truyền đạt của giáo viên. Nội dung thể hiện trên kênh hình phải hợp lý, chính xác, phản ánh đúng sự kiện, hiện tượng lịch sử quá khứ.
Tính khoa học còn được xác định bởi độ thông tin thích hợp. Yêu cầu đối với giáo viên khi sử dụng kênh hình, tránh xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử. Như vậy, giáo viên phải năm chắc nội dung kênh hình mà mình sẽ sử dụng.
Tính khoa học còn phải gắn liền với tính vừa sức đối với việc lĩnh hội kiến thức vừa đủ, trình bày ngắn gọn, súc tích, không rườm rà, không quá sức tiếp thu của học sinh.
- Phải đảm bảo tính trực quan: có giá trị truyền cảm, lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh. Tính trực quan đòi hỏi phải có nội dung rõ ràng, chính xác, cụ thể, dễ hiểu và có cơ sở khoa học. Để đảm bảo tính trực quan, nội dung kênh hình còn phải được thể hiện bằng màu sắc, ký hiệu, kích thước, bố cục hợp lý. Kênh hình được trình bày đẹp, chính xác, rõ ràng, cụ thể kết hợp với lời nói sinh động giàu hình ảnh của giáo viên sẽ có tác dụng to lớn trong việc tạo sức hấp dẫn, hứng thú học tập, góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
- Phải đảm bảo tính sư phạm: Đây là một yêu cầu quan trọng đòi hỏi người giáo viên tuân thủ khi khai thác nội dung “ kênh hình” được thể hiện trên nhiều mặt.
Việc khai thác nội dung và phương pháp sử dụng phù hợp với trình độ của học sinh. Nội dung “kênh hình” không quá khó hoặc không quá dễ, bởi nó sẽ gây khó khăn hoặc làm giảm hứng thú, sự tò mò của học sinh trong học tập.
Việc khai thác nội dung và phương pháp sử dụng phải phù hợp với từng thể loại kênh hình, nội dung bài học từng trường hợp sử dụng mà có cách khai thác sử dụng hợp lý nhằm đem lại hiệu quả bài học lịch sử. Việc sử dụng kênh hình phải đúng thời điểm. Giáo viên chỉ đưa kênh hình ra sử dụng khi trình bày phần nội dung có liên quan và cần thiết phải sử dụng kênh hình. Không được đưa ra quá sớm làm phân tán sự chú ý của học sinh cũng không được đưa ra quá muộn sẽ không gây được sự chú ý, hứng thú khiến các em khó khăn trong việc đối chiếu, so sánh, tìm ra mối liên hệ giữa nội dung “ kênh hình” và “kênh chữ”.
Việc sử dụng kênh hình phải phát triển tính tích cực nhận thức độc lập của học sinh, đặc biệt là tư duy độc lập. Giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động học tập độc lập của học sinh, kết hợp sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học khác nhau nhằm hướng dẫn học sinh thông qua các hoạt động học tập độc lập, để học sinh rút ra kết luận từ SGK.
Khi sử dụng kênh hình trong SGK, giáo viên phải kết hợp các phương pháp dạy học khác nhau: dùng lời, nêu vấn đề, nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan để làm cho việc sử dụng “ kênh hình” cũng như trình bày bài giảng được khoa học, hấp dẫn phong phú.
Để đem lại hiệu quả bài học lịch sử cũng như chất lượng dạy học bộ môn, trong đó quá trình sử dụng “kênh hình” trong SGK, đòi hỏi người giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu trên.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng lịch sử nói chung và biểu tượng không gian nói riêng trong dạy học lịch sử
Theo các nhà tâm lý học, trong quá trình tri giác thế giới bên ngoài con người phản ánh sự vật và hiện tượng xung quanh mình dưới dạng hình ảnh của các vật thể đó. Các hình ảnh này được phản ánh và lưu giữ một thời gian đáng kể trong ý thức con người. Hình ảnh đó được gọi là biểu tượng.
Biểu tượng là “ Hình ảnh của sự vật, hiện tượng thế giới xung quanh được lưu giữ lại trong ý thức và hình thành trên cơ sở cảm giác và tri giác xảy ra trước đó”.
Các hình ảnh của sự vật hiện tượng được lưu giữ trong biểu tượng luôn mang tính trực quan cụ thể, chúng phản ánh mặt ngoài của sự vật, hiện tượng.
Do đặc điểm của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không phải bắt đầu từ trực quan sinh động mà từ nắm sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tuy vậy, việc học tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận thức: qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và lý tính. Có thể nói tạo biểu tượng là giai đoạn nhận thức cảm tính của quá trình học tập lịch sử.
Từ nhận thức chung về biểu tượng, chúng ta có thể hiểu rằng: “ Biểu tượng trong lịch sử là hình ảnh những sự kiện, nhân vật, điều kiện địa lý… được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất”. Như vậy, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức thông qua việc tạo nên hình ảnh về quá khứ, bằng những hoạt động của những giác quan: thị giác tạo nên hình ảnh trực quan, thính giác đem lại những hình ảnh về quá khứ thông qua lời giảng của giáo viên.
Việc tạo biểu tượng cho học sinh là một vấn đề khó khăn vì yêu cầu của dạy học lịch sử là phải tái tạo những hình ảnh về các sự lkiện đúng như nó tồn tại, mà những sự kiện đó học sinh không được trực tiếp quan sát, xa lạ với đời sống hiện nay, với kinh nghiệm hiểu biết của các em. Vì vậy, trong việc tạo biểu tượng, giáo viên phải làm cho các sự kiện lịch sử khách quan xích lại gần với khả năng hiểu biết của học sinh.
Trên cơ sở khái niệm về biểu tượng lịch sử nêu trên và ý nghĩa cần thiết về phương pháp luận cũng như phương pháp dạy học, các nhà phương pháp đã phân loại biểu tượng lịch sử, với các loại biểu tượng đó là: Biểu tượng không gian, biểu tượng về thời gian, biểu tượng về nền văn hoá vật chất, biểu tượng về nhân vật lịch sử. Và trong đó biểu tượng không gian là một bộ phân của biểu tượng lịch sử và bên cạnh những nét chung còn có những nét riêng để tạo nên bức tranh trọn vẹn của lịch sử quá khứ.
Như chúng ta đã biết bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều diễn ra ở một địa điểm, không gian xác định. Từ đó có thể khẳng định rằng: biểu tượng không gian là hình ảnh về địa lý, địa điểm nơi diễn ra một sự kiện lịch sử nào đó được tái hiện một cách cụ thể, riêng biệt và được tái hiện trong óc của học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất.
Ví dụ khi dạy bài 19- lịch sử 9: “ Phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935”, giáo viên kết hợp giữa tường thuật, miêu tả với lược đồ. Việc kết hợp với lời nói và đồ dung trực quan như trên sẽ khắc sâu trong tâm trí học sinh biểu tượng về Phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm 1930-1935 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, giúp học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức.
-Về giáo dục: Việc tạo biểu tượng lịch sử có ý nghĩa giáo dục đối với học sinh, vì chỉ thông qua hình ảnh cụ thể, sinh động có sức gợi cảm mới tác động mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của các em.
- Về phát triển: Cùng với việc hình thành tri thức, giáo dục tư tưởng tình cảm, tạo biểu tượng lịch sử còn góp phần phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ đồ dùng trực quan nào học sinh cũng có thể nhận xét, phán đoán hình dung về qua khứ lịch sử được phản ánh. Ví dụ: khi giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ cuộc khởi nghĩa nghĩa Nam Kỳ trong SGK lịch sử 9, học sinh sẽ trả lời được câu hỏi: Quy mô của cuộc khởi nghĩa như thế nào? Lực lượng cuộc khởi nghĩa này gồm những ai? Em hãy chỉ ra những địa điểm chính của cuộc khởi nghĩa… Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan nhằm tạo biểu tượng, giáo viên đã giúp học sinh phát triển óc quan sát, khả năng tư duy và ngôn ngữ trình bày, diễn đạt.
1.1.4. Quan niệm về địa danh lịch sử và mối quan hệ giữa địa danh và biểu tượng không gian
*- Khái niệm về địa danh lịch sử:
Bất cứ một vùng đát nào dù lớn hay nhỏ đều có các địa danh, các tên gọi khác nhau. Địa danh bao gồm địa danh địa lý, địa danh lịch sử, địa danh văn hoá.
Theo thuật ngữ lịch sử phổ thông thì “địa danh” là tên gọi của một địa phương, một quốc gia hay một châu lục. Địa danh thường phản ánh quá trình hình thành các yếu tố về địa lý, xã hội, lịch sử của một vùng lãnh thổ.
Địa danh có rất nhiều, nhưng không phải địa danh nào cũng trở thành địa danh lịch sử. Chỉ có những vùng đất trực tiếp gắn với các sự kiện, biến cố trong lịch sử nhân loại, dân tộc và địa phương, thì tên gọi của vùng đất đó mới được gọi là địa danh lịch sử.
Có thể hiểu “Địa danh lịch sử là những tên gọi của những vùng đất, những địa phương đã diễn ra những sự kiện, hiện tượng và biến cố trong lịch sử nhân loại, dân tộc và lịch sử địa phương. Ví dụ : Khu giải phóng Việt Bắc, Quảng trường Ba Đình…
*- Mối quan hệ giữa địa danh lịch sử và biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử
Trong dạy học lịch sử, giáo viên không thể cung cấp mọi kiến thức của khoa học lịch sử cho học sinh mà chỉ có thể giúp các em nắm vững các sự kiện cơ bản của bài học.
Kiến thức cơ bản là kiến thức tối ưu, cần thiết cho việc hiểu biết của học sinh về lịch sử thế giới cũng như lịch sử dân tộc. Nó bao gồm các yếu tố: sự kiện lịch sử, địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, các biểu tượng khái niệm lịch sử… Như vậy, địa danh lịch sử là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu được trong lượng kiến thức cần cung cấp và làm rõ cho học sinh hiểu.
Mặt khác, sự kiện lịch sử bao giờ cũng mang tính cụ thể bất cứ một sự kiện, hiện tượng nào xảy ra trong một không gian, thời gian nhất định, gắn với những nhân vật lịch sử nhất định. Nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì không phải là sự kiện lịch sử và chúng ta không có khả năng nhận thức nó.
Trong ba yếu tố cấu thành sự kiện lịch sử, thì địa danh là yếu tố không gian, là yếu tố không thể thiếu trong lịch sử và dạy học lịch sử. Đối với dạy học lịch sử, những kiến thức về địa danh được coi như nguồn kiến thức quan trọng trong việc đảm bảo tính cụ thể, hệ thống toàn diện của sự kiện lịch sử, trên cơ sở đó phần hình thành khái niệm cho học sinh.
Như vậy, muốn tạo biểu tượng không gian cho học sinh trong dạy học lịch sử giáo viên cần có những kiến thức về địa danh. Kiến thức về địa danh sẽ là nền tảng cơ sở cho việc tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy bài 21- Việt Nam trong những năm 1939-1945, nói về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn( 27/9/1940) để giúp học sinh nắm vững diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Xác định nơi diễn ra khởi nghĩa. Giáo viên sử dụng phương pháp dạy học như sử dụng đồ dùng trực quan miêu tả, tường thuật ... với việc sử dụng kiến thức về địa danh lịch sử trong phần này. Giáo viên sử dụng kiến thức về vùng đất Lạng Sơn – một tỉnh sát với biên giới Trung Quốc , cũng là biên giới Đông Dương và đặt vào hoàn cảnh lúc đó Nhật đang âm mưu xâm lược Đông Dương.
Có thể nói, cung cấp kiến thức về địa danh trong dạy học lịch sử là một trong những biện pháp, là nguồn kiến thức quan trọng trong việc góp phần tạo nên tính hình ảnh và gây xúc cảm lịch sử cho học sinh, qua đó nâng cao hiệu quả bài học lịch sử trong nhà trương THCS.
1.2. Thực tiễn của việc sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử nói chung, tạo biểu tượng không gian nói riêng ở trường THCS
Qua công tác giảng dạy bộ môn ở nhà trường THCS trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và việc sử dụng kênh hình nói riêng trong dạy học lịch sử, tôi nhận thấy:
1.2.1. Đối với giáo viên:
*- Ưu điểm:
- Đại đa số đều đã có sự thay đổi trong nhận thứcvề sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực qua, phương pháp giải quyết vấn đề , phương pháp trường hợp, phương pháp vấn đáp và thảo luận nhóm thông qua sự tổ chức hướng dẫn, trình bày sinh động của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, sử dụng đồ dùng trực quan…tạo được sự hứng thú, tích cực trong học tập của học sinh.
- Thông qua việc tổ chức học tập lĩnh hội kiến thức của giáo viên, bước đầu tạo được hiệu quả trong học tập đối với học sinh đại trà, bên cạnh đó giảm tỷ lệ lớn học sinh học yếu kém hoặc ngại học tập bộ môn và giúp học sinh khá giỏi nâng cao độc lập trong học tập nghiên cứu.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã kết hợp nhuần nhuyễn đồ dùng thiết bị dạy học, khai thác triệt để ưu thế của các loại đồ dùng này như; sử dụng tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, sa bàn và các thiết bị như đèn chiếu, phim video… từng bước ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với những yêu cầu đổi mới trong giai đoan hiện nay. Trong đó việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian lịch sử đạt được nhiều kết quả, thể hiện được sự tâm huyết của giáo viên trong nghề nghiệp.
*- Hạn chế: Còn số ít giáo viên chưa hiểu được vai trò và ý nghĩa của kênh hình, đặc biệt là việc sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa để tạo biểu tượng không gian trong quá trình dạy học lịch sử. Do đó không phát huy được tính tích cực của học sinh khi tìm hiểu và nêu nội dung kênh hình.Điều đó còn cho thấy vẫn tồn tại phương pháp dạy học cũ trong giảng dạy “ thầy đọc trò chép”. Từ thực trạng trên, chúng tôi thấy việc khai thác kênh hình để tạo biểu tượng không gian ở trường THCS là chưa tốt và hiệu quả mang lại chưa cao.
1.2.2. Đối với học sinh
*- Tích cực:
- Đa số học sinh có sự tập trung hơn trong học tập , ý thức học bài và chuẩn bị bài cũng được tốt hơn. Khả năng tự học và phán đoán nội dung kiến thức bài học thông qua tranh ảnh, bản đồ trong sách giáo khoa của học sinh có sự tiến bộ.
- Các em rất hào hứng tham gia các hoạt động học tập như tự nghiên cứu, thảo luận nhóm, vấn đáp, nhằm chiếm lĩnh kiến thức bài học được chủ động hơn. Trong quá trình học tập việc khai thác nội dung bài học, kỹ năng trình bày nội dung kênh hình có sự tiến bộ rõ rệt hơn. Học sinh nhận thức đúng đắn về sự kiện, hiện tượng lịch sử đặc biệt là không gian lịch sử trong giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, phát triển nhân cách của học sinh.
*- Hạn chế:
- Qua kiểm tra thực tế trên lớp với 10 đối tượng trong một tiết bài tập lịch sử khi sử dụng bản đồ và diễn đạt nội dung sơ đồ vẫn có tới 3 em( 30%) trình bày chưa rõ hoặc không trình bày được nội dung yêu cầu cơ bản của bài. Từ thực tế đó dẫn đến việc tiếp thu kiến thức lịch sử còn nhiều hạn chế, khi được hỏi về các địa danh diễn ra các sự kiện học sinh trả lời còn nhầm lẫn, nhớ kiến thức một cách mơ màng, việc học tập kênh hình của các em còn quá ít, gần như những kênh hình đó không có tác dụng nhiều với các em trong quá trình học tập lịch sử. Ví dụ: Khi học sinh được hỏi địa bàn của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nay thuộc tỉnh nào? Rất ít các em trả lời đúng, có trường hợp còn không nắm được sự kiện này điễn ra như thế nào.
Kết quả trên phản ánh một tình trạng đáng quan tâm về dạy và học ở trương THCS hiện nay. Muốn giải quyết tình trạng này phải xuất phát từ thái độ tích cực, chủ động, độc lập sáng tạo của người dạy và người học. Từ thực tiễn trên chúng ta thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học, với việc sử dụng một cách hiệu quả nhằm tạo biểu tượng lịch sử đặc biệt là biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử là điều kiện hết sức cần thiết.
*- Nguyên nhân thực trạng
Qua quá trình giảng dạy thực tế những năm qua, tôi rút ra một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế nêu trên:
+Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng hệ thống kênh hình nói riêng và đồ dùng trực quan nói chung để tạo biểu tượng cho học sinh. Nhiều thầy cô chưa phát huy tính tích cực của học sinh qua hệ thống kênh hình trên lớp.
Giáo viên chưa tự giác, chưa tập trung sưu tầm kênh hình để phục vụ cho bài giảng. Trong khi đó hệ thống kênh hình của trường học lại chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, còn quá ít so với nhu cầu của bài giảng.
Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa thực sự tiến hành đầu tư thời gian cũng như tâm huyết vào việc chuẩn bị bài giảng. Đã có nhiều giáo viên tự ý thức được vai trò nên đã chủ động sáng tạo trong quá trình dạy học nhưng còn ít và chưa có phương pháp sử dụng kênh hìnhđể tạo biểu tượng không gian lịch sử sao cho tối ưu.
Do một nguyên nhân cơ bản nữa là không thay đổi được đường lối dạy truyền thống của không ít giáo viên lâu năm với cách dạy học “ thầy đọc trò chép” làm cho môn lịch sử vốn ít thu hút được sự quan tâm của học sinh so với môn học khác nay càng trở nên buồn tẻ, nên không phát huy được tinh thần học tập tích cực của học sinh.
+ Về phía học sinh: Đa số học sinh còn quan niệm chưa đúng về vai trò, vị trí của bộ môn Lịch sử. Quan niệm Lịch sử là môn học phụ, không cần đòi hỏi đầu tư về thời gian và sức lực vẫn tồn tại phổ biến trong tâm lý của đa số học sinh. Do tác động của nền kinh tế thị trường cũng như những tư tưởng phiến diện trong tâm lý của nhân dân ta mà các em học sinh hiện nay chỉ chú ý tới những môn học như Toán, Lý, Hoá…mà vô tình quên đi một môn học gắn với truyền thống quý báu hàng ngàn đời của dân tộc- môn Lịch sử. Trong giờ học Lịch sử, các em thường học trong tâm lý “ gượng ép”, buồn chán thậm chí một số học sinh mang bài tập của các môn học khác ra học thay cho việc học và chép bài môn lịch sử.
Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của việc dạy học Lịch sử ở trường THCS, việc đổi mới nội dung và phương pháp daỵ học Lịch sử là một điều tất yếu trong đó việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian trong dạy học là một trong những giải pháp vô cùng đúng đắn và hiệu quả để có thể nâng cao hiệu quả của mỗi bài học lịch sử.
Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn vừa phân tích , tôi cho rằng:
Nếu giáo viên truyền đạt kiến thức Lịch sử một cách sinh động, dễ hiểu sẽ thu hút được sự quan tâm, yêu thích của rất nhiều em học sinh. Những tiết học sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng sẽ giúp các em hiểu bài nhanh, ghi nhớ kiến thức một cách chắc chắn, thu hút các em tích cực xây dựng bài, đặc biệt việc sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian giúp học sinh nhớ lâu kiến thức về địa danh xảy ra sự kiện lịch sử.
Để khắc phục tình trạng thiếu kênh hình trong dạy học, giáo viên và học sinh có thể tự làm một số kênh hình dễ tạo, đơn giản. Đây là một việc làm có nhiều ý nghĩa do vừa giảm tải sự khó khăn về cơ sở vật chất của nhà trường, vừa giúp các em rèn luyện khả năng tực chế tạo đồ dùng học tập, khả năng sáng tạo và kỹ năng thực hành cũng như tinh thần yêu thích bộ môn.
Xuất phát từ những yêu cầu bức thiết cuả việc dạy học Lịch sử ở các trường THCS, tôi thấy rằng việc nâng cao hiệu quả dạy học phaỉ dựa trên cả 3 mặt: giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. Việc sử dụng kênh hình là một giải pháp đúng đắn và hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả đó.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỂ TẠO BIỂU TƯỢNG KHÔNG GIAN CHO HỌC SINH KHI DẠY PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM TƯ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945( LỚP 9- THCS).
2.1. Vị trí, mục tiêu và nội dung cơ bản của phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.
2.1.1. Vị trí
Trong chương trình Lịch sử lớp 9, bao gồm hai nội dung: Phần I- Lịch sử thế giới hiện đại từ thế năm 1945 đến nay; Phần II- Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay, Trong phần lịch sử Việt Nam hiện đại giai đoạn từ năm 1930-1945 là giai đoạn phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa cách mạng đi đến thắng lợi giành độc lập cho dân tộc, đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là nội dung tiếp nối chương trình lịch sử Việt Nam từ 1919-19 29, qua đó đánh dấu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, qua các chặng đường đấu tranh: 1930-1935, 1936- 1939, 1939- 1945... giúp học sinh nắm vững hệ thống kiến thức, hiểu và đánh giá khách quan về giai đoạn này đối với lịch sử dân tộc.
2.1.2. Mục tiêu
*- Giáo dưỡng:
Thông qua những bài học cụ thể của 2 chương( 6 bài) với những sự kiện, hiện tượng lịch sử cụ thể giúp học sinh thấy được bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam trong giai đoạn này trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế văn hoá xã hội…Đây là thời kỳ tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển nên phong trào cách mạng Việt Nam cũng có những bước phát triển mới, nội dung cơ bản gồm:
- Sự ra đời của Đảng CSVN và phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm 1930-1935: Hoàn cảnh nội dung , ý nghĩa của việc thành lập Đảng; Nội dung Luận cương chính trị ( tháng 10/1930). Nguyên nhân diễn biến kết quả , ý nghĩa của phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh.
- Sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam từ năm 1936-1939: Do hoàn cảnh quốc tế và trong nước thay đổi phong trào chách mạng chuyển mục tiêu đấu tranh sang đòi tự do dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh; diễn biến, kết quả, ý nghĩa của phong trào.
- Sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam từ năm 1939-1945: Xuất phát từ bối cảnh thực tế nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra: KN Bắc Sơn, KN Nam Kỳ, Binh biến Đô Lương... báo hiệu một giai đoạn mới trong phong trào cách mạng Việt Nam, Mặt trận Việt Minh ra đời(1941) đã chuẩn bị về mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa, tháng 8 năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng đã nổ ra và nhanh chóng giành được thắng lợi trên phạm vi cả nước, đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà- mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.
*- Giáo dục
Thông qua phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930- 1945, giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, sự tin tưởng và lòng biết ơn đối với sự lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, học sinh thấy được tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng; nhận thức sâu sắc ý nghĩa lớn lao của sự kiện thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
*- Phát triển
Rèn luyện cho học sinh khả năng làm việc với SGk, tri giác tài liệu, nghiên cứu tài liệu. Đặc biệt với kỹ năng làm việc với đồ dùng trực quan, xác định vị trí địa danh và trình bày các sự kiện trên biểu đồ và bản đồ.
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của chương trình Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945( Lớp 9- THC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đế.doc