Phần I. Phần mở đầu 1
Phần II. Nội dung chính
Chương 1. Lý luận chung về thị trường chứng khoán và công ty chứng
khoán 3
1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán 3
1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán 3
1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán 4
1.1.3. Chức năng của thị trường chứng kháon 4
1.1.4. Cơ cấu thị trường chứng khoán 5
1.1.5. Cac chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 7
1.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam 9
1.3. Công ty chứng khoán 10
1.3.1 Khái niệm 10
1.3.2. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán 10
1.3.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán 12
1.3.4. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán 16
1.3.5. Điều kiện thành lập công ty 19
1.4. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới 19
Chương 2. Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 21
2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán 21
46 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 820 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iao dịch giữa hai công ty chứng khoán hay giữa công ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của giao dịch trực tiếp thường là các trái phiếu và cổ phiếu giao dịch ở thị trường OTC.
1.3.2.4. Các nghiệp vụ phụ trợ.
* Nghiệp vụ tín dụng.
ở các thị trường phát triển thì đây là một hoạt động thông dụng. Còn ở những thị trường chưa phát triển thì hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp vốn vay. Một số nước còn qui định không được phép cho vay kí quỹ.
* Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty.
Đây là việc cung cấp các thông tin về đối tượng chứng khoán, thời hạn, các vấn đề mang tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán...Nó đòi hỏi nhiều kiến thức, chuyên môn kỹ năng và yêu cầu vốn không cao. Tính trung thực của cá nhân hay công ty tư vấn có ý nghĩa quan trọng.
* Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư.
Đây là một dạng tư vấn đầu tư nhưng ở mức độ cao hơn vì khách hàng uỷ thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo những nguyên tắc mà khách hàng yêu cầu. Thông thường nghiệp vụ này tuân thủ theo bốn bước cơ bản:
Bước 1: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng của nhau.
Bước 2: Công ty và khách hàng tiến hành kí hợp đồng quản lí.
Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lí. Khi có phát sinh ngoài hợp đồng, công ty chứng khoán phải xin ý kiến của khách hàng rồi mới được phép quyết định.
Bước 4: Khi đến hạn kết thúc hợp đồng công ty phải cùng khách hàng bàn bạc, quyết định xem gia hạn hay thanh lí hợp đồng.
* Nghiệp vụ quản lí thu nhập chứng khoán (quản lí cổ tức).
Nghiệp vụ này xuất phát từ nghiệp vụ lưu kí chứng khoán. Công ty phải thực hiện hoạt động theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng.
1.3.3. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán.
1.3.3.1. Nguyên tắc đạo đức.
Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ảnh hưởng nhiều tới lợi ích công chúng và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các nước qui định rất chặt chẽ đối với hoạt động của công ty chứng khoán. Nhìn chung có một số nguyên tắc cơ bản sau:
+ Công ty chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết lộ thông tin khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
+ Công ty chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được tiến hành bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào.
+ Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh.
+ Công ty chứng khoán phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của khách hàng và tài sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của khách hàng làm vật thế chấp, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
+ Công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy.
+ Công ty chứng khoán không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình.
+ ở nhiều nước, công ty chứng khoán phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp công ty chứng khoán bị mất khả năng thanh toán.
+ Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị trường; cấm mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích cực bề ngoài"; cấm đưa ra lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch chứng khoán; cấm giao dịch nội gián sử dụng thông tin nội bộ mua bán chứng khoán cho chính mình làm thiệt hại tới khách hàng.
1.3.3.2. Nguyên tắc tài chính.
* Vốn.
Vốn của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng việc cân đối giữa vốn pháp định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty.
* Cơ cấu vốn: Nợ và Có.
Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các thành viên mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc huy động vốn được tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông, thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường vốn.
* Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh.
* Quản lí vốn khả dụng: các công ty chứng khoán thường phải duy trì một mức vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán.
* Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn các công ty môi giới duy trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích bù đắp các khoản lỗ kinh doanh trong năm đó.
* Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: công ty chứng khoán phải trích tỉ lệ phần trăm lãi ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt một tỉ lệ phần trăm nào đó của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm hụt trong tương lai.
* Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác nhau tuỳ từng quốc gia.
* Chế độ báo cáo.
Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này, theo qui định một số nước, phải nộp cho Uỷ ban chứng khoán (hoặc cơ quan quản lý tương đương) và một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo cáo tài chính thường niên đã được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm toán bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán.
- Báo cáo lỗ lãi.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
1.3.4. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán.
Hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhiều tới lợi ích của công chúng nên nó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nhìn chung, qui định về điều kiện thành lập, cấp phép hoạt động cho công ty chứng khoán được thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định được qui định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ. Một công ty càng tham gia vào nhiều loại hoạt động nghiệp vụ thì yêu cầu về vốn càng nhiều. Mức vốn qui định cho hoạt động môi giới, tư vấn thường không nhiều. Trong khi đó, nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành đòi hỏi mức vốn pháp định tương đối cao.
Điều kiện nhân sự: Những người quản lí hay nhân viên của công ty chứng khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường, các nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề. Muốn có giấy phép hành nghề, ngoài việc đáp ứng một số qui định như tuổi tác, trình độ học vấn, lí lịch tốt phải trải qua những kì thi kiến thức chuyên môn chứng khoán. Những người nắm giữ các chức năng quản lí trong công ty chứng khoán phải có giấy phép đại diện. Yêu cầu để được cấp giấy phép đại diện cao hơn so với giấy phép hành nghề về các mặt học vấn kinh nghiệm công tác.
Trong điều kiện thành lập công ty chứng khoán cần chú ý tới tính điều kiện và tính đương nhiên.
Như vậy, điều kiện thành lập công ty chứng khoán có sự khác nhau ở các nước trên thế giới. Tùy theo đặc thù mỗi quốc gia, các công ty chứng khoán cũng được tổ chức theo nhiều mô hình khác nhau.
1.4. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.
Trên thế giới có ba mô hình công ty chứng khoán cơ bản:
Thứ nhất: là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này không có sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng thương mại cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Đây là phương thức hoạt động ngân hàng đa năng cổ truyền mà điển hình được áp dụng ở CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, các nước Bắc Âu.
Thứ hai: là mô hình đa năng một phần (đa năng kiểu Anh), được áp dụng ở Anh và một số nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, australia. Ngân hàng khi tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con, có tư cách pháp nhân độc lập. Các công ty con ít khi nắm giữ cổ phần của ngân hàng và thường không có sự kết hợp giữa các công ty bảo hiểm và ngân hàng.
Thứ ba: là mô hình chuyên doanh. Nó được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật.v.v. Theo mô hình này các công ty chứng khoán là các công ty chuyên doanh độc lập. Các ngân hàng không được phép tham gia vào kinh doanh chứng khoán.
Chương 2
Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt nam hiện nay.
Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên Thế giới có thể thấy sự thành lập, phát triển của các công ty chứng khoán gắn liền với sự hình thành, phát triển của thị trường chứng khoán. Nó là một quá trình lâu dài. ở Việt Nam, thị trường chứng khoán có nét đặc thù riêng, nó được hình thành và phát triển theo định hướng của Nhà nước. Do vậy, quá trình thành lập, hoạt động của các công ty chứng khoán cũng mang những đặc điểm riêng.
2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán.
Trong 2-3 năm đầu, các công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng chưa đặt vấn đề nguồn thu lớn từ TTCK. Thị trường mới thành lập, quy mô nhỏ. Vì vậy, mục tiêu trước mắt là tìm hiểu, thăm dò thị trường, tạo lập quan hệ khách hàng, bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ và tích luỹ kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Trên cơ sở đó, xúc tiến, triển khai các phương án kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Để thực hiện điều này các công ty đã tiến hành một số biện pháp như:
* Nắm bắt mọi động thái xu hướng phát triển, vận động của thị trường để đánh giá và đúc rút những kinh nghiệm cần thiết ban đầu.
* Triển khai một số nghiệp vụ thí điểm có chọn lọc để tập dượt và đúc rút những kinh nghiệm kinh doanh.
* Bảo toàn vốn tích cực.
* Xúc tiến các hoạt động quảng cáo, tiếp thị tạo lập quan hệ với khách hàng tiền năng.
Trong thời gian đầu các công ty chứng khoán chuyên doanh vẫn chưa đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Trước mắt các công ty này tham gia thị trường một cách thận trọng, lần lượt triển khai các nghiệp vụ với mục đích làm quen với các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Từ đó rút ra những kinh nghiệm kinh doanh cần thiết ban đầu. Họ đặt mục tiêu bảo toàn vốn, cắt giảm các chi phí không cần thiết, duy trì hoạt động động kinh doanh thật vững sau đó mới mở rộng và phát triển thị trường.
2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, vì quy mô thị trường còn nhỏ nên số lượng các công ty chứng khoán hiện nay còn ít. Điều này là phù hợp nhằm giảm sự cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh chi phí ban đầu của các công ty khi mới thành lập là rất lớn mà thu nhập còn nhỏ, chưa đủ khả năng bù đắp chi phí. Ngoài ra, để đảm bảo nguyên tắc xây dựng thị trường chứng khoán hiệu quả và an toàn ngay từ giai đoạn đầu, hiện nay chúng ta đã chọn ra các công ty có quy mô lớn và chất lượng cao tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán để giảm thiểu rủi ro. Khi thị trường đã phát triển hiệu quả, quy mô và dung lượng thị trường đã lớn, số lượng công ty chứng khoán có thể sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu thị trường.Tính đến tháng 7 năm 2001 chứng khoán nhà nước cấp giấy phép cho 6 công ty chứng khoán hoạt động cho đến 2003 UBCKNN cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho 12 công ty chứng khoán tỏng đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH một phần viên.
Bảng 1: Danh sách các công ty chứng khoán.
Số thứ tự
Tên công ty
trụ sở chính
Vốn ĐL (tỷ VNĐ)
Các HĐ nghiệp vụ
Số GP HĐKDCK
Số NV hành nghề
01
CTCPCK Bảo Việt
Hà Nội
43
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
01/GPHĐKD 26/11/1999
12
02
CTTNHHCK-NHĐT và PT Việt Nam
Hà Nội
50
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
02/GPHĐKD26/11/1999
08
03
CTCPCK- Sài Gòn
TPHCM
20
- Môi giới
- Tư vấn đầu tư C K
03/GPHĐKD05/04/2000
08
04
CTCPCK-Đệ Nhất
Bình dương
43
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
04/GPHĐKD08/04/2000
09
05
CTTNHHCK-Thăng Long
Hà Nội
09
- Môi giới
- Quản lý DMĐT
- Tư vấn đầu tư CK
05/GPHĐKD11/05/2000
07
06
CTTNHHCK-ACB
TPHCM
43
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
06/GPHĐKD29/06/2000
03
07
CTTNHHCK- NHCTVN
Hà Nội
55
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
- Lưu ký chứng khoán
07/GPHĐKD06/10/2000
20
08
Cty TNHHCKNN và phát triển nông thôn Việt Nam
Hà Nội
60
Mô giới
Tự doanh
Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
Tư vấn đầu tư CK
08/GPHĐKD
12/2001
09
Cty TNHHCK NH Ngoại thương Việt Nam
Hà Nội
60
Mô giới
Tự doanh
Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
Tư vấn đầu tư CK
09/GPHĐKD /2002
10
Cty cổ phần chứng khoán Mê Kông
Hà Nội
6
Mô giới
Quản lý danh mục đầu tư
10/GPHĐKDN/2/2003
11
Cty cổ phần chứng khoán TPHCM
TPHCM
43
Hoạt động mô giới
Tự doanh
Quản lý danh mục đầu tư
Bảo lãnh phát hành
Tư vấn đầu tư chứng khoán
12
Cty TNHHCNNH Đông á
TPHCM
9
Mô giới
Quản lý danh mục đầu tư
12/GPHĐ KD/5/2003
2.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán của các nước ta có thể nhận thấy hầu như các thị trường từ các thị trường phát triển đến các thị trường mới nổi đều cho phép các ngân hàng tham gia vào kinh doanh chứng khoán ở mức độ và phạm vi khác nhau. Ngay cả những thị trường phát triển như Mỹ, Nhật trước đây không cho phép các ngân hàng tham gia vào hoạt động chứng khoán hiện đều có các quy định nới lỏng và có xu hướng chuyển dần từ mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh thuần tuý sang mô hình đa năng kiểu Anh, tức là các ngân hàng được phép tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua các công ty con độc lập.
ở Việt Nam hiện nay, ngành chứng khoán cũng như hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoàn toàn mới mẻ không những đối với dân chúng mà ngay cả đối với các tổ chức kinh doanh ở nước ta. Việc tham gia của các tổ chức tín dụng cụ thể là các ngân hàng thương mại vào kinh doanh chứng khoán trong giai đoạn đầu của thị trường như hiện nay là hết sức cần thiết. Với đội ngũ cán bộ đã được đào tạo và đã thông thạo việc kinh doanh các công cụ của thị trường tiền tệ, có kinh nghiệm trong việc đánh giá các dự án đầu tư và với mạng lưới hoạt động rộng rãi trên khắp cả nưóc, việc tham gia của các ngân hàng sẽ góp phần phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Có thể nhận thấy mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay chính là sự kết hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Chúng ta đã học tập và rút kinh nghiệm từ mô hình các nước và hạn chế tiêu cực có thể phát sinh từ đó không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp là người trung gian môi giới, mua bán, bão lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành trên thị trường chứng khoán. Hoạt động của các công ty chứng khoán có ảnh hưởng lớn tới lợi ích của đông đảo công chúng. Do đó, yêu cầu pháp lý đối với các công ty chứng khoán là rất chặt chẽ.
2.3. Những quy định pháp lý đối với các công ty chứng khoán.
2.3.1. Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán.
Nghị định 48-1998-NĐ-CP ban hành ngày 11/07/1998 về chứng khoán và TTCK quy định:
Công ty chứng khoán phải là các công ty cổ phần hoặc là công ty TNHH có đủ các điều kiện:
* Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội.
* Có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán.
* Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh:
+ Môi giới: 3 tỷ VNĐ.
+ Tự doanh: 12 tỷ VNĐ.
+ Quản lý danh mục đầu tư: 3 tỷ VNĐ.
+ Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ VNĐ.
+ Tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ VNĐ.
Công ty chứng khoán kinh doanh trên nhiều loại hình thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của từng loại hình kinh doanh đó.
* Giám đốc (Tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh (không kể nhân viên kế toán, hành chính, thủ quỹ) của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCKNN cấp.
Việc bắt buộc công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH nhằm bảo vệ lợi ích khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm, thao túng doanh nghiệp phục vụ lợi ích của một số người. Ngoài ra, công ty cổ phần hay công ty TNHH sẽ phải tuân thủ chế độ thông tin, báo cáo chặt chẽ hơn, cũng như yêu cầu về quản lý phải cao hơn.
2.3.2. Sự tham gia kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm và tổng công ty.
Các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, Tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. Đây chính là sự kết hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình tự doanh mà hiện nay đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ngân hàng đa năng với phạm vị kinh doanh rộng rãi do đa dạng hoá hoạt động kinh doanh có lợi thế hơn hẳn so với các công ty chứng khoán đơn thuần trong việc san bằng chi phí và phân tán rủi ro. Thu nhập của nó ổn định hơn và do đó các nguồn vốn của nó cũng ổn định hơn. Vì vậy, các ngân hàng đa năng có khả năng chống đỡ cao đối với những tiến triển không thuận lợi trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, mô hình đa năng cũng có những nhược điểm nhất định. Khi tham gia vào hoạt động bão lãnh phát hành chứng khoán, các ngân hàng thương mại phải đương đầu với mâu thuẫn lợi ích tiềm năng do sự lạm dụng trong kinh doanh chứng khoán của họ.
2.3.3. Chế độ quản lý.
Hiện nay, ở Việt nam quy định chế độ cấp giấy phép hoạt động đối với các công ty chứng khoán. UBCKNN là cơ quan quản lý nhà nước cấp giấy phép hoạt động đối với các công ty này. Việc duy trì chế độ cấp giấy phép đối với các công ty xin hoạt động kinh doanh chứng khoán là điều đặc biệt cần thiết. Thực tế cho thấy, chỉ ở một số thị trường phát triển mới áp dụng chế độ đăng ký hoạt động và không đưa ra bất kỳ quy định nào về mức vốn pháp định tối thiểu yêu cầu đối với một công ty xin kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, các công ty này phải đảm bảo duy trì mức vốn khả dụng nhất định và chịu sự giám sát chặt chẽ trong 06 tháng hoặc 1 năm đầu hoạt động.
Nhưng hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả Nhật Bản là nước có thị trường chứng khoán phát triển ở mức độ cao, cũng áp dụng chế độ cấp giấy phép hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư. Những nước áp dụng chế độ này thường quy định rõ các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh chứng khoán, mức vốn pháp định tối thiểu yêu cầu đối với từng loại hình kinh doanh chứng khoán.
2.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán.
Tuỳ theo quy mô kinh doanh và các nghiệp vụ mà công ty được cấp phép hoạt động, cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán sẽ được tổ chức cho phù hợp. Nghiệp vụ trọng tâm của các công ty chứng khoán hiện nay là môi giới, tự doanh chứng khoán vì việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu là hoạt động trung tâm của các công ty chứng khoán .
Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị bổ nhiệm ban giám đốc và giám đốc điều hành công ty. Giúp việc cho hội đồng quản trị có ban kiểm soát với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát mọi giao dịch do phòng giao dịch thực hiện, bảo đảm thực hiện đúng các định mức giới hạn do UBCKNN và do hội đồng quản trị đặt ra về số lượng quy mô giao dịch cho mỗi khách hàng ...Chế độ báo cáo nội bộ công ty, cơ chế kiểm soát nội bộ cũng như thẩm quyền về kinh doanh chứng khoán của các nhân viên được quy định rõ ràng và tuân thủ chặt chẽ.
Cơ cấu phòng ban của các công ty kinh doanh chứng khoán hiện nay nhìn chung gọn nhẹ, bao gồm các phòng chủ yếu sau:
- Phòng giao dịch (Phòng kinh doanh):
- Phòng Tài chính- Kế toán:
- Phòng Marketing:
- Phòng quản trị hành chính-tổng hợp: Có nhiệm vụ:
- Phòng đăng ký, lưu ký và lưu trữ thông tin:
2.5. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh.
Một nét đặc trưng của công ty chứng khoán là thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh hưởng lớn tới sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của công ty chứng khoán. Việc triển khai các hoạt động của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng lớn của thị trường chứng khoán. Nên hoạt động của các công ty chứng khoán không thể tách rời hoạt động của thị trường chứng khoán. Do vậy, để nghiên cứu thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam trước hết phải nghiên cứu hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Sau một năm chính thức đi vào hoạt động kể từ 28/7/2000 đến 7/2001 thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. đóng góp tích cực vào sự thành công này phải kể đến các tổ chức trung gian hoạt động trên thị trường trong đó không thể thiếu được sự tham gia của các công ty chứng khoán.
- Kể từ ngày cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 2 công ty đầu tiên ở Việt Nam là công ty cổ phần chứng khoán bảo việt và công ty TNHH chứng khoán ngân hàng đầu tư giấy phép thêm cho 6 công ty chứng khoán đó là: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất, công ty TNHH chứng khoán Thăng Long, công ty TNHHCN. ACBS, công ty TNHH chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam và công ty TNHH chứng khoán ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Hơn một năm hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán đã qua có thể đánh gái chung là hiệu quả kinh doanh của các công ty chứng khoán chưa cao, vốn đều lệ hầu như chưa được sử dụng hết vào kinh doanh chứng khoán, từ đó dẫn đến tỷ suất lợi nhuận không cao. Đội ngũ nhân viên kinh doanh của các công ty chứng khoán còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng đặc biệt thiếu các chuyên gia phân tích để có thể triển khahi có hiệu quả nghiệp vụ tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán hoạt động của các công ty chứng khoán.
Tính đến cuối tháng 7 năm 2003 thị trường chứng khoán Việt Nam đã vượt qua mốc 3 năm kể từ khi phiếu giao dịch chứng khoán đầu tiênn được thực hiện. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều vấn đề cần được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, chuẩn mực về hoạt động các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường.
Cho đến nay, uỷ ban chứng khoán nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho 12 công ty chứng khoán trong đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH một thành viên. Tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán (trong số 12 công ty chứng khoán hiện nay có 2 công ty mới bắt đầu hoạt động, đó là công ty chứng khoán Mê Công - MSC triển khai hoạt động từ tháng 2/2003. Công ty chứng khoán TPHCM - HSC triển khai hoạt động từ tháng 4/2003 và công ty chứng khoán Ngân hàng Đông á - FABCS mới được cấp phép 5/2003).
Qua 12 tháng công ty hoạt động, nhìn chung các công ty chứng khoán tuân thủ Nghị định 48/1998/NĐCP của Chính phủ, các quy định của UBCKNN và luật doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng.
* Hoạt động mô giới.
Đa số tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại các công ty chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2002 tăng đáng kể so với cuối năm 2001, tăng khoảng 55%. Trừ công ty chứng khoán Thăng Long, số tài khoản giao dịch của người đầu tư tại từng công ty chứng khoán cũng tăng trung bình từ 30 đ 60% so với năm 2001. Một số công ty có số lượng tài khoản người đầu tư tăng đáng kể (trên 100%) so với năm 2001 tuy sóo lượng tài khoản tính theo số tuyệt đối mở tại các công ty này không lớn. Đó là các công ty chứng khoán như FSC, IBS và ARSC. So với năm 2001, số lượng tài khoản cfác nhà đầu tư vẫn tập trung chủ yếu tại 4 công ty chứng khoán. Đó là các công ty chứng khoán ARSC, SSI, ACBS và BSC. Nói chung trong thời gian qua, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng khoán tăng lên nhưng trên thực tế con số này không phản ánh được thực trạng tình hình trên thị trường. Đến tháng 4 /2003 tổng số tài khoản mở tại các công ty chứng khoán là gần 15.000 tài khoản tăng 7% so với số lượng gần 14.000 tài khoản vào cuối năm 2002 và tăng hơn 65% so với số lượng 9000 tài khoản vào cuối năm 2001.
+ Giao dịch chứng khoán. So với năm 2001, tổng khối lượng giao dịch chứng khoán tại từng công ty chứng khoán đều tăng, mức độ tăng trung bình là trên 150%, tuy giá trị giao dịch giao dịch của năm 2001 vì 80 với năm trước, số lượng công ty niêm yết (Cty y') và số phiếu giao dịch tăng lên, nhưng mức giá chung của các cổ phiếu trên thị trường đều giảm. Trong năm 2002 , các công ty chứng khoán như ACBS, BVSC và SSI vẫn tiếp tục giữ thị phần chủ yếu trong giao dịch mô giới chứng khoán. Đến 31/3/2003 một số công ty chứng khoán như BVSC, SSI, BSC, và ACBS vẫn chiếm phần lớn thị phần giao dịch. Tuy nhiên tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán nói chung đã giảm sát mạnh so với các năm trước. Đến 31/3/2003 tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán đạt gần 237 tỷ đồng giảm hơn 47%, so với năm gần 450 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.
+ Phí mô giới của các công ty chứng khoán vẫn tiếp tục giảm mạnh so với năm trước. Cụ thể tổng phí mô giới của các công ty chứng khoán. Thu được trong quý I/2003 đạt gần 730 triệu đồng giảm hơn 65% so với cùng kỳ năm trước quý I/2002 đạt gần 2 tỷ đồng phí mô giới.
* Hoạt động tự doanh.
Năm 2002 rất nhiều công ty chứng khoán đã khai thác gần như tối đa vốn đều lệ của mình cho hoạt động tự doanh chứng khoán và đầu tư tài chính ngắn hạn nhằm nâng cao hiệu quả kd trong năm 2002, trị giá giao dịch mua của các công ty chứng khoán lớn nhiều hơn t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV019.doc