LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I : NGUỒN VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
I. Khái quát chung về vốn và vốn của doanh nghiệp
1. Khái quát về vốn
2. Vốn kinh doanh và đầu tư vốn của doanh nghiệp
2.1 Vốn kinh doanh
2.2 Đầu tư vốn
3. Phân loại vốn
3.1.Căn cứ vào hình thái biểu hiện
3.2 .Căn cứ vào nguồn hình thành
3.2.1 Vốn của chủ sở hữu ( vốn tự có của doanh nghiệp )
- Vốn điều lệ của các doanh nghiệp
- Vốn từ việc phát hành cổ phiếu
- Các quỹ được tạo nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
3.2.2 Vốn vay
- Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng , các Ngân hàng
- Nguồn vốn vay trên thị trường chứng khoán
- Nguồn vốn tín dụng thương mại
- Nguồn vốn tín dụng thuê mua
- Nguồn vốn liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau
- Các nguồn khác của doanh nghiệp
3.2.3 Cổ phiếu và trái phiếu công ty
3.3 Căn cứ vào phạm vi sử dụng vốn của doanh nghiệp
3.4 Căn cứ vào thời gian huy động vốn và sử dụng vốn
3.5 Căn cứ vào hình thức sở hữu
II Quản lý vốn
1. Quản lý vốn cố định :
1.1 K/n
1.2 Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
2. Quản lý vốn lưu động :
2.1 K/n
2.2 Các biện pháp quản lý
3. Quản lý vốn đầu tư tài chính
3.1 K/n
3.2 Hệ thống chỉ tiêu tài chính
3.3 Đánh giá khả năng hoạt động của doanh nghiệp
III. Các nguồn tài trợ vốn cho kinh doanh
1. Nguồn tài trợ và phân loại nguồn tài trợ
1.1 Nguồn tài trợ
1.2 Phân loại nguồn tài trợ
2. Các nguồn tài trợ dài hạn
2.1 Vốn của chủ sở hữu ( vốn tự có )
2.2 Vốn huy động bằng hình thức phát hành cổ phiếu
2.2.1 Cổ phiếu thường ( Comunon Stock / Share )
- Đ/n
- Ưu , nhược điểm
2.2.2 Cổ phiếu ưu tiên ( Preferred Stock )
- Đ/n
- Ưu , nhược điểm
2.3 Phát hành trái phiếu công ty
3. Các nguồn tài trợ ngắn hạn
3.1 Các khoản phải nộp và phải trả cho CNV
3.2 Tín dụng nhà cung cấp
3.3 Vay theo hạn mức tín dụng
3.4 Thư tín dụng
3.5 Cho vay có bảo đảm
4. Chi phí vốn của doanh nghiệp
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI CTY TM HƯƠNG LÚA
I. Tình hình phát triển chung của Công ty
1. Lịch sử hình thành phát triển của Công ty
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
3. Cơ cấu tổ chức của Công ty và các đặc điểm hoạt động kinh doanh
của Công ty
II. Phân tích tình hình tài chính tổng thể ở Công ty TM Hương Lúa III.Tình hình huy động vốn ở Cty TM Hương Lúa
IV.Đánh giá khái quát tinhg hình huy động vốn tại công ty
- Những mặt đạt được
- Những mặt còn tồn tại
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
I . Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại Cty
1. Mở rộng các hình thức huy động vốn.
1.1. Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên:
1.2. Phát triển hình thức tín dụng thương mại:
1.3. Phát hành trái phiếu công ty:
1.4. Tăng nguồn vốn chủ sở hữu, giảm nợ ngắn hạn:
2. Bổ sung vốn lưu động.
3. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn hiện có và tiết kiệm chi phí:
4. Sắp xếp lại công ty nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trên thị trường.
5. Trẻ hoá đội ngũ CBCNV, nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn.
6. Giải quyết các vướng mắc trong thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
7. Khoanh nợ cũ.
II. Kiến nghị thực hiện các giải pháp.
1. Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng một thị trường tài chính hoàn chỉnh
2. Nhà nước cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp:
3. Nhanh chóng ban hành các quy định pháp luật về cơ chế tín dụng thương mại.
4. Nhà nước nên nhanh chóng khoanh nợ cũ tồn đọng
5. Ban hành các chính sách nhằm bảo hộ hàng hoá trong nước
6. Tiến hành bán, khoán cho thuê doanh nghiệp:
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
66 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn ở Công ty thương mại Hương Lúa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ được bầu riêng rẽ . Vậy những người đang nắm đa số cổ phiếu của công ty sẽ có lợi vì họ có thể tạo áp lực mạnh hơn bằng số lớn cổ phiếu nắm giữ . Bỏ phiếu gộp cho phép cùng bỏ phiếu cho một số ứng cử viên nào đó . Tức là một cổ đông có thể dồn toàn bộ số phiếu có trong tay cho một ứng cử viên được ưa chuộng . Mỗi cổ phiếu sẽ cho cổ đông số phiếu tương ứng với số ghế của ban quản trị .
Trong điều lệ công ty quy định rõ về những vấn đề cần được đa số ( trên 50% ) cổ đông tán thành và những vấn đề cần được tuyệt đại đa số ( trên 75% ) cổ đông nhất trí . Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phải xét đến nguy cơ bị thôn tính nê phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu mà mỗi cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sử hữu công ty
* Cổ phiếu ưu tiên ( Preferred Stock ) :
Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành .Loại cổ phiêú này có đặc điểm là nó thường có tỷ lệ cổ tức cố định . Người chủ của cổ phiếu nàycó quyền được thanh tóan lãi trước các cổ đông thường Nếu số lợi nhuận ròng chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không nhận được cổ tức của kỳ đó . Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty . Hội đồng quản trị của công ty có thể thay đổi cách thức và tỷ lệ trả cổ tức trong mỗi năm để phù hợp vơí tình hình cụ thể . Phần lớn các công ty cổ phần quy đinh rõ : công ty có nghĩa vụ trả hết số lợi tức chưa thanh toán của các năm trước cho các cổ đông ưu tiên , sau đó mới thanh toán cho các cổ đông thường . Các cổ phiếu ưu tiên có thể được thu hồi lại ( chuộc lại ) khi công ty thấy cần thiết Những trường hợp như vậy cần quy định rõ : loại cổ phiếu đó có thể được mua lại hay không , giá cụ thể khi công ty mua lại cổ phiếu , thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ phiếu . Một vấn đề rấ quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên , đó là thuế. Khác với chi phí lãi vay được gỉam trừ khi tính thuế thu nhập công tty , cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế tức là không được tính vào chi phí để giảm thuế . Đây là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên
Khi nào các hãng phát hành và thu hồi cổ phiếu ? Để trả lời câu hỏi này cần xem xét các khía cạnh sau : Các hãng thường cố gắng duy trì tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần để giữ vững khả năng thanh toán , củng cố uy tín tài chính . Khi tỷ lệ này ở mức thấp , nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ ( mà không tăng vốn cổ phần ) . Nếu tỷ lệ này ở mức cao , công ty phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần và chọn cách phát hàng cổ phiếu . Tuy nhiên trên thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng chính xác . Viêc điều chỉnh lượng tiền và các khoản nợ thường được thực hiện theo mô hình linh hoạt có tính chất " tuỳ cơ ứng biến " . Sự phản ứng trước các biến động của thị trường chứng khoán là một yếu tố đáng quan tâm đối với các nhà quản lý công ty .
Sau khi nghiên cứu việc phát hành cổ phiếu của các công ty cổ phần , một số nhà phân tích tài chính như Taggart ( Mỹ ) và Marsh ( Anh ) đã rút ra kết luận : Phần lớn các cổ phiếu được phát hành sau khi thị giá cổ phiếu tăng trên thị trường chứng khoán . Giá cổ phiếu tăng lên là một dấu hiệu có nhiều cơ hội đầu tư mở rộng trong công ty.
2.3. Phát hành trái phiếu công ty :
Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty . Người nắm giữ trái phiếu ( người sở hữu trái phiếu ) được gọi là trái chủ .
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của công ty và tình hình trên thị trường tài chính . Việc lựa chon trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi , cách thức trả lãi , khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu . Trước khi quyết định phát hành , nhà phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu . Trên thị trường tài chính ở nhiều nước thường lưu hành những loại trái phiếu công ty như sau :
* Trái phiếu có lãi suất cố định ( Coupon ) :
Loại trái phiéu này thường được sử dụng phổ biến nhất trong các loại trái phiếu của công ty . Lãi suất danh nghĩa được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó . Như vậy cả người đi vay và người cho vay đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại ( kỳ hạn ) của trái phiếu .
Để huy động vốn trường bằng trái phiếu phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu . Tính hấp dẫn phụ thuộc vào các yếu tố sau :
Lãi suất của trái phiếu :
Người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng công ty phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả lãi suất quá cao cho nhà đầu tư . Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong mối tương quan với lãi suất trên thị trường vốn và khả năng cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác .
- Kỳ hạn của trái phiếu :
Kỳ hạn của trái phiếu càng dài thì mức độ rủi ro càng lớn . Phải tính đến sự ưa thích và lựa chon của công chúng xét dưới giác độ kỳ hạn của trái phiếu
- Uy tín tài chính và mức độ rủi ro :
Doanh nghiệp càng vững chắc về mặt tài chính và khả năng phát triển thì nói chung mức độ rủi ro càng thấp ( chưa xét đến các nhân tố khác ) . Trong việc phát hành trái phiếu cũng cần tính đến mệnh giá vì nó liên quan đến sức mua của dân chúng .
* Trái phiếu có lãi suất thả nổi :
Doanh nghiệp phát hành loại trái phiếu thả nổi trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định thì có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này . Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của lãi suất thực ,
các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tìn hình thị trường.
Loại trái phiếu này có một vài nhươc điểm : công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu , gây khó khăn cho việc lập kế hoạch tài chính . Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất .
* Trái phiếu có thể thu hồi : là loại trái phiếu công ty có thể mua lại vào một thời gian nào đó ( chuộclại trái phiếu ) . Loại trái phiếu này phải được quy định công khai ngay khi phát hành để thông báo cho người mua trái phiếu biết . Phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu . Người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu không bị thu hồi.
Ưu điểm của trái phiếu này là : có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng . Khi cần thiết , công ty có thể mua lại các trái phiếu tức là giảm số vốn vay . Công ty có thể thay trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác bằng cách mua lại các trái phiếu đó.
* Chứng khoán có thể chuyển đổi :
- Giấy bảo đảm : là một dạng chứng khoán đặc biệt thuộc nhóm công cụ dẫn xuất. Người giữ giấy bảo đảm có quyền được mua cổ phiếu trực tiếp từ một công ty theo mức giá nhất định
*) Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường.
Số lượng cổ phần thường do một trái phiếu chuyển đổi, gọi là tỷ số chuyển đổi. Đối với trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu thường, chúng ta cần phải phân biệt hai loại giá trị.
- Giá trị đầu tiên của trái phiếu chuyển đổi là giá trị mà trái phiếu trong tình trạng không nhận được quyền chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Giá trị đầu tư của trái phiếu được tính toán theo mô hình dòng tiền tệ chiết khấu.
- Giá trị chuyển đổi của trái phiếu là tổng thị giá của những cổ phiếu mà nó chuyển đổi thành: do vậy thị giá của cổ phiếu càng cao thì giá trị chuyển đổi của trái phiếu cũng càng cao.
- Trái phiếu chuyển đổi có thể đem lại cho trái chủ khả năng kiếm được lợi nhuận cao hơn(khi giá cổ phiếu tăng) nên trái chủ sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất thấp của trái phiếu chuyển đổi hơn là trái phiếu liên tục. Do vậy điều này rất có lợi cho những doanh nghiệp đang có khó khăn về tài chính.
- Nếu giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp sẽ giảm trong thời gian gần đây và sau đó lại tăng trở lại như cũ mà công ty muốn tăng vốn cổ phần, thì trái phiếu chuyển đổi sẽ là một công cụ tạo vốn hữu hiệu, vừa có chi phí thấp vừa không tốn chi phí phát hành cổ phiếu thường. Tuy nhiên nếu giá cổ phiếu không tăng như dự kiến thì sự chuyển đổi sẽ không xảy ra và công ty sẽ phải chịu một mức chi phí trả lãi vay cao hơn mong muốn.
* Tài trợ nội bộ :
Là một phương thức huy động vốn quan trọng đối với doanh nghiệp . Tài trợ nội bộ có thể được thực hiện thông qua hai phương thức : tái đầu tư thông qua chính sách phân phối cổ tức và phát hành cổ phiếu nội bộ . Nhiều công ty rất coi trọng chính sách tái đầu tư lợi nhuận để lại với mục tiêu là phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng . Tái đầu tư có thể được thực hiện bằng cách ghi tăng giá trị sổ sách của cổ phiếu hoặc phát hành thêm cổ phiếu thông thường . Trường hợp thứ nhất , giá trị danh nghĩa của cổ phiếu tăng sẽ làm tăng thị giá cổ phiếu , còn trường hợo thứ hai cổ đông sẽ nhận cổ phiếu thay vì nhận thu nhập của họ dưới dạng cổ tức . Việc phát hành cổ phiếu thêm sẽ ảnh hưởng tới thị giá của cổ phiếu nên để đảm bảo quyền lợi cho cổ đông , cổ đông sẽ được hưởng chính sách ưu đãi về giá . Chính sách phân phối cổ tức ở các công ty có sự khác nhau . Tuỳ tình hình kinh tế của mỗi nước sẽ nhận thu nhập dưới dạng cổ tức hay là tái đầu tư từ lợi nhuận để lại .
Chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý một số trường hợp :Tổng số lơị nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần ,mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước , sự xếp hạng của cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty , hiệu quả của việc tái đầu tư .
Trong quá trình hoạt động kinh doanh , công ty tạo ra một luồng tiền nội bộ ( dòng tiền ) tính bằng công thức :
Luồng tiền nội bộ = lợi nhuận ròng sau thuế + chi phí khấu hao trong kỳ .
Luồng tiền nội bộ trên cho biết khả năng tự tài trợ cao nhất mà doanh nghiệp có thể khai thác đó là số tiền tăng thêm trong kỳ gồm lãi ròng và khấu hao đã trích trong kỳ .
Với công ty cổ phần thì cần tính đến số tiền chia lãi cổ phần :
Luồng tiền nội bộ có thể tái đầu tư = Lợi nhuận ròng trong kỳ + chiphí khấu hao trong kỳ - lợi tức cổ phiếu trả trong kỳ
3. Các nguồn tài trợ ngắn hạn:
3.1. Tín dụng nhà cung cấp(tín dụng thương mại):
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp có thể sử dụng tài trợ bằng cách mua chịu của nhà cung cấp. Trường hợp này người ta gọi là tín dụng nhà cung cấp hay tín dụng thương mại. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp nguồn tài trợ này thể hiện ở các khoản mục phải trả người bán. Công cụ thực hiện loại tín dụng này phổ biến là dùng kỳ phiếu và hối phiếu.
So với các khoản phải trả, phải nộp ở phần trên thì đây là nguồn tài trợ ngắn hạn rất ưa chuộng của các doanh nghiệp bởi vì thời gian cũng linh động, hơn nữa với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, những người cho vay có thể dễ dàng chiết khấu thương phiếu để lấy tiền phục vụ cho những nhu cầu riêng khi thương phiếu chưa đến hạn thanh toán.
3.2. Các khoản phải nộp và phải trả cho công nhân viên:
Trong thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp thì các khoản tài trợ này không lớn lắm nhưng đôi khi nó cũng giúp doanh nghiệp giải quyết cho những nhu cầu mang tính chất tạm thời. Các khoản phải nộp và phải trả trong doanh nghiệp thường bao gồm:
- Các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp.
- Các khoản phải trả cho cán bộ công nhân viên nhưng chưa đến kỳ nên chưa trả.
- Các khoản đặt cọc của khách hàng.
- Phải trả cho các đơn vị nội bộ.
3.3. Thư tín dụng:
Đây là hình thức tài trợ được sử dụng trong nhập khẩu hàng hoá. Khi nhà nhập khẩu hàng hoá không có tiền trên tài khoản thì có thể đề nghị ngân hàng cung cấp tín dụng để mua hàng từ một nhà xuất nhập khẩu nước ngoài dưới hình thức mở thư tín dụng như là một bản cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng phục vụ bên bán. Khi nhận được thông báo của ngân hàng phục vụ mình là đã có thư tín dụng thì hàng hoá của nhà xuất khẩu nước ngoài dưới hình thức mở thư tín dụng như là một bản cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng phục vụ bên bán. Khi được nhận được thông báo của ngân hàng phục vụ mình là đã có thư tín dụng thì hàng hoá của nhà xuất khẩu được chuyển đi, còn việc thanh toán sẽ là của ngân hàng phục vụ bên mua và bên bán.
Sau khi số tiền theo thư tín dụng đã được ngân hàng phục vụ bên nhập khẩu thanh toán hoàn tất nó sẽ trở thành một khoản nợ do ngân hàng tài trợ cho nhà nhập khẩu.
3.4. Vay theo hạn mức tín dụng:
Trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thì thường các công ty(khách hàng) và ngân hàng có thoả thuận trước với nhau về hạn mức tín dụng. Tức là ngân hàng sẽ cho công ty vay trong một hạn mức nào đó không cần phải thế chấp. Trong hạn mức này công ty có thể vay bất kỳ lúc nào mà ngân hàng không cần thẩm định. Cũng tương tự như vậy, trong hạn mức tín dụng công ty có quyền rút hoặc chi tiền vượt quá số dư trên tài khoản.
Hạn mức tín dụng được ngân hàng tạo sẵn trong công ty là do mối quan hệ kinh tế giữa họ, nhưng thông thường hạn mức này mỗi năm được thoả thuận lại một lần tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Đây là loại tài trợ có chi phí thấp nhưng đôi khi nợ cũng gây ra trục trặc. Ví dụ khi ngân hàng gặp khó khăn về tài chính hay thanh toán thì công ty phải hoàn trả hoặc không vay được.
3.5. Cho vay có bảo đảm:
* Tạo vốn bằng cách bán nợ.
Một công ty nào đó có thể ra tăng nguồn vốn ngắn hạn bằng các khoản nợ của mình. Các tổ chức mua nợ thường là một ngân hàng, một công ty tài chính hay một công ty mua nợ. Sau khi việc mua bán hoàn tất thì bên mua nợ căn cứ vào hoá đơn chứng từ để thu hồi nợ và quan hệ kinh tế lúc bấy giờ là của người nợ và chủ nợ mới là bên mua nợ.
* Vay ngắn hạn bằng cách thế chấp khoản phải thu.
Các công ty trong quá trình hoạt động đều có thể đem các hoá đơn thu tiền để làm vật bảo đảm cho các khoản vay. Thông thường các ngân hàng có thể căn cứ vào các hoá đơn đem thế chấp để phân loại rồi sau đó mới cho vay. Số tiền mà các ngân hàng cho vay tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của các hoá đơn thu tiền nhưng thông thường tỷ lệ giá trị cho vay chiếm khoảng 30- 90% giá trị danh nghĩa của hoá đơn thu.
* Thế chấp bằng hàng hoá
Các loại hàng hoá và tài sản cũng thường được sử dụng để thế chấp cho những khoản vay ngắn hạn. Giá trị của những khoản vay nhiều hay ít tuỳ thuộc vào giá trị thực của hàng hoá tài sản.
* Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu là chứng từ biểu thị một quan hệ tín dụng, một nghĩa vụ trả tiền, được lập ra trên cơ sở các giao dịch thương mại.
Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng cho đến kỳ hạn của thương phiếu một khoản tiền của thương phiếu sau khi đã trừ đi khoản lãi phải thu, tức tiền chiết khấu và các khoản chi phí.
4. Chi phí vốn của doanh nghiệp:
4.1. Khái niệm:
Muốn có vốn để sử dụng thì chúng ta phải trả chi phí. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát chi phí vốn tức là chi phí phải trả cho việc huy động và sử dụng vốn.
Chi phí vốn chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết của khoản tiền mà người sở hữu yêu cầu. Tỷ lệ sinh lời cần thiết lại phục thuộc vào rủi ro có thể xảy ra đối với khoản đầu tư. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp thì chi phí vốn được đo bằng tỷ suất lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho cổ đông thường cũ(hoặc vốn tự có) của doanh nghiệp.
4.2. Chi phí của các loại vốn cụ thể:
4.2.1. Chi phí của nợ vay:
a. Chi phí của nợ vay trước thuế(Kd):
Chi phí của nợ vay được đo bằng tỷ lệ sinh lời trên vốn vay đủ để trả lãi cho nợ vay. Đó chính là lãi tiền vay ký hiệu Kd. Ví dụ như doanh nghiệp vay tiền với lãi suất 10% thì chi phí của vốn vay trước thuế là 10%.
Như vậy việc tìm chi phí của nợ được quy về là tìm lãi suất vay hay tỷ lệ sinh lợi cần thiết của vốn vay. Nếu chúng ta giả định rằng những khoản đầu tư mới có mức độ rủi ro tương đương như tài sản hiện có thì tỷ lệ sinh lời cần thiết có thể được tính bằng tỷ lệ sinh lời tại thời điểm đáo hạn(YTM) trên món nợ chưa trả của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có nhiều trái phiếu chưa đáo hạn, chi phí vay nợ có thể được xác định là trung bình trọng của YTM trên nhiều trái phiếu khác nhau.
Cũng cần lưu ý rằng chi phí của nợ là tỷ lệ lãi suất đối với khoản nợ mới chứ không phải là nợ đã được thực hiện. Nói cách khác là chúng ta quan tâm đến chi phí cận biên của nợ và quan tâm chủ yếu của chúng ta đối với chi phí vốn là sử dụng nó cho các quyết định hoạch định dự toán vốn.
b. Chi phí sau thuế của nợ(Kd(1-t)):
Khi tính toán chi phí vốn, ta cũng xem xét ảnh hưởng của các khoản chi phí này tới thu nhập ròng của doanh nghiệp. Thuế thu nhập là nhân tố tác động đến các chi phí này. Đối với các doanh nghiệp, chi phí trả lãi các khoản nợ được khấu trừ khỏi lợi nhuận để tính thuế thu nhập của doanh nghiệp, do đó lãi suất sau thuế doanh nghiệp phải trả thấp hơn lãi suất trước thuế. Vấn đề này có liên quan đến chi phí cơ hội. So sánh trường hợp doanh nghiệp sử dụng vốn chủ sở hữu để tài trợ cho dự án, tiền trả lãi vay làm giảm số thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp một tỷ lệ là Kd*T(T là thuế suất thuế thu nhập) nên nó được coi như khoản thu nhập do sử dụng nợ vay. Chi phí sau thuế của nợ được sử dụng để tính chi phí bình quân gia quyền của vốn.
4.2.2. Chi phí của cổ phiếu ưu tiên:
Cổ phiếu ưu tiên là công cụ tạo vốn trung gian giữa trái phiếu và cổ phiếu thường.
Những đặc điểm của cổ phiếu ưu tiên giống trái phiếu là:
* Lợi tức cổ phần được trả hàng năm, với tỷ lệ cố định.
* Có mệnh giá và lợi tức cổ phần là tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá.
* Lợi tức cổ phần được ưu tiên nhận trước cổ phần thường và sau trái phiếu.
Những đặc điểm tương tự đặc tính cổ phiếu là:
* Cổ phiếu ưu tiên thường không có thời gian đáo hạn.
* Lợi tức cổ phiếu được trả hàng năm trong nhiều năm.
* Tiền trả lợi tức cổ phần của cổ phiếu ưu tiên không được tính trong chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập của doanh nghiệp.
Việc sử dụng công cụ cổ phiếu ưu tiên làm cho doanh nghiệp vừa có được nguồn vốn dài hạn ổn định, vừa tránh được sự mất quyền kiểm soát công ty. Tuy nhiên doanh nghiệp phải trả lợi tức cổ phần hàng năm, phải trả lợi tức cổ phiếu ưu tiên trước các cổ phiếu thường và không được tính trong chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
4.2.3. Chi phí của cổ phiếu thường:
Khi công ty muốn tăng vốn cổ phần thường thì công ty có thể thực hiện bằng hai cách có cùng bản chất là: giữ toàn bộ hoặc một phần lợi nhuận ròng của công ty hoặc phát hành cổ phiếu thông thường mới. Về bản chất hai cách này là giống nhau, ta có thể chứng minh điều này khi xem xét trường
hợp công ty trả cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu thường mới.
a. Chi phí lợi nhuận giữ lại(Ks)
Cũng tương tự trái phiếu và cổ phiếu ưu tiên chi phí của lợi nhuận giữ lại cũng được tính bằng lãi suất yêu cầu đối với khoản lợi nhuận đó của các 0cổ đông cổ phiếu thường.
Trong điều kiện nước ta hiện nay nhiều người còn mơ hồ về chi phí lợi nhuận giữ lại. Họ cho rằng lợi nhuận giữ lại là nguồn ngân quỹ vốn miễn phí vì không phải huy động từ bên ngoài doanh nghiệp. Tuy nhiên, chi phí của lợi nhuận giữ lại được đo bằng chi phí cơ hội.
Từ những lý luận trên thì câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lý là khi nào ban quản lý sẽ quyết định giữ lại số lợi nhuận để tái đầu tư kinh doanh?
Chúng ta biết rằng, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp sau khi trả cổ tức cho cổ phiếu ưu tiên là thuộc sở hữu của những cổ đông có cổ phiếu thường. Những nhà quản lý doanh nghiệp tuỳ theo tình hình cụ thể có thể trả lợi nhuận này cho các cổ đông dưới dạng cổ tức, nhưng cũng có thể giữ lại để tái đầu tư.
Giả định rằng thay vì doanh nghiệp trả phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế và trả cổ tức ưu tiên dưới dạng cổ tức cho cổ đông cổ phiếu thường, thì họ sẽ đầu tư phần cổ tức được chia vào trái phiếu của các công ty khác nhau hay đầu tư vào hoạt động bất động sản để thu được lợi nhuận. Như vậy doanh nghiệp muốn giữ lại phần lợi nhuận này thì cũng phải đảm bảo cho họ ít nhất được hưởng lợi nhuận bằng với trường hợp giả định trên với rủi ro tương đương.
Trên thực tế, những người nắm giữ cổ phiếu của công ty đều yêu cầu doanh nghiệp phải đạt được một lãi suất yêu cầu(Ks) ít nhất phải bằng với lãi suất kỳ vọng(Kv) trên thị trường đối với khoản đầu tư bằng lợi nhuận để lại. Như vậy, đó chính là tỷ lệ lãi suất mà người nắm giữ cổ phiếu và các nhà quản lý mong đợi nhận được từ khoản đầu tư của phần lợi nhuận để lại.
b. Chi phí của cổ phiếu thường mới(Ke):
Cũng như đã đề cập ở trên cổ phiếu thường mới và lợi nhuận giữ lại giống nhau về mặt bản chất, chỉ khác nhau bởi chi phí phát hành như tiền in ấn, quảng cáo, hoa hồng ngân hàng... Những chi phí bỏ thêm vào làm cho chi phí của cổ phiếu thường mới sẽ cao hơn chi phí của lợi nhuận giữ lại. Nhưng đến khi hết nguồn vốn từ nội bộ buộc công ty phải phát hành cổ phiếu thường mới để giữ cho cơ cấu vốn mục tiêu không đổi. Như vậy lãi suất yêu cầu hay chi phí của cổ phiếu thường mới được dự kiến là bao nhiêu để các cổ đông cũ không bị giảm lợi nhuận.
Gọi Ke là lãi suất yêu cầu của cổ phiếu mới phát hành, theo mô hình định giá cổ phiếu ta có:
Po là giá bán cổ phiếu mới. Nhưng do doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí cho việc phát hành nên giá trị ròng mà công ty nhận được sẽ là :
Po(1-F) chứ không phải là Po.
Trong đó F là chi phí phát hành được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên số phát hành.
Lúc này ta có:
D1: là cổ tức mong đợi của năm thứ nhất.
Trên đây là chi phí của nguồn tài trợ bằng vốn cổ phần nhưng trong thực tế doanh nghiệp lại có nguồn tài trợ dài hạn khác như nguồn đi vay, liên doanh... Nên bên cạnh các phương pháp trên người ta còn có thể phản ánh cho chi phí vốn bằng chi phí bình quân của các nguồn tài trợ dài hạn khác gọi là chi phí bình quân gia quyền của vốn.
Chương II
Thực trạng tăng cường huy động vốn ở công ty TM HươNG LúA .
I. Tình hình phát triển chung của công ty
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty TM Hương Lúa:
Năm 1984 Công Ty TM Hương úa chính thức bắt đầu xây dựng. Công ty được cắt băng khánh thành để chào mừng ngày Quốc tế phụ nữ , toàn bộ dây chuyền sản xuất đi vào hoạt động đồng bộ. Tuy nhiên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Công Ty TM Hương Lúa phải đương đầu với nhiều khó khăn mới do thiết bị lạc hậu , cơ chế quản lý mới để phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mới.
Ngày nay, Công ty TM Hương Lúa trực thuộc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam. Công ty TM Hương Lúa là một doanh nghiệp nhà nước, chịu sự điều hành trực tiếp của Tổng công ty, hoạt động theo cơ chế hạch toán độc lập và tự chủ.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty TM Hương Lúa:
2.1. Chức năng:
Công ty TM Hương Lúa có chức năng sản xuất và cung ứng cho thị trường các sản phẩm sợi, dệt, nhuộm, may đảm bảo theo các tiêu chuẩn của nhà nước quy định.
2.2. Nhiệm vụ:
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm các tệ nạn xã hội.
- Đóng góp vào sự phát triển của ngành Dệt may nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung.
- Góp phần bình ổn thị trường Dệt may trong nước.
3. Cơ cấu tổ chức và các đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty :
3.1. Cơ cấu tổ chức của Công ty TM Hương Lúa:
Địa chỉ của công ty: 295 Bạch Mai- Hai Bà Trưng- Hà nội.
Bộ máy quản lý của Công ty TM Hương Lúa được phân thành 3 cấp :
Giám đốc và các Phó giám đốc
Các ca sản xuất , tổ sản xuất
Giám đốc là người có quyền hành cao nhất, chịu trách nhiệm chung về các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ba Phó giám đốc có nhiệm vụ giúp việc cho tổng giám đốc trong công tác điều hành và quản lý công ty:
Phó giám đốc kỹ thuật: chịu trách nhiệm về mảng kỹ thuật.
Phó giám đốc sản xuất- kinh doanh chịu trách nhiệm về mảng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Phó giám đốc phụ trách đào tạo lao động và chất lượng sản phẩm.
Phòng kế hoạch tiêu thụ :có nhiệm vụ trực tiếp triển khai nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty. Căn cứ vào các hợp đồng đã ký của các khách hàng, khả năng sản xuất, kế hoạch sản xuất và tiêu thụ được vạch ra. Kế hoạch này phải trình lên và được sự phê chuẩn của tổng giám đốc. Thông thường, kế hoạch được lập theo các thời kỳ tháng, quí, năm.
Phòng Tổ chức hành chính chịu trách nhiệm về nhân sự, bảo hộ lao động, giải quyết chế độ công nhân viên chức.
Phòng Kế toán- tài chính: chịu trách nhiệm hạch toán thu, chi, lỗ, lãi... Ban đầu tư có nhiệm vụ tính toán các dự án đầu tư xây dựng và sửa chữa nhà xưởng.
Phòng xuất nhập khẩu: tổ chức ký kết, nhập khẩu hàng hoá, vật tư thiết bị cần thiết cho công ty.
Phòng bảo vệ quân sự: chịu trách nhiệm gìn giữ, kiểm tra và phát hiện các hành động trộm, cắp các tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty.
Trung tâm thí nghiệm và kiểm tra chất lượng sản phẩm: chịu trách nhiệm kiểm tra, đánh giá chất lượng của sản phẩm theo quy định của nhà nước.
Sơ đồ tổ chức hoạt động kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0108.doc