MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 4
CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOÀN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HIỆN NAY
I. Mục tiêu của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay
1. Các khái niệm cơ bản
2. Các nguồn hình thành vốn đầu tư của Việt Nam
3. Mục đích của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay
II. Vai trò của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay
1. Vai trò
2. Các yếu tố của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
I. Quá trình hình thành va phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam (chủ yếu từ năm 1988 đến nay)
1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư nước ngoài từ 1988 đến nay
2. Tình hình thực hiện
II. Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam
1. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng xuất khẩu, tăng thu nhập choa ngân sách
2. Tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động
3. Chuyển giao công nghệ một cách nhanh chóng
4. Tác động tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
III. Một số tồn tại của hoạt động thu hút FDI vào Việt Nam
1. Những hạn chế của hệ thống pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
2. Bộ máy quản lý
3. Cơ sở hạ tầng
4. Những hạn chế của quá trình thực hiện
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ THỰC HIỆN VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
I. Phương hướng và mục tiêu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới
1. Phương hướng
2. Mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
II. Một số kiến nghị về giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
1. Hoàn thiện hơn nữa luật đầu tư nước ngoài và các văn bản dưới luật, xây dựng hệ thống quản lý đầy đủ và đồng bộ
2. ổn định kinh tế vĩ mô
3. Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
4. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
5. Bảo vệ môi trường
III. Kết luận
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5996 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh chiếm 67,09% tổng số dự án với 79,68 số vốn đầu tư . Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 26.58% số dự án với 16,34% tổng số vốn đầu tư
Bảng 8: Các loại hình đầu tư (tính đến hết 1996)
Đơn vị: Triệu USD
Hình thức đầu tư
Số DA
Tỷ lệ %
Vốn ĐT (Triệu USD)
Tỷ lệ %
1. Xí nghiệp liên doanh
1.268
67.09
20.489,016
79,68
2. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài
500
26,58
4.234,431
16,34
3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
119
6,33
1.184,181
4,58
Tổng số
1.881
100
25.907,628
100
* Nguồn: SCC1 đổi mới kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại, viện kinh tế thế giới 1997
2.4.1. Hình thức xí nghiệp liên doanh:
Được áp dụng phổ biến nhất nhưng có xu hướng bớt dần về tỷ trọng. Hiện có khoảng 1300 xí nghiệp liên doanh được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 20.489,016 triệu USD. Sở dĩ các nhà đầu tư nước ngoài thích áp dụng hình thức liên doanh vì:
+ Họ thấy được ưu thế của hình thức xí nghiệp liên doanh so với xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là tranh thủ được sự hiểu biết và hỗ trợ của đối tác Việt Nam trong tất cả các khâu hình thành, thẩm định và thực hiện dự án, rộng hơn xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
+ Phạm vi, lĩnh vực và địa bàn hoạt động của xí nghiệp liên doanh
Tuy nhiên, hiện nay hình thức nào có xu hướng giảm đi là do nhữg nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Sau một thời gian tiếp cận với thị trường Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Châu á đã hiểu rõ hơn về luật pháp, chính sách và thủ tục đầu tư tại Việt Nam có những bất lợi cho họ.
+ Thực tiễn phát sinh nhiều tranh chấp việc quản lý điều hành xí nghiệp, một phần do sự yếu kém về trình độ của bên đối tác Việt Nam. Mặt khác, bên nước ngoài thường góp vốn nhiều nhưng lại không quyết định được vấn đề chủ chốt của xí nghiệp vì nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị.
+ Khả năng tham gia liên doanh của Việt Nam cơ bản là thiếu cán bộ quản lý, chuyên gia, thiếu vốn đóng góp (vốn đối ứng), phần vốn góp chủ yêú là đất (chiếm 90%) giá trị.
+ 98% đối tác Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh là các doanh nghiệp nhà nước, 2% còn lại thuộc các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh bao gồn các hợp tác xã, công ty cô phẩn, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, có nhiều trường hợp cơ quan quản lý nhà nước đã có tác động sẵn vào quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều thừa nhận quy định về xí nghiệp liên doanh của LĐTNN tại Việt Nam là rõ ràng và chấp nhận được. Tuy nhiên, một số đối tác nước ngoài cho rằng nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị là không phù hợp với hệ thống quốc tế, và trong thực tế có nhiều trường hợp bên Việt Nam có thể cố tình hoặc do thiếu hiểu biết đã vận dụng sai những nguyên tắc này, áp dụng những vấn đề không phải chủ chốt, gây lên khó khăn ách tắc đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.4.2. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Đầu tư nhà nước theo theo hình thức này ngày càng tăng từ 6% về tổng số vốn đăng ký trog 4 năm từ 1988 đến 1991 lên 21,1% năm 1996. Tính từ năm 1988 đến năm 1966 đã có 500 dự án đầu tư với tổng số vốn là 4.234,431 triệu USD. Nguyên nhân giảm sút công nghiệp liên doanh cũng là nguyên nhân tăng tỷ trọng các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Uỷ ban nước ngoài và hợp tác đầu tư trước đây đã không cấp giấy phép cho nhiều dự án 100% vốn nước ngoaì rọng những ngành, lĩnh vực quan trọng hoặc có tính đặc thù như: Bưu chính, viễn thông, xây dựng kinh doanh khách sạn và phòng cho thuê, sản xuất xi măng, dịch vụ xuất nhập khẩu …. Nhưng trong những năm gần đây các địa phương phía Nam đặc biết là các tỉnh: Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa - Vũng Tầu đã ủng hộ mạnh các dự án 100% vốn nước ngoài vì họ cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài thuê đất lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài có lợi thế nhiều hơn là việcc giao đất cho bên Việt Nam góp phần bằng giá trị quyền sử dụng đất để tham gia liên doanh.
Xu hướng xí nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên nói đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, thể hiện sự yên tâm của các nhà nước ngoài ki hoàn toàn bỏ vốn ra kinh doanh chứ không phải liên doanh hay ký kết hợp đồng hợp tác để vừa kinh doanh vừa thăm dò tình hình nước sở tại.
2.4.3. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Là hình thúc được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí và trong lĩnh vực bưu chính viễn thông. Hai lĩnh vực này chỉ chiếm 30% số dự án (nhưng trong đó có tới 90% tổng số vốn cam kết thực hiện). Phần còn lại chủ yếu thuộc lĩnh vực công nghiệp gia công chế biến và dịch vụ, tính từ 1988 đến hết năm 1996 chúng ta có tất cả 119 trường hợp hợp đồng hợp tác kinh doanh với tổng số vốn là 1.184.181 triệu USD. Qua thực hiện quản lý hợp đồng, hợp tác kinh doanh thường có phát sinh hai vấn đề phức tạp sau:
+ Một là, có sự nhầm lẫmn giữa hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các hợp đồng khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài như: Hợp đồng mua bán thiết bị trả chậm…Do vậy một số nhà đầu tư đã lợi dụng để đầu tư chui, trốn tránh sự quản lý của nhà nước về đầu tư.
+ Hai là, khi thực hiện các dự án lớn, các bên hợp doanh thường gặp khó khăn trong việc phân phối điều hành dự án. Một số hợp doanh đã đề xuất thành lập ban điều hành chung và đề bghị tổ chức ban điều hành đó như một pháp nhân và thực tế đã có hợp doanh tổ chức thành pháp nhân, có con dấu hoạt động tại Việt Nam.
Về hình thức đầu tư và các phương thức tổ chức khác đến nay đã có 5 công ty liên doanh xây dựng kết cấu hạ tầng, khu chế xuất và hai công ty liên doanh xây dựng kết cấu hạ tầng công nghiệp được cấp giấy phép hoạt động. Hình thức hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) mới bắt đầu triển khai thực hiệ đã có một dự án. Xử lý và cug cấp nước sạch ở thành phố Hồ Chí Minh với tổng số vốn là 30 triệu USD, trong năm 1996 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) đã cấp thêm 3 giấy phép cho dự án BDT với tổng số vốn đầu tư là 673.000.000 USD. Nhìn chung theo đánh giá của các đối tác nước ngoài thì hệ thống luật pháp về BOT được xem là đầy đủ, hoàn chỉnh so với nhiều nước trong khu vực.
II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
Trong hơn 10 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thay đổi quan trọng do những tác động của đổi mới kinh tế, sự thay đổi cơ thể và các chính sách, đặc biết là sự mở của của nền kinh tế. Nên kinh tế đã và đang đi dần vào thế ổn định và tăng trưởng; thực tế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam cho ta thấy rõ vai trò không thể thiếu của nó đối với quá trình phát triển kinh tế diễn ra ngày càng sôi động. Vai trò đó thể hiện trên các mặt: Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng xuất khẩu, tăng thêm việc làm và thu nhập nhanh chóng; tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, tăng thu nhập quốc dân, tăng thu ngân sách.
1. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng xuất khẩu, tăng thu cho ngân sách.
Cán cân thanh toán quốc tế là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài trả cho một nước trong moọt thời kỳ nhất định. Cán cân thanh toán đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, tình trạng của nó ảnh hưởng quyêt định đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, tình trạng ngoại hối của đất nước.
Hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trước 1986 phần lớn là với khối Comecon, đặc biệt là ngoại thương với Liên Xô (cũ) chiếm 44% tỉ trọng xuất khẩu và 67,1% nhập khẩu của Việt Nam. Cán cân thanh toán của Việt Nam trong một thời gian dài thường thâm hụt, năm 1976 thânm hụt 801,4 triệu rúp, nưm 1980là 975 triệu, năm 1985 là 1158,9 triệu và 1986 thâm hụt là 1332,1 triệu.
Kể từ năm 1988 tình hình cán cân thanh toán có những cải thiện đáng kể, về doanh thu của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến ngày 30/9/1997 là 4.983 riệu USD (không kể dầu khí), trong đó kim ngạch xuất khẩu chiếm 1/3. Còn nếu cộng cả dầu khí, tỉ trọng xuất khẩu của FDI khoảng 60 - 65%, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Về thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước năm 1988 - 1992 đạt 91 triệu USD, năm 1993 đạt 195 triệu USD (không kể dầu khí) và cho đến năm 1997 đạt trên 300 triệu USD. Đàu tư trực tiếp còn tác động tích cực tới đẩy mạnh sản xuất, tạo ra những năng lực sản phẩm mới, nâng cao chẩt lượng sản phẩm cao mặt hàng may mặc, dệt kim đồ dùng bằng da, thực phẩm, dầu thô…
2. Tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động.
Từ khi thực hiện LĐTNN tại Việt Nam năm 1988 chúng ta đã khắc phục được phần nào tỷ lệ thất nghiệp trước đó, bước đầu tạo thêm việc làm cho người lao động, theo số liệu của Tổng cục thống kê cho biết: từ năm 1998 đến nay tổng số lao động Việt Nam làm cho các xí nghiệp đầu tư vốn nước ngoài là 166.984 người. Ngoài ra FDI còn gián tiếp tạo ra việc làm và thu nhập cho hàng trục vạn lao động bao gồm công nhân xây dựng, lao động các dịch vụ khác cũng như đi lao động ở nước ngoài. Nhiều cán bộ đã phát huy được nămg lực vươn lên đảm đương được những vị trí quan trọng, có uy tín với đối tác nước ngoài.
Làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, người lao động Việt Nam có mức thu nhập khá cao. Kết quả khảo xát nhiều xí nghiệp liên doanh ở thành phố Hồ Chí Minh và ở Hà Nội vào cuối năm 1994 của Bộ Lao động thươn binh và xã hội cho thấy mức lương cán bộ cấp phòng vào khoảng 200 - 300 USD/ tháng, 80 - 100 USD/ tháng cho viên chức sự nghiệp, 60 - 80 USD/ tháng cho công nhân làm tại phân xưởng. Đối với khối văn phòng đại diện, mức lương tạp vụ thống nhất là 80 USD/tháng, nhân viên thừa hành 200 - 300 USD/ tháng. Ngoài lương công nhân các xí nghiệp liên doanh còn hưởng các khoản phụ cấp trách nhiệm, tiền ăn trưa, tiền thưởng…
Những con số nêu trên chưa lớn và cách đây đã mấy năm trời như kết quả ban đầu đã cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của FDI đối với việc giải quyết công ăn trong thời gian vừa qua. Tuy vậy, vấn đề cần giải quyết là bố trí được giữa đầu tư xây dựng mới và đầu tư chiều sâu, giữa các ngành có trình độ kỹ thuật cao và phải kết hợp hài hoà cả hai lợi ích; giải quết việc làm cho người lao động và nâng cao trình độ kỹ thuật trong nước, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
3. Chuyển giao công nghệ một cách thuận lợi và nhanh chóng.
Đổi mới thiết bị công nghệ là nhu cầu tất yếu của bất kỳ nễn sản xuất nào, vì đó là nhân tố quyết định sự phát triển của sản xuất thông qua nâng cao năng suất, chất lượng lao động xã hội, mở rộng chủng loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của con người. Về mặt lý thuyết, thông qua trực tiếp công nghệ được chuỷen giao dưới nhiều hình thức: máy móc thiết bị, kinh nghiệm quản lý, thiết bị kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, đào tạo cán bộ hoạt động nghiên cứu và triển khai.
Nhu cầu về thiết bị và công nghệ của Việt Nam xuất phát từ thực trạng của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá. Sau nhiều năm xây dựng, chúng ta có nhiều cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải quan trọng nhưng nói chung đang được vận hành trong điều kiện thiết bịo kinh tế lạc hậu rất nhiều so với các nước trên thế giới.
Dù dưới hình thức nào thì việc triển khai công nghệ không qua đàu tư trực tiếp cũng có nhiều ưu điểm. Do lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài nên họ thường chú trọng đưa vào công nghệ tiên tiến nâng cao sản xuất, chất lượng lao động để cạnh tranh và thu lợi nhuận cao. Nhưng cũng nhờ đó mà nước sở tại cũg thu được nhiều thiết bị công nghệ hiện đại, hơn nữa sự xuất hiện của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với những kỹ thuật công nghệ ưu việt đã tạo ra một áp lực cạnh tranh buộc các xí nghiệp trong nước phải cải tiến kỹ thuật, công nghệ. Chính điều này đã góp phần nâng cao trình độ chung của nền kinh tế quốc dân.
Tại Việt Nam, trong nhiều lĩnh vực kết quả cuyển giao công nghệ được đánh giá cao như các dự án về thăm dò và khai thác dầu khí, lắp ráp và sản xuất Ôtô, xe may, công nghễ thép, đặc biệt là công nghệ Bưu chính viễn thông, sản xuất các linh kiện và trang thiết bị điện tử.
4. Tác động tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
Nội dung của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời gian tới là đưa nhanh tién bộ khoa học công nghệ, các phương pháp công nghệ hiện đại; các phương pháp tổ chức sản xuất, kinh doanh và quản lý tiên tiến vào các ngành, các lĩnh vực của nề kinh tế quốc dân. Muốn như vậy cần phải phát triển cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, và sinh học hoá trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế quốc dân. ưu tiên cho các ngành , lĩnh vực các thành phần kinh tế, các vùg lãnh thổ, các doanh nghiệp trọng điểm.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu đang được tiến hành ngày càng hợp lý, và có hiệu quả hơn. Thực tế, vốn FDI đã tác động không ít (cả trực tiếp lẫn gián tiếp) đến các bộ phận của nền kinh tế quốc dân theo những định hướng do Chính phủ điều hành (trực tiếp hoặc gián tiếp). Điều này đã một phần đã được chứng minh qua các số liệu ở mục I chương II và hãy so sánh 2 bảng sau:
Bảng 9: Tốc độ tăng trưởng GDP và các ngành chủ yếu
Đơn vị: %
Hạng mục
91
91,95
92
93
94
95
96
97
GDP
6,0
8,2
8,6
8,1
8,8
9,5
8,5
8,7
1. Công nghiệp
9,9
12,5
12,6
12,1
12,9
13,0
13,2
12,9
2. Nông nghiệp
2,2
4,3
66,3
3,8
3,9
4,0
5,2
5,34
3. SXVC khác
3,8
-
6,3
6,2
6,7
-
8,1
8,1
4. Dịch vụ
8,3
11,0
8,6
9,2
9,7
9,1
10,3
9,8
Bảng 10: Cơ cấu kinh tế giữa các ngành
Đơn vị: %
Hạng mục
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
GDP
100
100
100
100
100
100
100
1. Công nghiệp
23,8
27,3
28,9
29,6
30,3
31,9
33,9
2. Nông nghiệp
35,5
33,0
28,8
28,7
27,2
25,2
23,2
3. SXVC khác
1,0
0,9
1,1
-
-
-
-
4. Dịch vụ
35,7
38,8
41,2
41,7
42,5
45,8
47,4
* Nguồn: Niên giám thống kê 1995, 1997. NXB Thống kê
III. MỘT SỐ TỒN TẠI CỦA HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM.
1. Những vấn đề hạn chế của hệ thống pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Hệ thống pháp luật kinh tế chưa đồng bộ, chưa đầy đủ và tính pháp lý của nhiều văn bản pháp luật chưa cao.
Nhiều các vấn đề trong LĐTNN còn chưa cụ thể như: Lao động tiền lương xuất nhập khẩu, thuế đát đai trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, một số lĩnh vực liện quan tuy có luật điều chỉnh nhưng không có văn bản hướng dẫn kịp thời, nên không thực hiện được, thậm chí vẫn còn tình trạng các văn bản có sự mâu thuẫn nhau nên không thể hướng dẫn thực hiện được. Trong khi đó, các cá biệt có những điều khoản chưa phù hợp với thông lệ quốc tế gây khó khăn cho quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, phải đề cập đến mặt thứ 2 của vấn đề này là thực trạng chấp hành luật xử lý vi phạm luật. Do ở quá lâu trong cơ chế cũ nên ý thức tôn trọng pháp luật ở Việt Nam còn rất thấp, thể hiện ở cả hai phía. Người quản lý và người chấp hành.
Về phía người quảnt lý thì có nhiều quyết địn quản lý đưa ra không phù hợp với các quy định của luật, thậm chí mâu thuẫn trái ngược với luật.
Về phía người chấp hành thì hàu như chưa có tói quen hành động trong khuôn kổ pháp luật nên ít người biết tới luật, trừ khi họ vi phạm bị phát hiện xử lý. ở đây việc tuyên truyền, phổ biến luật đã có những thiếu sót, khe hở của pháp luật nói chung và LĐTNN nên nhiều các cá nhân, tổ chức đã lợi dụng để hoạt động.
2. Bộ máy quản lý.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang song vẫn chưa thoát gỡ được những thủ tục quá rắc rối, thủ tục hành chính trong quá trình ký kết còn kéo dài, cách klàm việc thiếu khẩn chương, không giữ đúng thời gian quy định. Từ việc xin VISA vào Việt Nam thăm dò đầu tư; chọn đối tác, lập dự án cho đến việc mở văn phòng, đăng ký con dấu, thuê mướn lao động các nhà đầu tư phải mất 6 tháng đến 1 năm, khoảng thời gian đó có thể mấ 1/2 cơ hội. Cung các làm ăn còn quan liêu, chưa phù hợp.
Một vấn đề nữa là thiếu cán bộ năng lực phù hợp để đối tác với nước ngoài và cán bộ quản lý. Thường khi đàm phán phía nước ngoài hỏi rất nhiều và do sự hạn chế về trình độ của cán bộ ta mà dẫn đến nhiều dự án phá sản. Thiếu sót nghiêm trọng là việc hiểu biết và nắm vững luật háp còn yếu. Mặt khác do nôn nóng muốn có vốn đầu tư nước ngoài mà vội vàng "đầu tư với bất cứ giá nào" đã dẫn đến chọn nhầm đối tác. Trong việc đánh giá chất lượng và đánh giá tài sản cố định thiết bị mà hai bên đóng góp vào liên doanh có hiện tượng thiếu trung thực, do ta không nắm được chất lượng và giá cả của thiết bị nên có trường hợp phải nhận thiêt bị cũ, lạc hậu, giá bị đẩy lên cao.
3. Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng của ta còn chậm phát triển so với yêu cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, rất nhiều hệ thống công trình bị hư hỏng và cần được sửa chữa. Hệ thống cảng của ta hiệ nay chỉ đủ sức bốc rỡ một khối lượng hàng hoá khoảng gần 20 triệu tấn mỗi năm và hầu hết các cảng còn quá đông đối với tầu lớn. Mạng lưới truyền tải điện còn chắp vá, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của sản xuất và tiêu dùng. Hệ thống cấp thoát nước ở nhiều nơi (Trung tâm kinh tế đô thị, thành phố…) cũng chưa đảm bảo được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Hệ thống Bưu chính viễn thông tuy có phát triển phần nào đáp ứng được yêu cầu, song cước phí lại cao so với nhiều nước trong khu vực.
4. Những hạn chế của quá trình thực hiện.
Cụ thể ở Việt Nam, sau 10 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếpcho nhiều vấn đề cẩn phải xem xét; tỷ trọng vốn đầu tư kinh tế cần phải tăng đều qua các năm nhưng có thể nói mức tăng đó chưa phải là cao, đặc biệt là tỷ lệ vốn thực hiện tăng chậm; vấn đề cần đầu tư; đối tác đầu tư kỹ thuật công nghệ…
4.1. Về quy mô và tốc độ thu hút vốn đầu tư.
Nhìn chung trong thời gian qua lượng vốn đầu tư vào nước ta còn ít, tốc độ luân chuyển nước ta còn chậm chạp kém hiệu quả, quy mô bình quân mỗi dự án còn nhỏ. Trong nửa cuối năm 1977 và đầu năm 1998 trở lại đây tốc độ đầu tư trực tiếp có xu hướng "chựng lại" so với các năm trước. Có nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp, nhưng chủ yếu có 3 nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất, trên phạm vi cả nước chúng ta đã cấp giấy phép đầu tư nước ngoài với số vốn gần 30 tỉ USD, trong đó có khoảng 2/3 số vố theo giấy phép chưa được triển khai đi vào hoạt động. Vì vậy thị trường đầu tư tại Việt Nam cuối năm 1997 và những năm sau không còn mang tính chất củamột thị trường sơ khai, từ đó đòi hỏi các nhà đầu tư nước ngoài phải tính toán kỹ lưỡng để tìm cơ hội đầu tư.
- Thứ hai, do ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á và đang lan truyền khắp toàn cầu. Nó ảnh hưởng tới tỉ giá hối đoái, giá cả các yếu tố đầu vào, giá cả không ổn định tâm lý các nhà đầu tư và người tiêu dùng thiếu vốn đầu tư … Là những yếu tố gây cản trở rất lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Thứ ba, trong chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của chúng ta có sự định hướng đầu tư nghiêm ngặt hơn theo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá, lĩnh vực chúng ta cần đầu tư thì không hấp dẫn và ngược lại. Chúng ta muốn nhà đầu tư nước ngoài tận dụng lợi thế so sánh về các yếu tố sản xuất của Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu, chứ không phải để cạnh tranh bất lợi đối với các doanh nghiệp trong nước trên chính thị trường của mình.
Thứ tư, chúng ta định hướng chính sách từ chỗ tiếp nhận "cái họ có" sang chỗ tiếp nhận "cái mình cần", trong khi đó chưa có một hệ thống tốt các định chế yểm trợ đông bộ, bao gồnm về chính sách, cơ chế vận hành, môi trường đầu tư dịch vụ hành chính thuận lợi…
4.2 Về cơ chế đầu tư
Tuy những tiến bộ đạt được và có sự chuyển biến tích cực so với những năm đầu thực hiện LĐTNN, song qua phân tích kỹ cơ cấu từng ngành, từng vùng ta vẫn thấy chưa hợp lý. Các dự án chủ yếu tập chung vào các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất gia công, lắp ráp… Còn các ngành kinh tế then chốt, các vùng kinh tế trọng điểm đặc biết là các ngành quan trọng nhưng lợi nhuận ít, thời gian hoạt động dài, thu hồi vốn chậm…Còn có số dự án và tỉ lệ thấp.
Tất cả những vấn đề trên- những khó khan tồn đọng cần phải được sửa đổi, chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc, tốt hơn về sau này. Bên cạnh những vấn đề đó cần phải đề cập tới một số những thuận lợi sau:
* Tình hình chính trị ổn định. Đây là một trong những điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nói riêng. Việt Nam được coi là một nước rất ổn định về chính trị, dưới con mắt của các nhà đầu tư, ổn định chính trị luôn là vấn đề họ quan tâm xem xét đầu tiên khi quyết định đầu tư vào bất cứ nước nào. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam đối với tât cả các nước trên thế giới ngày càng tốt hơn.
* Môi trường pháp lý thuận lợi: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam áp dụng rộng rãi cho các tổ chức cá nhân đầu tư vào Việt Nam, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, xã hội ở các nước đó. Nguyên tắc cơ bản là tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam tuân thủ pháp luật của Việt Nam trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Khi tính toán về lợi ích luật đầu tư nước ngoài, ta cho nhà đầu tư những điều kiện tương đối rộng rãi về lợi nhuận cũng như đảm bảo an toàn cho các quyền sở hữu chính đág của họ.
* Những nguồn lực và lợi thế của Việt Nam. Đó là vị trí địa lý quan trọng ở Đông á, nằm trên con đường chiến lược từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam hơn nữa Việt Nam lại nằm trên con đường độc nhất lối liền Đông á và Đông Nam á. Trong khí đó tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú (về dầu khí, than, sắt ….) và nhiều loại khoáng sản quý hiếm khác. Đó là những tiềm năng rất lớn phát triển đồng thời cũng là yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
* Tiềm năng lao động.
Nguồn lao động Việt Nam rất dồi dào trong đó phần lớn là lao động trẻ> Hiệ nay ở Việt Nam có khoảng 36.000.000 nguời đang ở độ tuổi lao động, trong đó có hàng triệu người tốt nghiệp Đại học và trên Đại học, hàng triệu công nhân kỹ thuật. Đặc biệt là lưu lượng lao động của Việt Nam chưa đòi hỏi phải có thu nhập cao, giá trả công nhân lao động ở Việt Nam còn thấp (thấp hơn 5 đến 10 lần so với các nước trong khu vực). Đây là một yếu tố giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận siêu ngạch
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ THỰC HIỆN VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG THỜI GIAN TỚI .
1. Phương hướng.
Phương hướng chung cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là:
+ Hướng đầu tư nước ngoài vào những mục tiêu: Tậo ra năng lực sản xuất mới, hoàn thiện đổi mới các cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá nền kinh tế, ưu tiên sử dụng vốn vay ưu đãi nước ngoài để xây dựng hạ tầng kinh tế, trong đó dành một phần số vốn lớn cho các dự án có kả năng thu hồi vốn vay.
+ Cải thiện môi trường đầu tư bằng mọi hệ thống các chính sách và biện pháp khuyênd khích đồng bộ, chánh xu hướng nặng nề về các biện pháp ưu đãi về tài chính. Phải hoàn thiện luật pháp về đầu tư theo hướng bổ xung những quy định cần thiết, chỉnh lý những quy định chưa roc hoặch mâu thuẫn với nhau, khắc phục các hiện tượng phân tán cục bộ trong quản lý nhà nước và đầu tư nước ngoài. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính.
Đối với FDI được cụ thể như sau:
1.1. Thu hút đầu tư theo ngành và vùng kinh tế.
Ưu tiên cho các dự án trog lĩnh vực nôg nghiệp, trồng rừng xây dựng các vùng nguyên liệu, chế biến lương thực - thực phẩm và các dự án đầu tư vào các tỉnh trung du, miền núi, tây nguyên, Duyên Hải miền trung và miền Tây Nam Bộ. Trong đó đặc biệt là nông nghiệp - với vai trò ngành chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam, tạo nhiều công ăn việc là, có lợi thế lớn… Nên càn phải thu hút vào nông nghiệp với mức độ hợp lý nhằm khai thác, tận dụng những thế mạnh của ngành. Đồng thời còn góp phần nâng cao mạng lưới giao thông nông thôn (đường - trường - trạm). Đó là điều căn bản để hiện đại hoá khu vực nông nghiệp và bảo đảm một số mẫu hình phát triển kinh tế cân đối.
Đối với ngành công nghiệp - một ngành có nhiều hứa hẹn, cần phải đảm bảo xây dựng tốt, có hiệu quả nhằm tạo có sở vũng chắc cho nền kinh tế bước vào giai đoạn "cất cánh" phương hướng xác định.
Phát triển rộng khắp công nghiệp công ghiệp chế biến nông - lâm thủ sản, kết hợp nhiềuc hình thức , trình độ công nghệ hợp tác liên doanh với nước ngoài, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh.
+ Thu hút đầu tư nhằm phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng bằng nhiều hình thức, quy mô với công nghệ thích hợp. Đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất khai thác, chế bioến khoáng sản.
+ Trong sự chuyển dịch có cấu nông nghiệp có thê chia làm 2 thời kỳ lớn:
- Thời kỳ đầu; các gành có lợi thế tương đối về lao động và tà nguyên sẽ phát triển mạnh và chiếm tỷ trọng áp đảm trong cơ cấu ngành.
- Thời kỳ sau là thời kỳ của ngành kỹ thuật cao, hàm lượng khoa học công nghệ lớn. Chín vì vậy trước mắt cần thu thút đầu tư vào các ngành công nghiệp cần nhiều lao động tương đối đơn giản, dễ huấn luyện (như dệt may, chế biến lương thực, thực phẩm…).
Đối với ngành dịch vụ, phương hướng đầu tư đặt ra là cần tập trung đến đầu tư dịch vụ và vận tải biển. Việt Nam có tiềm năng du lịch lớn với trên 300 km đường biển, nhiều phong cảnh đẹp, nhiều di tích lịch sửnổi tiếng….
Tất cả tạo nên sức hấp dẫn ngành du lịch với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngoài ra cần phải có sự quan tâm thích đáng với các dự án vào lĩnh vực dịch vụ vận tải như : Cảng, sân bay và vào lĩnh vực liên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.docx