Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp chưa thống nhất và nó đang là một vấn đề nan giải, chưa có một định hướng rõ nét căn bản, mọi phương pháp định giá chỉ mang tính tạm thời. Tài sản của doanh nghiệp được mua sắm vào những thời gian khác nhau với trình độ công nghệ và giá cả khác nhau, vì thế mức độ sử dụng trong sản xuất cũng khác nhau, không những thế ở nhiều doanh nghiệp sổ sách kế toán không đầy đủ và rõ ràng, vì vậy khi nmuốn định giá tài sản họ cũng không có thông tinthị trường để định giá. Vì thế thời gian xác định giá trị dioanh nghiệp thường kéo dài và có sự khác biệt ý kiến giữa thành viên của hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp và đại diện của doanh nghiệp dẫn tới làm chậm tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n Thị trường Chứng Khoán, nhằm đảm bảo cho mình nhữnh khoản thu nhập bổ sung, thâm nhập và mở rộng quyền chi phối của mình trong những lĩnh vực cần được kiểm soát và chống độc quyền.
Thực hiện chính sách cổ phần hoá đã cho phép Nhà Nước giảm bớt gánh nặng tài trợ ngân sách nhưng vẫn duy trì được khả năng kiểm soát của mình, vì các công ty quốc doanh sau khi cổ phần hoá hình thành dạng công ty cổ phần hỗn hợp đã chuyển sang sử dụng các nguồn vốn khác thay vì nhận từ ngân sách Nhà Nước như trước đây. Các nguồn vốn đó là: các ngân hàng tư nhân, các nhà đầu tư tư nhân, các cơ quan mua cổ phiếu… và Nhà Nước vẫn nắm giữ phần lớn trong các công ty nên Nhà Nước vẫn có khả năng kiểm soát.
Nét đặc của quá trình cổ phần hoá ở các nước phát triển là hình thành công ty cổ phần hỗn hợp Nhà Nước- tư nhânhoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp Nhà Nước,cạnh tranh bình đẳng với các khu vực tư nhân để giành vị trí cao chứ không phải có được vị trí độc quyền do Nhà Nước “ ban cho”.
Có thể nói thông qua quá trình cổ phần hoá, sự hợp tác và xâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế Nhà Nước và khu vực kinh tế tư nhân kể cả ở các công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị trường thế giới là một trong những con đường nhàm nâmg cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển hiện nay.
2.2 Quá trình cổ phần hoá ở các nướcđang phát triển.
Việc thực hiện cổ phần hoá ở các nước đang phát triển( trong khu vực Châu á cũng như khu vực Đông Nam á) là cổ phần hoá các DNNN trong các ngành nghề thuộc các lĩnh vực mà Nhà Nước xét thấy không cần phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền. Vì thé Nhà Nước muốn rút vốn ra và chuyển giao lại khu vực tư nhân nhằm thực sự cạnh tranh công bằng và đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của khu vực kinh tế Nhà Nước. Một mục tiêu nữa đó là cổ phần hoá nhằm phát triển Thị trường Chứng Khoán trong nước, thể hiện đặc biệt nổi bật ở các nước: Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Thái Lan…
Đài Loan với nền kinh tế có thể coi là đã trưởng thành, việc mở rộng sự tự do của nền kinh tế tư nhân đòi hỏi Nhà Nước phải có những chính sách phù hợp. Trong những năm 80 Chính Phủ Đài Loan đã ban hành hàng loạt các chính sách và biện pháp để thực hiện cổ phần hoá một số DNNN làm ăn phi hiệu quả trong nhiều năm. Năm1984 Chính Phủ đã xây dựng chương trình đổi mới quản lý DNNN. Năm 1987, một số DNNN thuộc ngành công nghiệp được cổ phần hoá, đến năm1989 các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp cũng được cổ phần hoá và tư nhân hoá. Đi liền với chính sách ổn định giá cả trong nông nghiệp, các chính sách giải quyết vấn đề lao động và việc làm có sự điều tiết của Nhà trong các DNNN được cổ phầm hoácũng được ban hành. Cho đến năm 1995 ở Đài Loan đã có khoảng một phần hai số DNNN được tiến hầnh cổ phần hoá.
3.Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
3.1 Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá.
Sự triển khai có tính chất toàn cầu, quá trình này tạo ra một tương quan hợp lý giữa sở hữu Nhà Nước và sở hữu tư nhân, giữa sự điều tiết của Nhà Nước và của thị trường. Do vậy tiến hành cổ phần hoá một số DNNN ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một đòi hỏi khách quan để nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước hoạt độnh có hiệu quả hơn và khai thác tối đa các đông lực của thị trường.
3.2 Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá.
Đó là sự phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách thức tổ chức, bước đi và biện pháp cụ thể do những điều kiện về chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như quan niệm về xây dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi Chính Phủ quy định. ở nước ta không thể không chú ý đến tính đặc thù về các điều kiện quyết định quá trình nàyđể có sự sàng lọc kinh nghệm của các nước và chuẩn bị kĩ càng các điều kiện vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.
3.3 Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá.
Cổ phần hoá được coi là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế. Do đó đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao khi xác định mục tiêu về cơ cấu và tương quan giữa các lĩnh vực và khu vực kinh tế để dịch chuyển, phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các nhóm người sở hữu và quản lý khác nhau. ở với quy mô và tính quan trọng của chương trình cổ phần hoá thì Nhà Nước phải suy sét ở tầm chiến lược trong quá trình đổi mới toàn diệnđể phát triển nền kinh tế. Nhà Nước phải thành lập một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết toàn bộ những vấn đề về cổ phần hoá.
3.4 Cổ phần hoá là một quá trình.
ở Việt Nam trong hoàn cảnh thiếu rất nhiều điều kiện quan trọng để tiến hành cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm quá trình trong cổ phần hoálà hết sức cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này trong thời gian ngắn. .
3.5 Quá trình cổ phần hoá cần có một môi trường pháp lý cần thiết.
Để thực hiện cổ phần hoá thì Nhà Nước phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết. Đó là một bộ luật quan trọng có ý nghĩa như lànhững điều kiện để ổn định và xác lập Kinh tế Vĩ mô tạo ra những khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển đổi và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá.
PHầN II: THựC TRạNG TIếN Độ Cổ PHầN hoá CáC DNNN ở VIệT NAM
I.Tính tất yếu của việc cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam.
1.Tính tất yếu của việc cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế, những năm gần đây nền kinh tế kế hoạch tập chung ỏ nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh thuộc khu vực kinh tế Nhà Nước đã bộc lộ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút khủng hoảng. Làm thế nào để cấu trúc lại sở hữu Nhà Nước và cải cách khu vực kinh tế Nhà Nướcnhằm nâng cao hiêụ quả và vai trò của nó theo tinh thần của các nghị quyết Trung Ương 6 và 7 của Đảng. Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết những vấn đề nàylà tiến hành cổ phần hoá một số DNNN nhằm đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác lập mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng là một giải pháp có tính phổ biếnđể cải cách khu vực kinh tế Nhà Nước ở hầu hết các nước trên thế giới.
Vì thế việc tiến hành cổ phần hoá một số DNNN được coi là một tất yếuđể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh củakhu vực kinh tế Nhà Nước từ đó tạo cơ sở quan trọng để phát triển nền kinh tế.
2.Thực chất của việc cổ phần hoá các DNNN ở nước ta.
Về vấn đề này hiện nay có 2 loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng thực chất cổ phần hoá là tư nhân hoá, loại ý kiến thứ hai cho rằng cổ phần hoá thực chất là quá trình xã hội hoá DNNN.
Về ý kiến thứ nhất, nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cổ phần hoá các DNNN, xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kì khác nhau, những nguyên nhân thường là:
+ Do thay đổi về chính trị-xã hội dẫn đến sự thay đổi về chế độ sở hữu liệu sản xuất- từ công hữu chuyển sang tư hữu- vì thế cổ phần hoá doanh nghiệp là một bộ phận của chủ trương tư nhân hoá nền kinh tế.
+ Do khủng, lạm phát, thâm hụt lớn phải cổ phần hoá để thu hồi vốn cho Nhà Nước và thu hút thêm vốn đầu tư hoặc để giảm bớt gánh nặng cho Nhà Nước.
+ Để thu hút thêm vốn đầu tư, tranh thủ công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến từ các nguồn trong và ngoài nước để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường.
Chủ trương cổ phần hoá ở nước ta lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa(XHCN). Đó là sự chuyển hướng chiến lược kinh tế xã hội của nước ta đó cũng là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích, nội dung và phương thức cổ phần hoá các DNNN. Cần thấy rằng thực chất cổ phần hoá ở nước ta(khác hẳn với cổ phần mà các nước trên thế giơi đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại các DNNN cho hợp lývà hiệu quả, còn việcchuyển đổi sở hữu của Nhà Nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiệnquan trọng để thực hiện mục đích trên.
Sự khác nhau cơ bản giữa cổ phần hoá các DNNN ở nước ta với qúa trình tư nhân hoá của các nước trên thế giới:
- Cổ phần hoá các DNNN ở nước ta, tỉ trọng cổ phiếu phát ra là do Nhà Nước quyết định nên không sợ rằng chủ trương cổ phần hoá rốt cuộc là tư nhân hoátoàn bộ khu vực kinh tế Nhà Nước làm mất định hướng XHCN.
- Thực chất việc tư nhân hoá các DNNN là việc bán một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dâncho tư nhân. Còn cổ phần hoá ở nước ta là bán một phần hoặc toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất trong một số DNNN cho các tổ chức hoặc tư nhân, tức là chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu hỗn hợp.
- Mục đích của tư nhân hoá là tăng cường khu vực kinh tế tư nhân, cồn cổ phần hoá các DNNN là nhằm bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợpvới đường lối xây dựng nền kinh tế mà Đảng và Nhà Nướcđã đề ra.
Về loại ý kiến thứ hai, vấn đề đặt ra là cổ phần hoá DNNN có phải là xã hội hoá tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân hay không?
Chúng ta vẫn hiểu xã hội hoá tư liệu sản xuất thực chất là công hữu hoá tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, còn cổ phần hoá các DNNN thực chất là chuyển tài sản từ sở hữu toàn dân sang sở hữu hỗn hợp nhưng không phải là xã hội hoá tư liệu sản xuất vì trong các công ty cổ phần: tồn tại duy nhất chế độ phân phối theo lượng vốn đóng góp, chế độ sở hữu là chế độ sở hữu hỗn hợp chứ không phải tập thể sở hữu, Nhà Nước nhường một phần hoặc toàn bộ quyền quyết định cho các chủ sở hữu khác.Vì thế quá trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta không phải là quá trình xã hội hoá .
3. Mục tiêu cổ phần hoá DNNN ở nước ta.
3.1 Chuyển một phầm sở hữu Nhà Nước sang sở hữu hỗn hợp.
Thực chất là chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà Nước toàn phần trong doanh nghiệp thànhhình thái kinh doanh công ty cổ phần hỗn hợp: Nhà Nước và tư nhân, hoặc công ty cổ phần tư nhân. Mục tiêu này xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường phải có các hình thức sở hữu khác nhau tồn tại. Nó cũng xuất phát từ yêu cầu một nền kinh tế không quốc doanh hoá tràn lanmà chỉ duy trì các DNNN(100% vốn)trên các lĩnh vực và các ngành then chốt trong nền kinh tế.
Khi chuyển DNNN sang công ty cổ phần và xoá bỏ các cấp chủ quản dưới mọi hình thứcviệc xác lập quyền tự chủ kinh doanh, tách quyền quản lý Nhà Nước và quản lý kinh doanh là dương nhiên thực hiện được.Và cũng chính điều đó đưa lại một khả năng mới là việc xác lập bộ máy quản lý và bổ nhiệm ngườivaò các chức vụ quản lý kinh doanh do các cổ đông quyết định. Nhờ đó nâng cao hiệu qủa hoạt động cử các công ty.
3.2 Huy động vốn trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Sự thay đổi cơ cấu sở hữu trong cổ phần hoá các DNNN cũng có ý nghĩa thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội vào doanh nghiệp Đây là mục tiêu cần thiết, tuy nhiên việc thực hiện ở nước ta gặp rất nhiều khó khăn và cẳn trở. Trên thực tế các nhà đầu tư chỉ bỏ vốn góp cổ phần theo sự lựa chọn của họ đối với các doanh nghiệp kinh doanh có lãi, có triển vọng phát triển. Do vậy để thu hút được vốn từ các thành phần kinh tế, chúng ta cần lựa chọn kĩ lưỡng các doanh nghiệp và xác định bước đi cụ thể trong giai đoạn làm thí điểm cổ phần hoá.
3.3 Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
Việc chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần đã tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất của doanh nghiệp, quyền sở hữu và quyền kinh doanh, hành vi của chính quyền và doanh nghiệp được hợp lý hoá một cách rõ nét. Sự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền vào hoạt động kinh doanh củadoanh nghiếpẽ giảm đêns mức thấp nhất. Thông qua việc mua cổ phần người lao động mới có điều kiệnđểthực hiện thực tế quyền làm chủ đích thực của mình. Với tư cách là một cổ đông họ tham gia cùnh các cổ đông khác quyết định chiến lượcphát triển của công ty, tham gia quản lý, phân chia lợi nhuận, sát nhập, giải thể công ty, lựa chọn hội đồng quản trị…
Đây là mục tiêu mang tính khái quát chung, vì vậy cần phải nghiên cứu kĩ đặc điểm của nền kinh tế quốc dân và của từng loại DNNN để định ra mục tiêu cụ thể sát hợp với từng DNNN dự định cổ phần hoá. Trong từng giai đoạn từng thời kì có thể điều chỉnh thứ tự ưu tiên của các mục tiêucho phù hợp vơí yêu cầu và khả năng thực hiện.
II. Đánh giá chung về tiến trình cổ phần hoá một số DNNN ở Việt Nam.
1.Số lượng DNNN đã được cổ phần hoá đến 31/5/2001.
Tính đến ngày 31/5/2001, cả nước đẫ cổ phần hoá được 683 doanh nghiệp, giao bán được 52 doanh nghiệp bằng 11.5% tổng số DNNN hiện có. Trong đó có 120 doanh nghiệp được cổ phần hoá trước năm 1999, 250 doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 1999, 250 doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 2000 và 5 tháng đầu năm 2001 có 63 DNNN đẫ được cổ phần hoá. Trong số các DNNN được cổ phần hoá thì có 60 doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá làm ăn thua lỗ triền miên: công ty sứ Bát Tràng, công ty chè Bảo Lộc…Số còn lại sản xuất kinh doanh rất không ổn định khi có lãi khi thì thua lỗ. Nếu tính chung thì tại các đơn vị này vẫn có lãi, nhưng có lãi rất thấp,lãi ở đây là tính trên số vốn Nhà Nước chưa được đánh giá lại. Trong số các DNNN đã cổ phần hoá, số doanh nghệp có vốn Nhà Nước dưới 1 tỉ đồng chiếm 35%, loại từ 1 đến 5 tỉ chiếm 38.5%, loại từ 5 đến 10 tỉ chiếm 20.4%, loại trên 10 tỉ chiếm 6.1%. Hiện tại Nhà Nước có cổ phần ở 367 doanh nghiệp đã cổ phần hoáchiếm 59.2%. Số công ty mà Nhà Nước chiếm trên 50%vốn điều lệ có 49 đơn vị chiếm 8%, trong đó Nhà Nước giữ cổ phần cao nhất ở công ty cổ phần in và bao bì Hải Phòng, thấp nhất ở công tydịch vụ thương mại Hà Nội.
Về cơ cấu ngành nghề các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, 38% thuộc lĩnh vực thương mại và dịch vụ, 5% thuộc lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp và thuỷ sản.
Trong các DNNN được cổ phần hoá, hình thức bán một phần giá trị doanh nghiệp là hình thức được lựa chọn nhiều hơn( 42.48%)và các hình thức chuyển toàn bộ DNNN thành công ty cổ phần( Nhà Nước không giữ lại cổ phần) chiếm 31.52%. Thực tế cho thấy hình thức bán một phần giá trị doanh nghiệp rồi huy động thêm vốn của người lao động và các cổ đông ngoài doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn vì hình thức này đạt tốt hơn 2 mục tiêu huy động vốn và tạo động lực. Hình thức chuyển toàn bộ DNNN thành công ty cổ phaanf chủ yếu là bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp.
Hầu hết các DNNN sau khi cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả hơn. Trên kết quả sơ bộ của trên 200 công ty cổ phần hoạt dộng trên 1 năm cho thấy doanh thu tăng 43%, lợi nhuận tăng trên 100%, nộp ngân sách tăng 18%, năng suất lao động tăng 5%, thu nhập tăng 22%. Một số doanh nghiệp cổ phần hoá có doanh thu tăng rất cao như:
Đại lý liên hiệp vận chuyển: từ 16.6 tỉ đồng lên 225 tỉ đồng.
Công ty bông Bạch Tuyết: từ 55 tỉ đồng lên 86.6 tỉ đồng.
Công ty cao su Sài Gòn: từ 2.3 tỉ đồng lên 23 tỉ đồng.
Tại một số công ty cổ phần người lao động có mức thu nhập tăng cao:
Công ty bông Bạch Tuyết: từ 2.8 triệu đồng/ 1người/ 1tháng lên 3.3 triệu/ 1người/ 1tháng.
Công ty vận tải ô tô Lâm Đồng: từ 130 000 đồng/1người/1tháng lên 654 000 đồng/1người/1tháng.
2. Đánh giá tiến trình cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam.
Qua 9 năm thực hiện chương trình cổ phần hoá các DNNN ta có thể tổng hợp chung về số lượng các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá như sau:
Năm
Số DNNN đã cổ phần hoá
Số DNNN dự kiến được CPH
Tỉ lệ so với kế hoạch( %)
1992- 1995
5
10
50
1996- 1998
115
200
57.5
1999
250
400
62.5
2000
250
798
31.3
31/5/2001
63
-
-
Từ bảng nhận xét trên ta có thể rút ra một nhận xét chung là tiến trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta diễn ra chậm, số lượng các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá còn rất ít so với kế hoạch đặt ra của Đảng và Nhà Nước ta.
Trên thực tế so với kế hoạch đưa ra của từng năm, từng giai đoạn thì chúng ta mới chỉ thực hiện được ở mức rất khiêm tốn. Trong kế hoạch của Đảng và của Nhà Nước ta thì chương trình cổ phần hoá bao gồm trong nó cả các tổng công ty 90 và tổng công ty 91, gồm 74 tổng công ty 90 và 17 tổng công ty 91 với 1150 doanh nghiệp thành viên, nhưng chúng ta chưa tập chung vào việc cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc 2 loại công ty này, trong năm 2000 số doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 được cổ phần Hoá chỉ chiếm 4%, sốdoanh nghiệp phải giải thể phá sản chiếm 0.3%.
Từ thực trạng của công tác cổ phần hoá các DNNN ở nước ta qua các giai đoạn tiến hành nhìn chung tiến trình cổ phần hoá của ta là quá chậm. Có những giai doạn tăng trưởng tưởng chừng như tốc độ cổ phần hoá đang tăng lên và cứ theo đà đó thì nước ta có thể sớm hoàn thành việc sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà Nước. Nhưng sang đến năm 2000 và 5 tháng đầu năm 2001 tốc độ này lại giảm xuống nghiêm trọng. Vậy ta thử tìm nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu.
III. Nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam.
1. Những vướng mắc trong nhận thức tư tưởng.
1.1 Các cán bộ quản lý luôn có tâm lý lo sợ về tương lai phát triển đất nước
Cụ thể là:
Chệch hướng XHCN.
Tụt hậu so với sự phát triển chung.
Tệ nận tham nhũng của một số cán bộ quản lý.
Vì thế các cán bộ cao cấp còn rất rè rặt trong việc chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Cũng chính vì tệ nạn tham nhũng đang phát triển tương đối rộng khắpnên các nhà lãnh đạo muốn giữ “ thế thủ”, họ không hăng hái trong công tác này, theo họ thì cổ phần hoá sẽ làm nền kinh tế bị chệch hướng XHCN nhưng cũng có thể do họ biết rằng khi chuyển sang công ty cổ phần thì họ sẽ không thể thu lợi nhiều cho bản thân.
Đối với cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp.
Những người này đều do Nhà Nước bổ nhiệm, do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần thì họ đều lo rằng sau khi cổ phần hoá thì mình có còn “ chỗ ngồi” hay không , họ phải đối phó với nguy cơ không giữ được cương vị lãnh đạo trước đại hội đồng cổ đông vì thế họ không hề muốn doanh nghiệp mình được cổ phần hoá.
1.2 Đối với người lao động.
Do chưa nhận thức đầy đủ lợi ích của cổ phần hoá nên họ e ngại sau khi
Cổ phần hoá họ sẽ mất việc làm, hoặc nếu không mất việc làm thì lương sẽ thấp đi, bên cạnh đó là tâm lý an phận, không muốn sự thay đổi nên họ không “ mặn mà” lắm với cổ phần hoá.
2. Cơ chế chính sách về cổ phần hoá chưa hoàn chỉnh và thống nhất.
Mặc dù Chính Phủ đã ban hành số 44/CP để tạo động lực thúc đẩy cổ phần hoá bằng khuyến khích rõ rệt hơn nhưng quá trình triển khai trong thực tế lại nảy sinh những vấn đề mới:
2.1 Định giá tài sản.
Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp chưa thống nhất và nó đang là một vấn đề nan giải, chưa có một định hướng rõ nét căn bản, mọi phương pháp định giá chỉ mang tính tạm thời. Tài sản của doanh nghiệp được mua sắm vào những thời gian khác nhau với trình độ công nghệ và giá cả khác nhau, vì thế mức độ sử dụng trong sản xuất cũng khác nhau, không những thế ở nhiều doanh nghiệp sổ sách kế toán không đầy đủ và rõ ràng, vì vậy khi nmuốn định giá tài sản họ cũng không có thông tinthị trường để định giá. Vì thế thời gian xác định giá trị dioanh nghiệp thường kéo dài và có sự khác biệt ý kiến giữa thành viên của hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp và đại diện của doanh nghiệp dẫn tới làm chậm tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
2.2 Chính sách ưu đãi đối với người lao động.
Các chính sách ưu đãi đối với người lao động khi đưa ra đã nảy sinh những vấn đề chính sách không sát với thực tế.
Ví dụ như tiêu chuẩn xác định lao ddộng nghèo được xác định trong phạm vi cả nướcvới giá ưu đãi nhỏ hơn 30% so với giá bán ra, nhưng lại không tính tới mặt bằng giá sinh hoạt ở các vùng khác nhau là khác nhau, ở nhiều nơi người lao động cũng không thể mua nổi cổ phần ưu đãi vì nó vượt quá khả năng tài chính thực tế của họ, vì thế việc bán cổ phần sẽ gặp nhiều khó khăn làm cho tiến độ sẽ bị chậm lại.
Ngoài ra, việc quy định các cán bộ không được mua cổ phần quá mức bình quânchung của người lao động nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong doanh nghiệp cũng làm giảm lòng tin của người lao động vào chủ trương cổ phần hoá ( vì khi cán bộ lãnh đạo không “ dám” mau nhiều cổ phần thì người lao động dù có vốn cũng không dám mua vì họ e ngại rằng việc cổ phần hoá là không đáng tin cậy)
2.3 Tính bắt buộc trong công tác cổ phần hoá.
Việc để các doanh nghiệp tự nguyện tiến hành cổ phần hoá cũng sẽ làm tiến trình cổ phần hoá vì các cán bộ lãnh đạo cũng như người lao động trongdoanh nghiệp lo sợ rằng sau khi cổ phần hoá thì quyền lợi của họ sẽ bị giảm đi làm cho sự mong muốn cổ phần hoá bị giảm theo vì thế nếu trông vào sự tự giác của họ thì rât khó đạt được kết quả mong muốn, Nhà Nước cần có chính sách để buộc một số DNNN phải tiến hành cổ phần hoá.
3. Những khó khăn liên quan đến tổ chức quá trình cổ phần hoá.
Nhà Nước chỉ chủ trương cổ phần hoá một số DNNN và vẫn giữ lại các DNNN khác. Việc lựa chọn DNNN để chuyển thành công ty cổ phần được thực hiện trên cơ sở phương án sắp xếp lại đổi mới quản lý DNNN. Trong thực tế việc doanh nghiệp tự nguyện đăng kí cổ phần hoá sẽ dẫn tới sự chậm chễ vì doanh nghiệp có tư tưởng chờ đợi, còn việc cơ quan chủ quản ra quyết định buộc doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá thì vấp phải sự phản ứng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp chưa quyết tâm và chưa có ý định cổ phần hoá.
Mặt khác, tại doanh nghiệp cán bộ quản lý cùng lúc phải thực hiện 2 công việc: duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện công việc liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp. Trong khi sự giúp đỡ của các cơ quan quản lý hữu quan chưa thường xuyên và chưa chặt chẽ.
4. Những khó khăn trong kĩ thuật soạn thảo hồ sơ cổ phần hoá.
Trong hồ sơ chuyển DNNN thành công ty cổ phần gồm có: phương án kinh doanh và điều lệ công ty cổ phần. Việc soạn thảo phương án kinh doanh sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp và điều lệ công ty( về tổ chức và hoạt động) được coi là quan trọng bậc nhất. Những tài liệu này quy định những nội dung cơ bản về đường lối, phương hướng phát triển, tổ chức và hoạt động của công ty trong tương laiviệc xây dựng phương án kinh doanh cho một vài năm trước mắt ( sau cổ phần hoá) gặp rât snhiều khó khăn do thiếu những thông tin dự báo cần thiết vì thế nó được soạn thảo rất sơ sài và ít có giá trị thực tế.
Kể từ 1/1/2000 Luật doanh nghiệp bắt đầu có hiệu lực, trong đó có những điều khoản quy định về tổ chức hoạt động của công ty cổ phần, vì thế các công ty cổ phần sẽ phải chỉnh lý lại bản điều lệ mẫu cho phù hợp với Luật doanh nghiệp. Sự ra đời chậm chễ của Luật doanh nghiệp cũng có thể gây nên những khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá.
5.Thị trường Chứng Khoán hoạt động chưa có hiệu quả.
Việc ra đời của Thị trường Chứng Khoán đánh đấu một bước phát triển mới của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta, tạo ra một kênh huy độnh vốn cho sự phát triển nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.
Qua các phiên giao dịch chứng khoán ta thấy một số khó khăn:
Số lượng cổ phiếu bán ra ít trong khi yêu cầu về số lượng cổ phiếu cần mua vào thì nhiều.
Giá cổ phiếu bị hạn chế ở mức trần.
Số công ty tham gia niêm yết cổ phiếu ít.
Đến nay mới chỉ có 7 công ty cổ phần tham gia niêm yết cổ phiếu trên Thị trường Chứng Khoán như vậy là quá ít. Chính vì hiểu biết của nhà đầu tư còn thấp cộng với yếu tố tâm lý “ chờ xem” làm cho hiệu quả hoạt động của Thị trường Chứng khoán thấp, nên không thúc đẩy được tiến độ cổ phần hoá nhanh lên. Vì nếu tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp mình họ sợ không bán được cổ phần, các nhà đầu tư thì e ngại rằng vốn của họ sẽ “chết” cùng với doanh nghiệp. Mà nếu tiến đọ cổ phần hoá diễn ra chậm thì trên Thị trường Chứng Khoán sẽ càng ít hành hoá từ đó “vòng luẩn quẩn” sẽ lặp lại và tiến trình cổ phần hoá sẽ vẫn diễn ra chậm chạp.
Ngoài những nguyên nhân trên, thì thói quen giữ tiền chứ không hùn vốn để kinh doanh của người dân, hay việc chuyển DNNN( thường là các doanh nghiệp đang kinh doanh thua lỗ) thành công ty cổ phần sẽ gây tâm lý không tốt đối với người dân cũng làm chậm tiến trình cổ phần hóa.
Trên cơ sở xem xét những nguyên nhân vì sao tiến trình cổ phần hoá lại diễn ra chậm từ đó có thể đưa ra các giải pháp khắc phục những kghó khăn đó để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các DNNN, hoàn thành kế hoạch đổi mới và sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà Nước.
Phần iii: một số giải pháp và kiến nghị Nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ Phần hoá các dnnn ở nước ta
I.Giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá một số DNNN ở nước ta.
Dựa trên đề án tổng thể sắp xếp các DNNN trong thời gian tới được trình Thủ tướng Chính Phủ xem xét phê duyệt ta thấy số doanh nghiệp cần được đổi mới trong thời gian tới:
2001
2002
Tổng
2003-2005
Tổng số
733
749
1482
1000
1. Theo quy mô doanh nghiệp
- > 10 tỉ
68
94
162
100
- 1 - 10 tỉ
415
366
781
900
- < 1tỉ
250
289
539
-
2. Theo hình thức sắp xếp.
- Sát nhập, hợp nhất
107
9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72430.DOC