MỤC LỤC
I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT: 3
1. Lý thuyết của C.Mác về lãi suất: 3
1.1. lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa 3
1.2. lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa (XHCN) 3
2. lý thuyết của J.M. keynes về lãi suất: 4
1.3. lý thuyết của trường phái trọng tiền về lãi suất: 4
II. TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA LÃI SUẤT VÀ CÁC YẾU TỐ KHÁC TRONG NỀN KINH TẾ TRONG NĂM 2010: 5
1. Mức cung tiền tệ: 5
2. Lạm phát: 6
3. Tỷ giá hối đoái 7
4. Sự ổn định của nền kinh tế 9
5. Các chính sách của nhà nước 10
6. Hoạt động thu chi của nhà nước 12
III. DỰ BÁO TÌNH HÌNH LÃI SUẤT 2011 VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM: 13
1. Dự báo tình hình lãi suất năm 2011: 13
2. Bài học cho Việt Nam: 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 16
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2383 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số vấn đề cơ bản về chính sách lãi suất và diễn biến của nó trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều hành chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Trung Ương mỗi nước.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được ấn định trên thị trường, không được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá.
Lãi suất thực là lãi suất được điều chỉnh đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn về chi phí thật của việc vay tiền. Trong đó, lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực cộng với mức lạm phát dự tính.
Lãi suất hoàn vốn: Là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Đây là phép đo được các nhà kinh tế coi là phép đo lãi suất chính xác nhất.
Lãi suất tái chiết khấu: là hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng.
Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất được nhà nước áp dụng khi tái chiết khấu.
Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc cho vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ chính xác hơn về chi phí vốn vay của ngân hàng và cung cấp vốn trên thị trường.
TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA LÃI SUẤT VÀ CÁC YẾU TỐ KHÁC TRONG NỀN KINH TẾ TRONG NĂM 2010:
Mức cung tiền tệ:
Tình hình biến động cung cầu tiền tệ và lãi suất ngân hàng ngày càng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp, ngân hàng, chứng khoán và cả đời sống của người dân. Dự báo chính xác tình hình biến động về tiền tệ và có những giải pháp ứng phó kịp thời sẽ giúp cho mỗi chủ thể kinh tế tránh được những rủi ro do sự biên động của tiền tệ gây ra.
Trong những tháng vừa qua thì quý I và quý IV là thời điểm mà nhu cầu về tiền cho mua sắm hàng hóa, thanh toán tiền, thanh toán các khoản vay đến hạn tăng cao… làm đường cầu tiền dịch chuyển về phía phải.
Do lo ngại về tình hình lạm phát nên Ngân hàng nhà nước (NHNN) vẫn áp dụng
Biểu đồ 1: đường cung và cầu trên thị trường
chính sách tiền tệ thắc chặt dẫn tới cung tiền bị thu hẹp(đường cung dich chuyển về phía trái). Mặc khác, về phía ngân hàng thì áp lực tăng vốn điều lệ (tối thiểu là 3000 tỷ đồng) và tỷ lệ cấp tín dụng của nguồn vốn huy động (đối với ngân hàng 80%; đối với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là 85%) cho phù hợp với thông tư 13 đã ban hành, tuy nhiên với thông tin không chính thức thì chính phủ đã chấp thuận yêu cầu của Ngân hàng nhà nước gia hạn thêm thời gian tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng thay vì hạn chót là 31/12/2010 thì đã được nâng lên thêm 6 tháng nữa. Tại vì cho đến nay có khoản 9/23 ngân hàng cổ phần chưa đáp ứng đủ mức vốn điều lệ theo nghị định 141 của chính phủ.
Tất cả những điều đó làm cho lãi suất tăng lên
Qua khảo sát của Cục Thống Kê thì CPI 9 tháng đầu năm tăng nhẹ, vì thế nên NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng cung tiền mạnh hơn.
.
Biểu đồ 2: Chỉ số giá tiêu dùng trong 8 tháng qua. Số liệu: GSO. Nguồn vnexpress
CPI của tháng 7 được công bố tăng 0,06%, NHNN đã cung ứng cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để cho vay khu vực nông thôn, với tổng tiền cung ứng lúc này là 10.000 tỷ đồng. Như phân tích trên trong quý I và IV nhu cầu tiền là cao nhất, đặc biệt trong quý IV vừa rồi thì giáo dục là nhóm có mức nhu cầu cao nhất (tháng 9 CPI 12%) là nguyên nhân chủ yếu tác động đến đà tăng giá chung.
Lạm phát:
Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI)- biểu hiện chủ yếu nhất của lạm phát, sau 11 tháng ( tức tháng 11 năm nay so với tháng 12 năm trước) đã ở mức 9,58%, gần như chắc chắn cả năm sẽ lên đến 2 con số.
Lạm phát do nhiều nguyên nhân nhưng gắn chặc với lạm phát là lãi suất, lạm phát cao thì lãi suất không thể thấp được. Nhớ lại năm 2008, lạm phát lên 18%, có lúc lên đến 23% thì lãi suất không thể thấp dưới mức đó được, hiện tại bây giờ lạm phát đã ở mức 2 con số thì lãi suất đầu vào cũng không thể dưới 2 con số được từ tình hình đất nước hiện nay thì biện pháp chủ yếu nhất để kiềm chế lạm phát vẫn là tăng lãi suất tiết kiệm. Tăng lãi suât tiết kiệm sẽ làm cho một lượng tiền không nhỏ từ lưu thông được hút vào ngân hàng. Cùng với việc tăng lãi suất tiết kiệm thì lãi suất cho vay cũng sẽ tăng cao, lãi suất cho vay tăng cao sẽ tác động cả về hai phía: phía người đi vay sẽ không còn mặn mà với việc đi vay; phía ngân hàng cũng sẽ e ngại do sợ rủi ro, không dam cấp tín dụng quá đà, tất nhiên nếu tăng lãi suất kéo dài là điều không hợp lý, vì nếu kéo dài thì bản thân các ngân hàng cũng không chịu đựng được, đó là bước “cực chẵng đã” trong khó khăn.
Cách đây khoản 4-5 tháng, NHNN vừa chỉ đạo các NHTM phải giảm lãi suất, tức là làm tăng tín dụng, tăng cung tiền, đẩy lạm phát tăng. Nghĩa là, NHNN “quăng ngòi lửa, đốt lên ngòi lạm phát”.
Chính vì lo sợ lạm phát cho nên lãi suất không thể hạ xuống được, chính vì vậy nên ngày 13/12/2010 hiệp hội các ngân hàng đã thống nhất lãi suất huy động VND trên biểu niêm yết chính thức tối đa là 14%/năm, lãi suất qua các chương trình tặng thưởng là 15%/năm.
Và minh chứng cụ thể là với chương trình huy động “3 ngày vàng” mà Techcombank Phú Mỹ Hưng áp dụng với mức lãi suất cao nhất là 17%/năm đã bị hiệp hội ngân hàng cảnh cáo và đang chờ xử lý của NHNN. Vì với lãi suât huy động cao như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến thị trường lãi suất gây mất ổn định thị trường tài chính, tiền tệ và niền tin của người dân vào đồng tiền bị lung lay và giảm đáng kể.
Theo như cam kết thì nhiều ngân đã đồng loạt giảm lãi suất huy động như Ngân hàng ACB áp dụng mức lãi suất cao nhất 14%/năm( kể cả khuyến mãi bằng hiện kim lên đến 1,2%/năm cho chương trình “Xuân phát tài”) hiệu lực ngày 15/12/2010, đối với tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng lĩnh lãi cuối kỳ từ 15,5%/năm xuống còn 14%/năm, tuy nhiên vẫn giữ nguyên lãi suất kỳ hạn 13 tháng cuối kỳ là 15,5%/năm áp dụng cho mức tổi thiểu là 200 tỷ đồng.
Trong khi đó, Sacombank áp dụng biểu lãi suất mới tại khu vực TP. Hà Nội từ 7h30 ngày 14/12, mức lãi suất cao nhất 14%/năm áp dụng cho kỳ hạn 01,02, và 03 tháng trả lãi cuồi kỳ; các kỳ hạn khác giao động quanh mức 13,8%/năm. Tại Vietcombank, mức lãi suất 14%/năm áp dụng cho tiền gửi VND kỳ hạn từ 01-03 tháng, kỳ hạn khác áp dụng mức chung 12%/năm, kỳ hạn 14 ngày đối với tiền gửi tiết kiệm là 8%/năm…
Tỷ giá hối đoái
Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của ngoại tệ. Trong năm 2010 lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam là cao so với các nước trên thế giới cho nên trong thời gian qua lượng đầu tư vào nước ta khá lớn
Ở nước ta, hiện có hai tỷ giá ngoại tệ: tỷ giá chính thức do NHNN công bố được các NHTM áp dụng với biên độ hiện nay là +/-3% (trong năm 2009 là +/-5%) và tỷ giá trên thị trường (chợ đen). Và nước ta đã tồn tại song song chế độ “hai tỷ giá” khá lâu, tỷ giá trên thị trường tự do khoản 21000 VND/USD nhưng theo NHNN đưa ra chỉ có 19500 VND/USD điều nay gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu vì trong khi nhu cầu tiền USD để thanh toán cuối năm tăng mà doanh nghiệp phải vay ngay USD trên thị trường tự do với tỷ giá 21 000 VND/USD chênh lệch với giá ngân hàng xấp xỉ 1500 đồng /USD, như vậy cứ vây 1 triệu USD chiếu theo tỷ giá ngân hàng thì doanh nghiệp lỗ khoản 1,5 tỉ VND.
Biểu đồ 3: Diễn biến tỷ giá hạch toán ngoại tệ cả năm 2010Đơn vị: VND/USD
Khi người dân và doanh nghiệp luôn kỳ vọng VND mất giá, sẽ làm giảm niềm tin của người dân vào điều hành chính sách tài chính – tiền tệ của Chính phủ, NHNN, tiếp tục gây ra những bất ổn trên thị trường. Điều này đã và đang xảy ra trong dân chúng. Khi tỷ giá trên thị trường tự do biến động tăng, người dân nghĩ ngay đến việc NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá theo hướng VND giảm giá. Khi giảm giá VND thì giá một số hàng hóa dịch vụ tăng, lãi suất cho vay và huy động cũng bị đẩy lên cao, các giao dịch ngắn hạn trở nên phổ biến hơn lúc nào hết (gửi tiền cũng chỉ chấp nhận kỳ hạn ngắn từ tuần, đến tháng; nếu có kỳ hạn 6 tháng hay 1 năm thì các ngân hàng thương mại lại áp dụng theo kiểu “rút ra trước hạn ở thời điểm nào thì sẽ được lãi suất ở kỳ hạn đó”. Nếu vẫn cứ cách hành xử này, VND luôn đặt trong xu thế điều chỉnh giảm. Điều này rất bất ổn trong trung hạn. Chúng ta nên chấp nhận bằng cách trong ngắn hạn cần chấp nhận một tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn hiện tại (trên dưới 5%), duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp (trên dưới 6%), đồng thới với nó là các biện pháp nâng giá tiền đồng, tạo một sự thay đổi từ nhận thức của người dân. Việc làm này sẽ tạo một yếu tố tâm lý rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh niềm tin của người dân bị suy giảm về sự không ổn định sức mua của tiền đồng, họ có tiền nhàn rỗi sẽ nhanh chóng chuyển sang vàng và ngoại tệ để nắm giữ…
Sự ổn định của nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đã tiến một bước dài thoát khỏi tình trạng suy thoái có xuất phát từ cuối năm 2007 và kéo dài tới đầu năm 2009. Không thể phủ nhận sự đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của các nỗ lực kích thích kinh tế của Chính phủ, mà được nhắc đến nhiều nhất là gói kích thích kinh tế lên tới 8 tỷ USD.
Tuy vậy, 1 năm sau những hân hoan về thành tích thoát khỏi khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn. Trong con mắt của giới nghiên cứu, tiền rẻ là chiếc kẹo ngọt mang lại tăng trưởng, nhưng đồng thời cũng là tác nhân làm nền kinh tế của chúng ta bị "sâu răng". Năm 2010, tốc độ tăng trưởng cả năm có thể đạt gần 7%, tốt hơn so với mục tiêu đầu năm là 6,5%. Mục tiêu là giảm lạm phát ở mức không quá 8% , nhưng tính đến hết tháng 11 chỉ số giá (CPI) tăng 9,58% so với đầu năm và tăng 11,09% so với cùng kỳ năm ngoái. Song hành với sức ép lạm phát là mặt bằng lãi suất cao. Vào tháng 11 vừa qua lãi suất cho vay thương mại là 15- 18%, lãi suất tiền gửi là 13 -13,5%, thậm chí kỳ hạn 1 tháng lên đến 16% sau khi việc thả nổi lãi suất được thực hiện.
Trong bối cảnh hiện tại, mặt bằng lãi suất cao là khó tránh khỏi, do lạm phát cao và Chính phủ tiếp tục ưu tiên thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Điểm đáng lưu ý ở đây là lãi suất cao được nhìn nhận là rủi ro thanh khoản ngắn hạn, thể hiện ở lãi suất liên ngân hàng tăng. Dù cuối tháng 11, lãi suất này đã giảm, nhưng với việc tỷ suất lợi tức trái phiếu các kỳ hạn tăng và chưa có dấu hiện thể hiện giảm nên rủi ro ngắn hạn có thể trở thành rủi ro kinh tế mang tính hệ thống.
Mặt bằng lãi suất cao sẽ dẫn tới tăng trưởng tín dụng tự nguyện giảm sút do các ngân hàng không dám cho vay ra nền kinh tế, bởi điều này là quá rủi ro (chủ yếu các doanh nghiệp rủi ro vay vốn, bởi chỉ có thực hiện các dự án rủi ro cao mới kỳ vọng mang lại lợi nhuận đủ lớn để hoàn trả món vay). Mặt khác, đối với các DN tốt, kinh doanh an toàn hoặc đều đặn hơn, do phải chịu chi phí vay vốn quá cao sẽ hạn chế hoạt động vay vốn, hoặc giảm hoặc đóng cửa kinh doanh. Điều này đồng nghĩa với việc tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ giảm sút.
Các lý thuyết kinh tế tài chính thường cho rằng, chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ giúp kiềm chế lạm phát, nhưng điều này không hoàn toàn như vậy trong điều kiện mặt bằng lãi suất cao.
Trong thực tế Việt Nam hiện tại, nếu lạm phát cao được kiềm chế bằng chính sách tiền tệ thắt chặt kéo dài sẽ dẫn tới hệ quả là sản xuất trong nước gặp khó khăn, nghĩa là các công cụ chống lạm phát thực tế lại tạo ra lạm phát ở chu kỳ mới. Nói cách khác, đó là dấu hiệu của lạm phát đình đốn.
Việc duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt trong điều kiện hiện tại là một lựa chọn đúng, nhưng có thể tạo ra sự trả giá lớn hơn nếu lạm phát đình đốn trở thành sự thật.
Điều này không mâu thuẫn với quan điểm "tiền rẻ" là nguyên nhân tạo ra lạm phát, bởi vì tiền rẻ trong điều kiện mặt bằng lãi suất thấp sẽ càng khuyến khích những sự đầu tư không hiệu quả và đẩy mức giá cả chung trong nền kinh tế tăng cao hơn bình thường.
Và tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) cho Việt Nam 2010 vừa khai mạc ngày 07/12/2010, ở đây thì các chuyên gia kinh tế tham dự Hội nghị cũng cảnh báo một số rủi ro của kinh tế vĩ mô là lạm phát đã tăng mạnh từ tháng 9.2010 trở lại đây, và dự báo có thể vượt mức 2 con số so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài nguyên nhân giá thực phẩm tăng thì có lý do từ sự mất giá của đồng tiền. Trong khi đó, mức tăng trưởng tín dụng năm nay sẽ vượt 25%. Đây là mức quá cao với nền kinh tế. Thâm hụt tài khoản vãng lai (không tính vàng) dưới 7% GDP cũng là mức cao. Đại diện IMF cho rằng, việc duy trì tăng trưởng thông qua chính sách tín dụng và tài khóa mở rộng sẽ tạo thêm những áp lực đối với ổn định vĩ mô. Đại diện Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam ủng hộ quan điểm coi trọng sự ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ Việt Nam hiện nay.
Đại diện Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cho rằng, nước ta cần tránh bẫy thu nhập trung bình bằng cách sử dụng vốn có hiệu quả, trong đó có đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Trước sự việc của Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin), các nhà tài trợ cho rằng, Chính phủ cần ưu tiên thực hiện cải cách và quản lý, điều hành các doanh nghiệp nhà nước. Yêu cầu đặt ra lúc này là cần chuyên môn hóa các cơ cấu quản lý loại hình doanh nghiệp Nhà nước. Vinashin là một ví dụ cụ thể để Chính phủ nhân cơ hội này giải quyết một cách có hệ thống những nhược điểm trong quản lý các doanh nghiệp Nhà nước.
Các chính sách của nhà nước
Trong các thời điểm khác nhau, NHNN cũng linh hoạt điều chỉnh giảm và tăng các mức lãi suất chủ đạo, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm và tăng lãi suât huy động, cho vay phù hợp với mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và cho vay tín dụng theo hướng nới lỏng một cách thận trọng.
Trong 6 tháng đầu năm thì NHNN liên tiếp có những động thái tích cực:
Ngay từ ngày 26/12/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 7, chính thức quy định về việc cho phép các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay VND theo lãi suất thỏa thuận. Theo đó, các tổ chức tín dụng được cho vay VND theo lãi suất thỏa thuận phù hợp với quy định pháp luật về cho vay, trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay.
Ngày 09/04, NHNN có Công văn số 2651/NHNN-CSTT yêu cầu các NHTM cung cấp mức lãi suất cho vay VND theo cơ chế thỏa thuận tối đa dưới 15%/năm. Khi hiệp hội ngân hàng (VNBA) tổ chức cuộc họp thành viên ở phía Nam và phía Bắc, đại đa số đều nhất trí hưởng ứng chính sách giảm lãi suất của Chính phủ bằng cách tiết giảm chi phí đến mức thấp nhất và đồng thuận giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý. Những hoạt động điều hanh trên đã mang lại những hiệu quả bước đầu tích cực theo nhiều hướng, cả về tăng vốn huy động và cho vay, cũng như cân đối cung cầu, lành mạnh và minh bạch hóa thị trường tài chính, nhất là giảm dần lãi suất cho vay.
Từ ngày 13 - 16/4, thị trường dồn dập đón tin các ngân hàng thương mại công bố biểu lãi suất huy động mới. Hiện hầu hết các thành viên trong hệ thống đều đã có điều chỉnh. Lãi suất huy động VND ở nhiều kỳ hạn đã lên trên 11%/năm, mức cao nhất có ở Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank) với 11,99%/năm (cụ thể, kỳ hạn một tháng là 11,5% một năm; 2 tháng là 11,7% một năm; 3 tháng, 6 tháng, 7 tháng, 9 tháng và 12 tháng là 11,99% một năm). Sau Habubank, Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) cũng trở thành thành viên có mức lãi suất huy động VND hấp dẫn với quyết định điều chỉnh lãi suất ở hai sản phẩm tiết kiệm bậc thang và tiết kiệm rút gốc linh hoạt. Với sản phẩm tiết kiệm bậc thang, lãi suất ở tất cả các kỳ hạn đều được SHB điều chỉnh tăng mạnh từ 0,5% - 1,5%/năm; mức lãi suất tiết kiệm bậc thang cao nhất lên tới 11,99%/năm ở các kỳ hạn từ 3 tháng trở lên. Bên cạnh đó, SHB cũng điều chỉnh lãi suất tiết kiệm rút gốc linh hoạt với lãi suất cao nhất đạt mức 11,80%/năm. Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank) cũng công bố áp biểu lãi suất huy động mới, điều chỉnh cả với VND và USD, cụ thể, với sản phẩm tiết kiệm bậc thang, lãi suất ở tất cả các kỳ hạn của LienVietBank đều được điều chỉnh tăng. Mức lãi suất tiết kiệm bậc thang và tiết kiệm bậc thang linh hoạt cao nhất lên tới 11,70%/năm đối với VND và đối với USD tương ứng là 4,11%/năm và 4,09%/năm. LienVietBank cũng điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi bằng VND và USD cho khách hàng doanh nghiệp và tổ chức. Đối với sản phẩm rút gốc linh hoạt, lãi suất kỳ hạn cao nhất lên đến 10,33%/năm; lãi suất huy động tiền gửi kỳ hạn và lãi suất theo sản phẩm tiền gửi bậc thang doanh nghiệp cao nhất lên đến 11,48%/năm.
Thế nhưng, trong những tháng cuối năm dường như chính phủ đã không làm tốt việc điều hành kinh tế vĩ mô. Khi nhìn thoáng qua tình hình kinh tế của nước ta trong tình trạng hiện nay thì diễn biến của nó khá giống với một giai đoạn trong năm 2008, giai đoạn mà ngân hàng thiếu tính thanh khoản, nên lãi suất liên ngân hàng, lãi suất huy động tăng rất nhanh, một số ngân hàng nhỏ lầm vào tình trạng khó khăn về tiền mặt.
Với những động thái tích cực từ các cơ quan quản lý và từ những tín hiệu tốt của nền kinh tế, tỷ giá USD trên thị trường những ngày gần đây đã có dấu hiệu hạ nhiệt; lãi suất tiết kiệm cũng được đưa vào “khuôn khổ” nhưng thực tế đây vẫn chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Theo như NHNN quy định thì lãi suất huy động không được vượt quá 14%/năm nhưng trên thị trường lãi suất thực hiện tại lên đến 16%/năm.
Nếu như chính sách hai tỷ giá đã tồn tại một thời gian dài mà chưa khắc phục được thì “cơ chế” hai lãi suất mới xuất hiện cũng đã làm méo mó thị trường. Hiện tượng tăng lãi suất theo dây chuyền những ngày qua rồi âm thầm rút vào bí mật của những ngân hàng nhỏ đã khiến cả hệ thống ngân hàng phải lao theo và hệ quả của nó để lại sẽ không phải nhỏ. Phó tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần đang lo lắng phải khi “làm đẹp” sổ sách một cách hợp lý sau khi chạy theo cuộc đua hai lãi suất, theo ông, khoản chênh 2% (niêm yết 14% nhưng thực tế huy động 16%) so với bảng niêm yết thì theo pháp lý còn “nhét” được vào khuyến mại chứ cao hơn thì quả là nan giải.
Tuy nhiên, bất kể thế nào, bằng nghiệp vụ, ngân hàng cũng phải lo cho bằng được bởi nếu không sẽ mất khách hàng. Chính tình trạng hai lãi suất đã dẫn đến hiện tượng “mặc cả” lãi suất giữa người gửi tiền và ngân hàng, hệ quả là DN và những người có nhu cầu vay vốn ngân hàng phải chịu lãi suất đi vay quá cao do phải gánh cả những chi phí và lãi suất huy động “ngầm” mà ngân hàng đã thực hiện.
Trong những tháng đầu năm 2011 tiếp theo thì NHNN cần mạnh dạn giảm bớt can thiệp mang tính hành chính, đồng thời nâng cao chỉ đạo và kiểm soát vĩ mô trong hoạt động quản lý đối với khu vực ngân hàng, nhất là thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, như thị trường mở, lãi suất chiết khấu, dự trữ bắt buộc và các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát từ xa để điều tiết thị trường và hướng thị trường đến lãi suất mục tiêu. Bên cạnh đó NHNN cần cân nhắc đầy đủ tính 2 mặt của quản lý theo trần lãi suất ngân hàng. Ngoài ra, đế sớm hoàn thiện cơ chế thị trường trong khu vực ngân hàng, trong đó có quản lý lãi suất và cần sớm có sự hoàn thiện về pháp luật cho hoạt động này.
Thực tế cho thấy, việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận, việc linh hoạt điều chỉnh trần lãi suất huy động (LSHĐ) sẽ có những tác động tích cực đến thị trường tài chính - ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung, nhất là: (1) Tạo thuận lợi cho việc tăng huy động vốn cho đầu tư xã hội thông qua hệ thống ngân hàng và nâng cao vị thế ngân hàng trong nền kinh tế; (2) gia tăng tính minh bạch và tính thị trường trong huy động và cho vay vốn ngân hàng, cũng như trong quản lý nhà nước, gỡ bỏ hoặc giảm thiểu những tắc nghẽn, biến tướng và bất bình thường các hiện tượng nói dối, sai lệch sổ sách kế toán và tham nhũng dưới mọi hình thức liên quan đến lãi suất; đồng thời, nó cũng thúc đẩy cạnh tranh thị trường và cho phép các ngân hàng mạnh và năng động triển khai các kế hoạch kinh doanh có hiệu quả, từ đó có thêm cơ hội gia tăng mức độ chuẩn hoá và sức cạnh tranh của mình trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập tài chính ngày càng đầy đủ hơn. Đặc biệt, bỏ trần LSHĐ sẽ giúp các cơ quan quản lý có thông tin về các động thái, diễn biến của thị trường chính xác, minh bạch, rõ ràng hơn và ra các quyết định quản lý thích hợp, hiệu quả hơn. Cơ chế thị trường sẽ sớm xác lập và hoàn thiện hơn, do đó tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; (3) gia tăng cơ hội và lợi ích cho doanh nghiệp trong tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và trong đầu tư xã hội.
Hoạt động thu chi của nhà nước
Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối với ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách Nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ sẽ dẫn đến lãi suất tăng.
Trong những năm vừa qua, chúng ta có thể thấy rất nhiều khoản chi tiêu của chính phủ khong hợp lý cho lắm. Như lời của ông Trần Xuân Giá nói “căn bệnh của lạm phát, muốn giải quyết căn rễ thì mình thu được bao nhiêu thì chỉ nên chi tiêu từng ấy thôi, đừng có tiêu hơn”. Vấn đề này là căn bệnh đã tồn tại ở nước ta hàng chục năm nay, năm nào cũng ngất ngưởng. Năm ngoái, thâm hụt ngân sách lên tới 6% hay 7%, nhưng các tổ chức quốc tế cho là trên 10%. Đấy là điều không thể chấp nhận được, một nước nghèo như nước ta mà chi tiêu lại quá nhiều.. như nhiều người vẫn nói: muốn giàu thì phải tiết kiệm, nhưng chính phủ lại bỏ tiền vào nhiều dự án mà không thẩm định kỹ như Vinashin, bô-xit Tây Nguyên hay đường cao tốc, nói như vậy để thấy được khát vọng tiêu tiền cháy bỏng của nhà nước ta như thế nào. Và đằng sau khát vọng tiêu tiền ấy là nguyên nhân sâu xa thúc đẩy tăng tín dụng, tăng tiền trong nền kinh tế.
Nguyên nhân sâu nhất làm lãi suất tăng cao là hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước kém. Đáng lẽ chi ra 4 đồng thì tạo được 1 đồng tăng trưởng. Còn nước mình thì phải chi 8 đồng mới được 1 đồng tăng trưởng. Nền kinh tế hiệu quả kém, chủ yếu là do khu vực đầu tư nhà nước, khu vực công. Chẳng hạn như Vinashin, nhà nước vẫn tiếp tục bơm tiền cho tập đoàn đó.
Để bù đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu. Như vậy lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp và đây cũng là một yêu tố tác động làm tăng lãi suất. Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các định chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người dân dự đoán lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ, dẫn tới việc găm tiền lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một cách tương ứng và lãi suất tăng lên
DỰ BÁO TÌNH HÌNH LÃI SUẤT 2011 VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM:
Dự báo tình hình lãi suất năm 2011:
6 tháng trước Chính phủ và NHNN kêu gọi phải hạ lãi suất, nhưng trên thực tế việc hạ lãi suất đã không như mong muốn. Trong lúc nhu cầu về vốn tăng cao về cuối năm chẳng hạn như trả lương, trả thưởng, nhu cầu về tiền cao, lạm phát không kiểm soát được thì phải nâng lãi suất. Đây là điều đúng, không sai. Nếu lãi suất không cao, mới là điều thực sự lo lắng. Nâng lãi suất là điều buộc phải làm của chính phủ để thắt chặt chính sách tiền tệ.
Trong những ngày vừa qua của tháng 12 này ta cũng đã chứng kiến cuộc đua lãi suất của các ngân hàng, mặc dù lãi suất tăng nhưng vốn từ tay người dân không đỗ vào ngân hàng mà vốn chỉ luẩn quẩn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, bên cạnh đó nhiều ngân hàng lớn được NHNN bơm một lượng vốn lớn qua thị trường mở đã mang đi gửi ở những ngâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lãi suất và các tác động liên quan.docx