Lãi suất cũng là 1 công cụ khá quan trọng trong công việc thực thi chính sách tiền tệ tại Việt Nam , nó đã phát huy tác dụng rất hiệu quả .
Thực trạng cơ chế điều hành lãi xuất ở nước ta qua các giai đoạn đã chứng tỏ một bước ngoặt lớn lao trong cơ chế điều hành lãi suất, định hướng cho các TCTD ấn định mức kinh doanh. Từ ngày 5/8/2000, đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi xuất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi xuất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ . Về mặt bản chất , cơ chế lãi suất mới này cũng giống cơ chế lãi suất trần, chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các TCTD hình thành lãi suất hoạtđộng cho mình một cách dễ dàng hơn; lãi suất cho vay lại bị khống chế bởi biên độ . Năm 2001, NHNN vẫn tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt, trên cơ sở bám sát diễn biến trên tthị trường quốc tế và mục tiêu chính sách tiền tệ. Điều này hoàn toàn phù hợp với diễn biến lạm phát, tỷ giá, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa lãi xuất VND và ngoại tệ. Trong năm 2001, NHNN đã chủ trương 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản.
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6106 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa với việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá .Bên cạnh đó ,mục tiêu công ăn việc làm cũng mâu thuẫn với mục tiêu ổn định gía .Thất nghiệp và tăng trưởng không có mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài hạn . công ăn việc làm sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại . Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định giá cả tương đối phức tạp : mâu thuẫn trong ngắn hạn nhưng hỗ trợ trong dài hạn.
Như vậy , thực thi chính sách tiền tệ không thể đạt được tất cảc mục tiêu trên trong ngắn hạn : phần lớn các NHTƯ coi ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu trong dài hạn của chính sách tiền tệ.
Hiện thực các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy,vận hành chính sách tiền tệ , để đạt được các mục tiêu của nó cần có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá . Mục tiêu của chính sách tài khoá là điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ , hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng . Điều đó còn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước . Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở quan trọng làm giá trị đồng bản tệ ổn định,ngược lại,sự thiếu hụt ngân sách sẽ gây ra trực tiếp hoặc gián tiếp làm giá trị đồng tiền mất ổn định.
Trong thực tế , chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ có thể làm gia tăng nhu cầu , giảm thất nghiệp nhưng sẽ gia tăng lạm phát . Giải quyết mâu thuẫn này cần có sự phối hợp chặt chẽ của chính sách phân phối thu nhập Trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ , chính sách phân phối thu nhập phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về lương và giá cả. Đối với các nước kém phát triển và đang phát triển,thường bội chi ngân sách lớn và kéo dài , tăng trưởng kinh tế chưa cao…đòi hỏi kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế đối ngoại trong thực thi chính sách tiền tệ.
2.5. Các mục tiêu trung gian:
Bằng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đạt được các mục tiêu cuối cùng ( bao gồm 3 mục tiêu trên) mà phải sau một thời gian nhất định . Để phục vụ cho việc điều chỉnh kịp thời các công cụ trong khoảng thời gian đó , NHTƯ thường đưa ra các mục tiêu cần đạt được trước khi đạt mục tiêu cuối cùng ,đó là các mục tiêu trung gian . Đó phải là các chỉ tiêu có thể đo lường được , NHTƯ có thể kiểm soát được và có mối liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng . Có 2 chỉ tiêu thoả mãn được điều kiện trên đó là chỉ tiêu tổng luợng tiền cung ứng và mức lãi suất thị trường.
2.5.1 .Chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng.
Nó là tổng các phương tiện tiền tệ trong lưu thông , bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM . Có các khối tiền trong lưu thông như sau:
M1: gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng.
M2: gồm M1 cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm , tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng và kỳ phiếu , trái phiếu do NH phát hành.
M3: gồm M2 cộng với các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
Khối tiền tệ L: bao gồm M3 và các giấy tờ có giá trong thanh toán.Trong quá trình cung ứng tiền tệ có bốn tác nhân tham gia , đó là NHTƯ, các NHTM,những người gửi tiền và những người vay tiền từ các ngân hàng trong đó , NHTƯ là cơ quan chính phủ có chức năng bao quát hệ thống hoạt động ngân hàng.Vì vậy, NHTƯ có thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng.
Lượng tiền cung ứng có mối quan hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng.Khi nó tăng sẽ dẫn đến lạm phát , tạo việc làm , kích thích tăng trưởng kinh tế .Và ngược lại , khi nó giảm , sẽ kéo theo chính sách tiền tệ thu hẹp được thực thi,tỷ lệ lạm phát giảm , thất nghiệp gia tăng , kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Tổng lượng tiền cung ứng chịu tác động của ba nhân tố sau:
2.5.1.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên(hay giảm xuống) làm các ngân hàng đó phải thu hồi các khoản vay hoặc bán chứng khoán (hoặc có khả năng mở rộng cho vay) để đáp ứng yêu cầu dự trữ mới . Như vậy làm giảm (hay tăng) lượng tiền trong lưu thông , do đó làm giảm (hoặc tăng) tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
2.5.1.2. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt của công chúng.
Khi tỷ lệ này tăng nghĩa là công chúng có nhu cầu rút tiền mặt trên tài khoản tiền gửi không hạn nhiều hơn , làm giảm khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng. Khi tỷ lệ sử dụng tiền mặt giảm thì khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng nhiều hơn , tổng lượng tiền cung ứng sẽ tăng.
2.5.1.3. Tỷ lệ dự trữ vượt quá của hệ thống NHTM.
Khi tỷ lệ này tăng thì số dự trữ để tạo tiền gửi giảm , như vậy buộc các ngân hàng phải thu hồi các khoản vay hoặc bán bớt chứng khoán, dẫn đến làm giảm tiền gửi và do đó lượng tiền cung ứng giảm .Và ngược lại thì làm lượng tiền cung ứng tăng lên.
2.5.2. Mức lãi suất thị trường: Là giá cả của tín dụng.
Lãi suất được đo lường theo các phương thức tín dụng khác nhau , đó là:
-Với những khoản tín dụng thực hiện theo phương thức vay đơn: người đi vay sẽ hoàn trả cả phần vốn gốc và lãi vào ngày dến hạn trả nợ cho người cho vay.Nó được tính bằng việc lấy số tiền lãi chia cho tổng số vốn vay.Đây là cách tính đơn giản chỉ dung cho các khoản tin dụng ngắn hạn.
Với các khoản tín dụng dài hạn thì dùng lãi suất kép.Đó là lãi suất áp dụng trong trường hợp hết mỗi kỳ hạn của lãi suất,lãi đơn trong kỳ được gộp vào vốn để tính lãi cho kỳ tiếp theo.
- Với những khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ,người ta áp dụng lãi suất hoàn vốn.Đây là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản
tín dụng với giá trị hôm nay của khoản tín dụng dó .
Theo các hình thức tín dụng thì lãi suất dược chia thành bốn loại
Đó là:
- Lãi suất tín dụng thương mại : áp dụng khi các doanh nghiệp cho vaydưới hình thức mua bán chịu .
- Lãi suất tín dụng ngân hàng : áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay ,trong hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng TW cho các NHTM và trong quan hệ giữa các ngân hàng với ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng.
- Lãi suất tín dụng Ngân hàng Nhà nước : áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước đi vay bằng hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu .
- Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ nhu cầu cá nhân .
NHTƯcó thể kiểm soát được lãi suất qua thực thi chính sách tiền tệ dựa trên cơ sở của tác động lan truyền ảnh hưởng từ cung ứng tiền –lãi suất –sản lượng –thu nhập –cầu tiền . Nó tác động đến đầu tư , tổng cầu và do đó làm biến động giá cả và GDP , có nghĩa là ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế , vấn đề lạm phát và do đó là vấn đề việc làm .
Lãi suất đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường . Nó là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế , là công cụ kích thích đầu tư phát triển kinh tế ,là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả ,… đặc biệt , nó còn là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế , nó là công cụ để thực hiên mục tiêu của chính sách tiền tệ . Chính vì vai trò của nó hết sức quan trọng nên khi nghiên cứu về lãi suất , cần phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới nó để sử dụng một cách có hiệu quả nhất . Các nhân tố bao gồm :
2.5.2.1 Cung - cầu quỹ cho vay.
Theo phần khái niệm , lãi suất chính là giá cả cho vay nên nó phụ thuộc vào cung ,cầu quỹ cho vay . Bất kỳ một sự thay đổi nào của cung ,cầu đều tác động đến lãi suất thị trường . Dựa vào nguyên lý này có thể chủ động tác động vào cung , cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất thị trường cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ . Và muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thị trường thì phảt ổn định thị trường vốn .
2.5.2.2 Lạm phát kỳ vọng .
Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên trong khi lãi suất thực là không đổi làm cho lãi suất tăng lên (điều này có được xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa ) . Đồng thời ,khi lạm phát dự tính gia tăng (có nghĩa là giá cả hàng hoá dự tính tăng lên ) như vậy công chúng sẽ dành phần tiết kiệm của mình vào dự trữ hàng hoá . Vì vậy , làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất . Từ đó cho thấy , khi tỷ lệ lạm phát gia tăng (lạm phát dự kiến tăng lên trong một thời kỳ nào đó ) sẽ làm lãi suất có xu hướng tăng lên .
2.5.2.3. Bội chi ngân sách .
Bội chi ngân sách sẽ làm cầu của quỹ cho vay tăng , do đó làm tăng lãi suất . Mặt khác , bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lí công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi suất .
Khi bội chi ngân sách , chính phủ thường cho phát hành trái phiếu làm cung trái phiếu trên thị trường tăng , dẫn đến giá trái phiếu trên thị trường giảm , do đó lãi suất thị trường tăng lên .
Khi bội chi ngân sách xảy ra ,chính phủ cũng thường tăng thuế để bù đắp sự thiếu hụt . Khi thuế tăng sẽ dẫn đến phần tiết kiệm của các cá thể và tổ chức ,các doanh nghiệp sẽ giảm ,do đó lãi suất thị trường tăng lên .
2.5.2.4 Mức độ rủi ro của các công cụ tài chính .
Thường thì mức độ rủi ro của các công cụ tài chính càng lớn thì lãi suất càng tăng .Trong lãi suất có phần bù đắp cho rủi ro của những người cho vay .
Thời hạn của món vay.
Thông thường thời hạn của món vay càng dài thì lãi suất càng cao . Lãi suất chính là chi phí sử dụng vốn , là giá cả của tín dụng (trong trường hợp này giá cả là giá trị sử dụng ) cho nên thời hạn của món vay càng dài thì giá trị sử dụng càng nhiều , chi phí sử dụng vốn càng cao và thời gian càng dài thì xác suất rủi ro càng cao , do vậy lãi suất càng cao .
ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế .
Tình hình tài chính quốc tế có thể tạo ra luồng di chuyển vốn làm tác động đến cung – cầu về vốn ,vì vậy có tác động đến lãi suất . Vì thế , lãi suất trong nước phải có sự điều tiết để phù hợp với tài chính quốc tế để không tạo ra luồng di chuyển vốn ngoài ý muốn (tức là lãi suất trong nước và lãi suất quốc tế phải có sự phù hợp để tránh những ảnh hưởng ngoại lai )
Mặt khác , tâm lý của công chúng về lạm phát , rủi ro và thu nhập cũng ảnh hưởng đến lãi suất .
2.5.2.7 . Những vấn đề kinh tế xã hội khác .
Đó là những việc Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế mới , thiên tai .
Việc lựa chọn mục tiêu trung gian
Theo trên ta đa biết cả hai chỉ tiêu : tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn của mục tiêu trung gian, song vì nếu đạt mục tiêu về tổng lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động về lãi suất và ngược lại , cho nên chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó để làm mục tiêu trung gian mà thôi .
Việc lựa chọn đó tuỳ thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ so với nhu câù hàng hoá . Hiện nay , ngân hàng nhà nước Việt
Nam chọn khối tiền M2 làm chỉ tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ , bởi thực tế thì sự biến động của khối tiền M2 hoàn toàn phù hợp với sự biến động của mức giá và sản lượng trong thập kỉ 90 ; tuy nhiên, chính sách lãi suất ấn định phần nào làm giảm bớt hiệu quả của mục tiêu trung gian này.
Ngoài hai chỉ tiêu trên còn có một số chỉ tiêu cũng có trong danh sách lựa chọn như tổng khối lượng tín dụng , tỷ giá. Song mối quan hệ của chúng với các mục tiêu cuối cùng rất phức tạp và không rõ ràng. Vì thế, nó thường được sử dụng với các mục tiêu khác như tổng lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất.
CHƯƠNG III
CáC CÔNG Cụ CủA CHíNH SáCH TIềN Tệ QuốC GIA Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế, thực hiện nó có tác dụng rất lớn trong việc góp phần kìm chế , đẩy lùi lạm phát , ổn định tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề công ăn việc làm . Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền trong lưu thông , tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh đất nước từng thời kì mà sự điều tiết theo hướng nào là hợp lí , mở rộng tiền tệ hay thắt chặt tiền tệ. Để làm được điều này, NHTƯ phải sử dụng hàng loạt các công cụ như : dự trữ bắt buộc , lãi suất , tỷ giá hối đoái , tái cấp vốn , nghiệp vụ thị trường mở . Trong đó , nghệp vụ thị trường mở có thể coi là công cụ quan trọng nhất trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ.
3.1. Nghiệp vụ thị trường mở.
Đối với bất kì một NHTƯ nào thì việc ổn định giá trị đồng tiền cũng là chức năng quan trọng nhất . Để thực hiện được nó buộc NHTƯ phải điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ , trong đó nghiệp vụ thị trường mở là quan trọng nhất . Bởi lẽ , nó là nhân tố quyết định đầu tiên có thể là thay đổi lãi suất hoặc cơ sở của tiền tệ – nguồn gốc chính làm thay đổi việc cung ứng tiền của NHTƯ thông qua việc mua giấy tờ có giá trên thị trường mở . Việc mua giấy tờ có giá làm tăng cơ sở của tiền tệ và vì thế làm tăng lượng tiền cung ứng , giảm lãi suất ngắn hạn ; ngược lại , bán các giấy tờ có giá sẽ dẫn đến giảm cung ứng tiền , tăng lãi suất ngắn hạn .
Thông thường , các NHTƯ sử dụng nhiều loại giấy tờ có giá để giao dịch như trái phiếu , tín phiếu kho bạc , tín phiếu NHTƯ , chứng chỉ tiền gửi , thương phiếu , hối phiếu , hợp đồng mua lại qua đêm , … Nhưng hay được sử dụng nhất vẫn là các chứng khoán kho bạc bởi vì chúng có tính thanh khoản cao , dễ chuyển đổi trên thị trường và do đó dễ được chấp nhận trong các giao dịch .
Nghiệp vụ thị trường mở có những ưu thế riêng so với các công cụ khác . Đó là :
Thứ nhất , nó phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTƯ , trong đó NHTƯ hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch .
Thứ hai , nó vừa linh hoạt vừa chính xác , có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào . Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ dù ở mức nào đi nữa thì nghiệp vụ thị trường mở vẫn có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán các chứng khoán .
Thứ ba , nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều . Nếu NHTƯ có sai sót gì trong quá trình thực hiện cũng dễ dàng sửa sai ngay tức khắc .
Thứ tư , nó có tính an toàn cao . Giao dịch trên thị trường mở gần như không gặp rủi ro bởi : cơ sở bảo đảm cho các giao dịch đó đều là những giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao , không có rủi ro tài chính .
Thứ năm , nó thực hiện một cáhc nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính . Khi NHTƯ quyết định muốn thay đổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ , chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán trên thị trường tiền tệ và sau đó việc mua bán sẽ được thực hiện ngay .
3.1.1 Thực trạng và cơ chế điều hành nghiệp vụ thị trường mở
Tại các nước phát triển , do đòi hỏi của nền kinh tế và hoạt động của thị trường tiền tệ , nghiệp vụ thị trường mở được giao dịch hàng ngày . Đó là nơi để các NHTM tìm kiếm nguồn vốn bổ sung cho việc thiếu hụt khả năng thanh khoản của mình , cũng là nơi có các NHTM có thể đầu tư vốn tạm thời tồn đọng của mình ( đó là khoản đầu tư đem lại lợi nhuận chắc chắn ). Thông qua hoạt động mua bán ở TTM , NHTƯ điều hành việc cung ứng tiền và lãi suất ngắn hạn một cách chủ động . Khi muốn tăng lượng tiền trong lưu thông thì NHTƯchỉ việc mua các giấy tờ có giá của các TCTD trên thị trường mở , còn muốn giảm lượng tiền trong lưu thồn thì chỉ việc bán các giấy tờ có giá . Muốn tăng tiền tạm thời thì sử dụng phương thức mua có kỳ hạn bằng hợp đồng mua lại của các TCTD , còn muốn giảm thì bán có kỳ hạn . Tất cả những điều đó đều sẽ tác động đến hoạt động tín dụng của ngân hàng và gián tiếp tác động lên thị trường vốn ngắn hạn .
Khi nói đến cơ chế điều hành nghiệp vụ TTM , chúng ta cần xem xét đến các hoạt động của phiên giao dịch và vấn đề liên quan . Trước hết ta cần phải nói đến phạm vi thành viên tham gia . Có ba điều kiện để xem xét phạm vi thành viên , đó là : một là , NHTƯ can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng thì thành viên tham gia các TCTD và các tổ chức khác cả các cá nhân có tiền mặt và tiền gửi – hai là , nếu cơ sở pháp lý cho phép các TCTD hoạt động theo hướng đa năng thì thành viên tham gia chỉ gồm các TCTD – ba là , điều kiện về khả năng truyền tải của hệ thống thanh toán . Tóm lại là các thành viên tham gia thị trường mở trước hết phải là các TCTD có đủ các điều kiện mở tài khoản tiền gửi tại NHTƯ , có hệ thống mạng vi tính kết nối với NHTƯ và phải được NHTƯ cấp giấy công nhận thành viên .
Điều thứ hai cần nói đến là phạm vi hàng hoá được sử dụng giao dịch trên TTM . Theo luật ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì chỉ có các giấy tờ có giá mới được sử dụng trong phiên giao dịch , đó là các tín phiếu kho bạc Nhà nước , tín phiếu ngân hàng Nhà nước , chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ cógiá ngắn hạn khác . Khi điều kiện pháp lí cho phép thì không chỉ dừng lại ở các giấy tờ có giá ngắn hạn mà còn mở rộng sang trung và dài hạn ; tuy nhiên , chúng phải có tính thanh khoản cao .
Thứ ba là giá và lãi suất trên TTM . Giá của các loại giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên TTM là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường , vì vậy mà lãi suất là mục tiêu mà NHTƯ cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu . Lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có giá .
Thứ tư là phương thức giao dịc . Nó thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ TTM mà các công cụ khác không có được .Khi nhận thấy biểu hiện của sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì phương thức mua bán hẳn giấy tờ có giá là hợp lí. Để đảm bảo hạn chế trong cung ứng tiền thì phương thức được áp dụng trên TTM sẽ là mua , bán có kì hạn .
Thứ năm là trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ , đặc biệt là giữa nghiệp vụ TTM với công cụ tái cấp vốn Nó làm ảnh hưởng đến hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở. Việc cho vay tái cấp vốn không được đảm bảo bởi các giấy tờ có giá hoặc được đảm bảo bởi các giâý tờ có giá có giá trị thấp, làm cho mục tiêu kích cầu tín dụng không thực hiện được . Để chống lại ảnh hưởng này, NHTƯ các nước thường áp dụng cơ chế nâng lãi suất ở thị trường vay để kích thích các TCTD ưu tiên bán giấy tờ có giá trị trên TTM . Vấn đề triết khấu giấy tờ có giá được quan tâm .
Thứ sáu là mức độ hoàn thiện công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán phụ trợ . Nó ảnh hưởng đến việc thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên , đăng kí chữ kí điện tử , thông báo mời thầu . . . đến khâu thanh toán chuyển tiền và làm các loại thông báo , báo cáo . Như vậy, trong nghiệp vụ TTM không chỉ phương thức mua bán hẳn mà còn có phương thức giao dịch có kì hạn . Các loại chứng khoán trung và dài hạn có đủ cơ sở tham gia vào nghiệp vụ TTM . Tuy nhiên , trong điều kiện Việt Nam , thị trường chứng khoán còn chưa phát triển , nghiệp vụ TTM cũng đang ở giai đoạn đầu và nền kinh tế còn đang tiềm ẩn nhiều khả năng rủi ro, cho nên các loại chứng khoán trên đã được chấp nhận , nhưng trên thực tế thì ngược lại .
Trong số các loại giấy tờ có giá thì các chứng khoán do kho bạc Nhà nước phát hành luôn là loại chứng khoán được giao dịch chủ yếu ở Việt Nam , chứng khoán Kho bạc cũng đang chiếm ưu thế hơn các loại chứng khoán khác cả về mức độ rủi ro và kích cỡ thị trường .
3.1.2 Sự phát triển nghiệp vụ TTM ở Việt Nam .
Ngày 12-7-2000 , nghiệp vụ TTM do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên . Trong thời gian qua,việc điều hành đã diễn ra theo đúng qui định và luôn bám sát tình hình thực tế diễn biến của thị trường tiền tệ ,nghiệp vụ TTM đã vận hành một cách nhịp nhàng và đạt được những mục tiêu đề ra , có thể nói nghiệp vụ TTM là một trong hai sự kiện nổi bật nhất trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2000 được công bố lần đầu vào 5/8/2000. Nó đã tác động nhất định tới vốn khả dụng của các TCTD tham gia thị trường , đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn , lãi suất tín dụng ; chỉ duy nhất có 4 phiên đầu tiên là áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng .
Đầu năm 20001 tiến hành giao dịch thường xuyên hàng tuần .Từ
10/1/2001đến 15/2/2001 , NHNH tiếp tục tiến hành mua vào giấy tờ có giá , chủ yếu là mua kỳ hạn . Từ 21/2 đến 14/3/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng , NHNH tổ chức các phiên giao dịch trên TTM , đã thực hiện mua có kỳ hạn giấy tờ có giá . Từ 20/6 đến 31/10/2001, NHNH lại tiến hành mua có kỳ hạn tín phiếu .Trong tháng 11/2001 , do lượng vốn khả dụng của các TCTD vẫn ở mức cao nên 4 phiên giao dịch liên tiếp không có thành viên tham gia .Đầu tháng 12/2001 , lần đầu tiên NHNH tiến hành giao dịch bán có kỳ hạn một tháng . Như vậy , sau hơn một năm hoạt động , đến cuối năm 2001 ,TTM đã có 21 thành viên và hàng hoá giao dịch trên TTM vẫn chỉ có hai loại : tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNH. Thời hạn thanh toán và giao nhận các giấy tờ có giá ngắn hạn giữa các TCTD từ hai ngày xuống còn một ngày .
Trong năm 2002, tính đến ngày 5/9 đã tổ chức 52 phiên , từ tháng 5/2002 , quyết định tổ chức thường xuyên 2 phiên giao dịch mỗi tuần . Lãi suất hình thành trên TTM đã bám sát với lãi suất của các TCTD ; Đặc biệt
Với việc cung ứng vốn thông qua nghiệp vụ TTM đã góp phần thực hiện chủ trương kích cầu chính phủ .
Trong những năm tiếp theo ,để nghiệp vụ TTM thực sự trở thành một công cụ gián tiếp đắc lực góp phần phát triển thị trường tiền tệ , để nó ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam ,cần phải có một số biện pháp
như : phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ và biện pháp điều hành chính sách tiền tệ , hỗ trợ cho sự phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng ,đồng thời NHNNcũng càn nghiên cứu ,mở rộng thêm hàng hoá cho thị trường , đa dạng hoá các loại hàng hoá giao dịch trên TTM ; tạo điều kiện cho các TCTD tham gia TTM ; từng bước cải thiện hoạt động của thị trường nội tệ , ngoại tệ liên ngân hàng ; các TCTD mử rộng hơn nữa các loại hình kinh doanh ngoài cho vay truyền thống .
3.2 Dự trữ bắt buộc
Đó là số tiền mà các TCTD phải giữ lại mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư ,mức này thường do NHTƯ quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng tiền giử của khách tại các TCTD . Những thay đổi trong dự trữ bắt buộc (DTBB) tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng tiền tệ .
Kể từ ngày ban hành quyết định 260/QD – NHNN ngày 19/9/1995 mức dự trữ bắt buộc dự trữ được tính chung cho tất cả các loại tiền tệ giửi không phân biệt tiền giưỉ có kỳ hạn dưới một năm hay không kỳ hạn .
Nếu lạm phát cao hay lãi suất cao thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước .
Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau , ở các thời kỳ khác nhau , song các thời kỳ cơ bản đều mang tính bắt buộc chung là tính pháp luật , được gửi ở NHTƯ và không được hướng lãi nó được để tác động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện :
Thứ nhất , nó tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các ngân hàng thương mại thông qua hệ số nhân tiền khi tăng hoặc giảm tỷ lệ đượcự trữ bắt buộc sẽ làm hệ số tạo tiền thu hẹp (hoặc tăng lên) .
Thứ hai ,nó tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống NHTM . Như ta đã biết , tiền DTBB phải giữ ở NHTƯ mà không được hưởng khoản lãi , trong đó các NHTM vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng mình . Vì vậy , khi mà khoản dự trữ đó tăng lên , buộc các NHTM phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế làm khả năng cho vay của họ bị giảm xuống , vì thế lượng tiền cung ứng cũng có xu hướng giảm . Ngược lại , khi mức dự trữ giảm sẽ làm lượng tiền cung ứng tăng lên .
Hiện nay , công cụ DTBB đóng vai trò kém phần quan trọng trong thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng TƯ , bởi quá phức tạp , kém linh hoạt , ảnh hưởng đến lợi nhuận các ngân hàng kinh doanh .
Còn ở Việt Nam ,công cụ DTBB được ngân hàng NN đưa ra ngay sau khi pháp lệnh NHNN ra đời và thời kỳ đầu ở Việt Nam thực hiện kỳ duy trì DTBB là 15 ngày , tiền DTBB phải duy trì thường xuyên trên tài khoản mở tại NHNN ,tỷ lệ DTBB là 10% (trong đó 70% giữ tại NHNN và 30% là tiền mặt tồn quỹ tại NHTM); nêú thiếu tiền DTBB thì phải bù đắp phần thiếu ,nếu không đủ thì NHNN sẽ cho vay ( theo lãi suất cao hơn đối với lãi suất cho vay của các TCTD vơí nền kinh tế ) . Và quy định tiền DTBB phải duy trì thường xuyên tính theo ngày , làm ảnh hưởng đến huy động và sử dụng vốn của các TCTD . Từ tháng 1/1998 cho đến nay , NHNN đưa ra quy chế TDBB mới là quyết định duy trì DTBB là 1 tháng và tiền gửi duy trì DTBB tại NHNN được tính bình quân trong kỳ , nều thừa sẽ được hưởng lãi bằng lãi suất tiền gửi thanh toán tại NHNN còn nếu thiếu thì sẽ bị phạt bằng 150%lãi suất tái cấp vốn của NHNN với các tctd công bố thời kỳ . Như vậy giúp cho NHTM chủ động trong việc điều hành và sử dụng vốn trong kinh doanh , đồng thời giúp NHNN kiểm soát và điều hành chính sách tiền tệ thông qua công cụ này khá nhiều hiệu quả .Trong năm 2001 , công cụ DTBB đã được điều hành phù hợp với diễn biến của tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ , quản lý ngoại hối của NHNN . Tháng 5/2001 NHNN đã nâng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15% cùng với giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng nội tệ xuống 3% đã hỗ trợ cho việc điều hành lãi suất và tỷ giá , góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá .Vào tháng 12/2001 , trên thị trường quốc tế ,lãi suất có xu hướng giảm mạnh , NHNN đã quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đổi mới tiền gửi bằng ngoại tệ xuống còn 10% .
Lãi suất.
Lãi suất cũng là 1 công cụ khá quan trọng trong công việc thực thi chính sách tiền tệ tại Việt Nam , nó đã phát huy tác dụng rất hiệu quả .
Th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72857.DOC