Đề tài Ngân hàng đầu tư – Chứng khoán hóa

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

LỜI MỞ ĐẦU 6

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ – CHỨNG

KHOÁN HÓA 7

1.1 Ngân hàng Đầu tư 7

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của Ngân hàng đầu tư 7

1.1.1.1 Khái niệm 7

1.1.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng đầu tư 7

1.1.2 Các nghiệp vụ chính của Ngân hàng đầu tư 7

1.1.3 Mô hình tổ chức của Ngân hàng đầu tư 11

1.1.4 Các dòng sản phẩm của Ngân hàng đầu tư 13

1.2 Chứng khoán hóa 14

1.2.1 Khái niệm CKH 14

1.2.2 Lịch sử hình thành CHK 14

1.2.3 Nội dung của kỹ thuật CKH 15

1.2.3.1 Các chủ thể tham gia vào quá trình CKH 15

1.2.3.2 Quy trình CKH 16

1.2.3.3 Một số mô hình CKH phổ biến 18

1.2.3.4 Các loại sản phẩm CKH 20

1.2.4 Lợi ích, chi phí và rủi ro của chứng khoán hóa 22

1.2.4.1 Lợi ích của chứng khoán hóa 22

1.2.4.2 Chi phí của chứng khoán hóa 25

1.2.4.3 Rủi ro của chứng khoán hóa 26

Kết luận chương 1 27

CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ SỰ CẦN THIẾT ÁP DỤNG KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN HÓA TẠI VIỆT NAM 28

2.1 Tiềm năng của Ngân hàng đầu tư tại Việt Nam 28

2.1.1 Thị trường vốn Việt Nam 28

2.1.2 Các sản phẩm CK có thu nhập cố định 28

2.1.3 Các sản phẩm CK vốn 29

2.1.4 Dịch vụ tư vấn, mua bán, sát nhập doanh nghiệp (M&A) 29

2.2 Thuận lợi và khó khăn khi thực CKH tại Việt Nam 31

2.2.1 Thuận lợi khi thực hiện CHK tại Việt Nam 31

2.2.2 Khó khăn trong áp dụng CKH tại Việt Nam 32

2.3 Kinh nghiệm của Mỹ và một số nước trong việc thực hiện nghiệp vụ CKH 33

2.3.1 Nghiệp vụ CKH tại Mỹ 33

2.3.2 Thực trạng CKH tại một số quốc gia Châu Á 39

2.3.2.1 Hoạt động CKH tại Nhật Bản 39

2.3.2.2 Hoạt động CKH ở Hàn Quốc 40

Kết luận chương 2 41

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ

ÁP DỤNG CHỨNG KHOÁN HÓA TẠI VIỆT NAM 42

3.1 Các giải pháp phát triển hoạt động Ngân hàng đầu tư tại Việt Nam 42

3.2 Giải pháp để áp dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thành công 42

3.2.1 Kinh nghiệm CKH của các nước trên thế giới 42

3.2.2 Đề xuất mô hình chứng khoán hóa với thực tiễn Việt Nam 45

3.2.3 Giải pháp để áp dụng kỹ thuật CKH thành công tại Việt Nam 45

Kết luận chương 3 49

Kết luận chung 50

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 51

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

docx50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5082 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngân hàng đầu tư – Chứng khoán hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trái phiếu CBO ( Collateralised Bond Obligation) là tên gọi sản phẩm chứng khoán hóa các danh mục trái phiếu doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng đối với trái phiếu CLO cao hơn CBO tương ứng mức rủi ro của gốc tài sản.Trái phiếu CLO được chứng khoán hóa chủ yếu để làm đẹp bảng cân đối kế toán bằng cách thoát bỏ một số rủi ro tín dụng của khoản cho vay thương mại. Trong khi đó thì trái phiếu CBO nhằm mục đích khai thác chênh lệch giá là chính. Chứng khoán hóa tổng hợp (Synthetic Secutitisation): Các loại trái phiếu CDO trên được gọi là trái phiếu CDO tiền mặt (cash CDO) được hình thành thông qua chứng khoán hóa các danh mục rủi ro tín dụng được bán cho SPV. Còn với chứng khoán hóa tổng hợp, SPV không mua danh mục rủi ro tín dụng một cách thông thường mà thông qua công cụ phái sinh như hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS). Ngân hàng bán rủi ro tín dụng cho SPV bằng một hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS). Về cơ bản đây là một hợp đồng bảo hiểm rủi ro tín dụng, định kỳ ngân hàng thanh toán một khoản phí bảo hiểm cho SPV, đổi lại ngân hàng sẽ nhận được khoản bồi thường khi danh mục tài sản tham chiếu bị rủi ro tín dụng. Khoản bồi thường tương đương mệnh giá danh mục rủi ro – giá trị thu hồi của gốc tài sản. 1.2.4 Lợi ích, chi phí và rủi ro của chứng khoán hóa 1.2.4.1 Lợi ích của chứng khoán hóa Thứ nhất: Lợi ích của chứng khóa hóa đối với bên khởi tạo tài sản, công ty dịch vụ, ngân hàng đầu tư và nhà đầu tư: Bên khởi tạo tài sản Bên khởi tạo tài sản, thông qua việc chứng khoán hóa có thể khai thác được nguồn vốn mới với chi phí thấp hơn đi vay từ bên ngoài do định mức tín nhiệm của SPV thường cao hơn định mức tín nhiệm của bên khởi tạo tài sản. Quá trình chứng khoán hóa cho phép định giá bán tài sản một cách tối ưu nhất, do có sự kiểm soát của các công ty định mức tín nhiệm nên việc định giá được diễn ra minh bạch, trực tiếp tăng cường tính thanh khoản cho các tài sản vốn không có tính thanh khoản cao. Bên cạnh đó bên khởi tạo tài sản có thể thoái bỏ tài sản ra khỏi bảng cân đối kế toán bằng việc bán đứt tài sản cho các SPV, điều này sẽ giúp hạn chế và chuyển giao rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng sang cho các nhà đầu tư mua các trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa. Với số tiền thu được từ việc bán tài sản cho các SPV, bên khởi tạo tài sản có thể quay vòng vốn hình thành các khoản cho vay khác. Ngoài ra, bên khởi tạo tài sản còn được trả phí khi tham gia quản lý danh mục cho SPV. Trường hợp bên khởi tạo tài sản là ngân hàng thương mại hoặc ngân hàng đầu tư thì phải tuân thủ theo các quy định an toàn vốn (CAR). Ngân hàng đầu tư Ngân hàng đầu tư thu được những khoản phí khi thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hóa như phí tư vấn, bảo lãnh phát hành và bán các loại chứng khoán này trên thị trường thứ cấp nhằm thu lợi nhuận. Ngày nay, các ngân hàng đầu tư còn đóng vai trò là bên khởi tạo tài sản nên thu được các lợi ích trong toàn bộ chu trình chuỗi giá trị tài sản. Nhà đầu tư Thông qua chứng khoán hóa, nhà đầu tư có thể tiếp cận với kênh đầu tư mới, mang lại nhiều sản phẩm và cơ hội đầu tư. Nhà đầu tư mua chứng khoán nợ nhằm mục đích sinh lời cao hoặc để đa dạng danh mục đầu tư. Thứ hai: Chứng khoán hóa góp phần nâng cao chất lượng thẩm định, nghiệp vụ chuyên môn của các trung gian tài chính: Trong quy trình chứng khoán hóa, tài sản được đảm bảo ở mức độ cao hơn, trong trường hợp người đi vay đến hạn không có khả năng thanh toán tiền gốc và lãi vay cho ngân hàng thì SPV sẽ đứng ra trả các khoản này theo một tỉ lệ đã được xác lập với ngân hàng. Vì lợi nhuận và rủi ro gắn liền với hai cá thể này nên SPV sẽ có trách nhiệm hơn trong việc thẩm định các dự án trước khi cho vay. Từ đó, nâng cao chất lượng các khoản vay trong thị trường tín dụng. Thứ ba: Chứng khoán hóa tác động tích cực đến thị trường chứng khoán và cho nền kinh tế: Từ trước đến nay, thị trường chứng khoán đã quá quen với các cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp và Chính phủ. Đối với trái phiếu hay cổ phiếu của doanh nghiệp thì phụ thuộc vào hoạt động và khả năng sinh lợi của tổ chức phát hành. Chứng khoán hoá tài sản tài chính ra đời sẽ làm mới thị trường chứng khoán vì đặc tính sinh lợi của nó dựa trên giá trị nội tại và hoạt động của thị trường, chứ không còn phụ thuộc vào tổ chức phát hành nữa. Mặt khác, chứng khoán hoá sẽ làm đa dạng hàng hoá trên thị trường, góp phần làm sôi nổi cho sàn giao dịch, cũng như nền kinh tế nói chung. Thứ tư: Chứng khoán hóa là sự lựa chọn hấp dẫn trong kênh đầu tư vào thị trường bất động sản: Nhà đầu tư có nhu cầu kiếm lợi nhuận khi tham gia vào thị trường bất động sản thường là những nhà đầu tư nhiều vốn. Vì thế, sẽ có nhiều hạn chế cho những nhà đầu tư vốn ít khi muốn tham gia vào thị trường này. Phần khác, những người nhiều vốn không phải ai cũng muốn đầu tư vào thị trường khá nhạy cảm và nhiều rủi ro này. Quy trình chứng khóa hóa đã giúp chia nhỏ giá trị của khoản đầu tư, làm tăng tính thanh khoản cho thị trường. Nhờ đó, những nhà đầu tư ít vốn có thể tham gia thị trường và hạn chế được rủi ro. Thứ năm: Góp phần thực hiện các mục tiêu vĩ mô của chính phủ Thông qua việc chứng khoán hóa sẽ tập hợp được lượng lớn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, sử dụng đầu tư vào các dự án, các hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Thúc đẩy thị trường tài chính hoạt động mạnh mẽ, nền kinh tế phát triển, Chính phủ có điều kiện chăm lo cho đời sống người dân như xây dựng nhà ở, nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng đầu đủ hơn nhu cầu cho người dân,….Nhờ đó, phúc lợi xã hội ngày càng được tăng lên. 1.2.4.2 Chi phí của chứng khoán hóa Chứng khoán hóa là một quá trình phức tạp nên đòi hỏi chi phí rất cao khi thực hiện. Các SPV khi thực hiện quy trình chứng khoán hóa sẽ phát sinh các khoản chi phí như chi phí phát hành trái phiếu, phí trả cho ngân hàng đầu tư cung cấp dịch vụ tư vấn, bảo lãnh phát hành, phí cho công ty định mức tín nhiệm, phí thanh toán cho cơ quan chức năng và phí quản lý. Tổng chi phí phát hành phụ thuộc vào quy mô và loại tài sản, trung bình khoảng 1% số vốn huy động. 1.2.4.3 Rủi ro của chứng khoán hóa Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng xuất hiện khi chủ thể phát hành chứng khoán nợ không có khả năng thanh toán gốc và lãi khi đến hạn. Rủi ro này sẽ được nghiên cứu rõ hơn qua cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ (2007 – 2009) trong chương hai của đề tài này. Rủi ro lãi suất Khi lãi suất trên thị trường tăng lên, buộc các SPV cũng phải điều chỉnh lãi suất cho phù hợp. Lúc này, phần lợi nhuận thu được từ chênh lệch lãi vay và lợi tức của chứng khoán phát hành của các SPV sẽ giảm. Khi lãi suất trên thị trường giảm, người đi vay có xu hướng trả trước khoản vay hiện tại và ký kết khoản vay mới có lãi suất thấp hơn. Điều này làm cho dự tính về luồng tiền thay đổi vì những khoản thu hồi nợ này không thể tái đầu tư để thu được lãi suất cao trong tình hình lãi suất trên thị trường giảm. Lúc này người cho vay sẽ là người gánh chịu những rủi ro. Khi lãi suất giảm lần đầu thì nhiều người sẽ thực hiện đảo nợ. Tuy nhiên nếu lãi suất biến động bất thường thì động lực đảo nợ sẽ giảm. Rủi ro trong quy trình chứng khoán hóa của ngân hàng Do quy trình chứng khoán hóa rất dài và phức tạp nên dễ xảy ra lỗi trong quá trình quản lý và hoạt động nghiệp vụ. Những vấn đề sai sót thường xảy ra ở giai đoạn thanh toán lãi chứng khoán và thu hồi các khoản nợ từ người đi vay. Những rủi ro này có thể hạn chế bằng việc kiểm soát chặt chẽ quy trình chứng khoán hóa để ngăn chặn và sửa chữa kịp thời. Kết luận chương 1 Tại Việt Nam, khái niệm ngân hàng đầu tư còn là khá mới mẻ. Tuy nhiên, đã xuất hiện một số công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ với các nghiệp vụ của một ngân hàng đầu tư. Đồng thời, một số ngân hàng thương mại lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi sang mô hình tập đoàn tài chính, chú trọng phát triển mảng ngân hàng đầu tư như công ty chứng khoán đầu ngành CTCK Sài Gòn (SSI), các ngân hàng quốc doanh lớn sau khi cổ phần hóa như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank). Tuy nhiên, các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư tại Việt Nam tồn tại ở dạng rất sơ khai và chưa có đầy đủ chức năng vốn có của nó. Nhìn chung, đây là sự phát triển ban đầu, thể hiện một định hướng đúng của nền kinh tế Việt Nam. Về bản chất, chứng khoán hóa là quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng những tài sản có sẵn trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành chứng khoán nợ. Chứng khoán hóa là một nghiệp vụ tạo ra thu nhập cố định cho ngân hàng đầu tư cũng do nó có liên quan đến việc phát hành các chứng khoán nợ. Tại Việt Nam, thị trường tài chính chỉ ở giai đoạn sơ khai nên chưa thể phát triển nghiệp vụ chứng khoán hóa. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, thị trường cho vay thế chấp mua nhà đã bắt đầu phát triển và có thể cung cấp những danh mục tài sản tiềm năng cho nghiệp vụ chứng khoán hóa trong tương lai. CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG CỦA NGÂH HÀNG ĐẦU TƯ VÀ SỰ CẦN THIẾT ÁP DỤNG KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN HÓA TẠI VIỆT NAM 2.1 Tiềm năng của Ngân hàng đầu tư tại Việt Nam 2.1.1 Thị trường vốn Việt Nam Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu đã được Nhà nước ta định hướng từ những năm đầu thập kỉ 90 nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Trong vài năm gần đây, thị trường vốn Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về cả quy mô lẫn chất lượng. Mặc dù thị trường chứng khoán bắt đầu được thành lập từ năm 2000 nhưng đến năm 2006 thì nhu cầu đầu tư của người dân mới thực sự bắt đầu phát triển mạnh. Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO cùng với những cam kết hội nhập tạo nền tảng vững chắc để thị trường vốn phát triển mạnh mẽ. Số lượng công ty chứng khoán tăng từ 10 công ty năm 2005 lên 102 công ty năm 2008 và có hơn 40 công ty quản lý quỹ và 40 tổ chức lưu ký đang hoạt động. Số lượng tài khoản của các nhà đầu tư cá nhân cũng tăng lên nhanh chóng, năm 2005 có khoảng 50 ngàn tài khoản, năm 2007 con số này đã vượt lên 350 ngàn và cuối năm 2008 là 500 ngàn tài khoản. [1] Năm 2003, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ban hành lộ trình phát triển thị trường vốn, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng là phát triển thị trường trái phiếu. Năm 2007, Việt Nam tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn như Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Thị trường vốn Việt Nam là một thị trường mới nổi, có sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Lượng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam tăng mạnh trong giai đoạn 2006-2007. Năm 2008 do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Tổng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam cuối 2008 khoảng 4,6 tỷ USD. 2.1.2 Các sản phẩm CK có thu nhập cố định Trái phiếu chính phủ chiếm 85% tổng số phát hành thị trường trái phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp bắt đầu phát triển từ năm 2007 với việc các tập đoàn lớn phát hành thành công nhiều đợt trái phiếu doanh nghiệp Nguồn: Cẩm nang Ngân hàng đầu tư (trang 640) Biểu đồ 2.1: Thị trường trái phiếu Việt Nam 2007 Phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp năm 2008 bị chững lại do ảnh hưởng của lạm phát, chính sách tiền tệ thắt chặt, rủi ro mất giá của VND và trào lưu rút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài đã làm cho lợi suất trái phiếu tăng mạnh trên 20%. Tuy nhiên hoạt động mua bán trên thị trường thứ cấp vẫn diễn ra sôi nổi và tạo nhiều lợi nhuận cho các tổ chức đầu tư trong nước. 2.1.3 Các sản phẩm chứng khoán vốn Cuối năm 2008 có khoảng 338 cổ phiếu niêm yết (bao gồm 4 chứng chỉ quỹ đầu tư) và trên 7 ngàn cổ phiếu chưa niêm yết có giao dịch trên thị trường OTC Thị trường chứng khoán vốn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài dẫn đến việc hình thành một lượng lớn quỹ đầu tư vào Việt Nam. Số vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường Việt Nam ước đạt 4,6 tỷ USD cuối năm 2008 (2007: 10 tỷ USD). 2.1.4 Dịch vụ tư vấn, mua bán, sát nhập doanh nghiệp(M&A) Nguồn: PWC và Thomson Reuters Biểu đồ 2.2 : Giá trị và số lượng giao dịch M&A tại Việt Nam 2004-2009 Quy mô và số lượng giao dịch M&A tại Việt Nam tăng nhanh và mạnh trong những năm gần đây, năm 2009 có sự bùng nổ với g giao dịch và giá trị giao dịch khoảng 1,7 tỷ USD. Các giao dịch tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Tuy nhiên quy mô giao dịch đã giảm mạnh trong năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng và suy thoái kinh tế toàn cầu. Những mặt hạn chế trong hoạt động Ngân hàng đầu tư Các sản phẩm tài chính Việt Nam còn sơ khai, sự hiểu biết về sản phẩm tài chính của cơ quan chức năng và các thành viên thị trường còn hạn chế. Các sản phẩm phái sinh gần như chưa được sử dụng. Các sản phẩm trái phiếu chính chủ yếu ở dạng đơn giản. Chưa có sản phẩm trái phiếu cơ cấu, ngoại trừ một số trái phiếu chuyển đổi. Thiếu các công ty định mức tín nhiệm mà nguyên nhân chủ yếu là Luật Chứng khoán của Việt Nam chưa bắt buộc việc định mức tín nhiệm khi phát hành chứng khoán nợ, vì thế nhu cầu thị trường chưa đủ mạnh để có thể thành lập các công ty định mức tín nhiệm. Một trong những rào cản dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đổ vào Việt Nam là tính minh bạch của thị trường chứng khoán. Nguồn nhân lực thực hiện các nghiệp vụ tư vấn bảo lãnh, phát hành chứng khoán, tư vấn M&A… tại các CTCK Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế do yếu về mặt kiến thức và ít được cọ sát kinh nghiệm quốc tế. 2.2 Thuận lợi và khó khăn khi thực CKH tại Việt Nam 2.2.1 Thuận lợi khi thực hiện CHK tại Việt Nam Tại Việt Nam cho đến nay kỹ thuật chứng khoán hóa vẫn chưa được phổ biến mặc dù trên thực tế đã có một số giao dịch phát hành chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản được thực hiện như Năm 2008, nghiệp vụ CKH lần đầu được thực hiện tại Việt Nam bởi công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal) và được đánh giá tương đối thành công, tạo một bước đệm khá tốt cho việc áp dụng CKH vào Việt Nam sau này. Nguồn vốn của các doanh nghiệp hiện nay vẫn phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay trung và dài hạn của các ngân hàng, một khi hệ thống ngân hàng suy yếu sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Việc thiết lập một thị trường vốn trong nước hiệu quả, cụ thể là thị trường trái phiếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp một kênh huy động vốn mới khi khả năng cấp tín dụng của ngân hàng bị hạn chế. Mặt khác, thị trường trái phiếu trong nước giúp doanh nghiệp giảm chi phí vốn vay. Với một thị trường trái phiếu phát triển thì lãi suất trái phiếu là thước đo đánh giá mức độ tín nhiệm của thị trường đối với trái phiếu đó, điều này giúp các doanh nghiệp sẽ xác định đúng chi phí vốn khi đưa ra các quyết định đầu tư khi mà lãi suất cho vay của các ngân hàng có thể được ấn định dựa trên cơ sở cạnh tranh, do vậy không phản ánh được chi phí cơ hội thực sự của vốn. Từ những phân tích nêu trên có thể thấy được sự cần thiết phải có một thị trường trái phiếu tại Việt Nam, giảm bớt nguy cơ của một nền kinh tế quá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng để đầu tư. Hiện nay, chúng ta đã có một số tiền đề thuận lợi để doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua ứng dụng chứng khoán hóa: - Sự mở cửa thị trường tài chính Việt Nam trong những năm qua đã thu hút nhiều nhà đầu tư, tập đoàn tài chính và những ngân hàng lớn trên thế giới đem theo một lượng lớn vốn và những kinh nghiệm về cách thực hiện các kỹ thuật tài chính như chứng khoán hóa. - Sự hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam và thế giới tạo điều kiện để tiếp thu kinh nghiệm từ các nước trên thế giới và những nước trong khu vực về cách thức chọn lựa mô hình CKH và cách thức xây dựng các bộ luật, quy định liên quan. - Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực dầu khí, viễn thông, điện lực, sản xuất hàng xuất khẩu (nông sản, may mặc, chế biến thủy hải sản…) hay phát triển hạ tầng kinh doanh nhà ở là các đối tượng có nguồn tài sản tài chính phù hợp với giao dịch chứng khoán hóa với dòng tiền ổn định và mức độ phân tán rủi ro cao. - Trong vài năm gần đây, thị trường vốn Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về cả quy mô lẫn chất lượng. - Các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam đang tiếp thu các công nghệ hiện đại và có khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính mới phù hợp với giao dịch CKH. - Sự phát triển nhanh của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam dẫn đến nhu cầu tìm kiếm kênh đầu tư mới, các công ty này là có thể là nhà đầu tư tiềm năng nhất của chứng khoán hóa. - Dự thảo chiến lược phát triển nhà ở đến năm 2020 và tầm nhìn 2050 đang được Bộ Xây dựng trình Chính phủ phê duyệt là lập quỹ tín thác bất động sản để huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các nhà đầu tư nhỏ nhằm thực thi đề án “chứng khoán hóa bất động sản”. 2.2.2 Khó khăn trong áp dụng CKH tại Việt Nam Việt Nam mặc dù có những tiềm năng kể trên nhưng kỹ thuật CKH vẫn chưa được phát triển để huy động vốn. Thực tế xuất phát từ những nguyên nhân sau: - Khái niệm về chứng khoán hóa còn khá mới mẻ đối với các nhà tạo lập thị trường, các nhà đầu tư và các cơ quan chức năng, do đó Việt Nam chưa có nghiệp vụ chứng khoán hóa và cũng chưa có khung pháp lý liên quan để điều chỉnh. - Tổ chức chuyên trách thực hiện CKH chưa hình thành. - Thiếu một tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp. Tại Việt Nam hiện nay chỉ mới có CIC (Trung tâm thông tin tín dụng) là được phép cung cấp dịch vụ xếp loại tín dụng các doanh nghiệp theo quyết định 473/QĐ-NHNN do thống đốc NHNN Việt Nam ký ngày 28/04/2004. Tuy nhiên dịch vụ của trung tâm vẫn còn hạn chế, chưa được nhiều nhà đầu tư biết đến. - Thị trường trái phiếu doanh nghiệp việt nam chưa phát triển do còn khiêm tốn về chủ thể phát hành, lượng vốn huy động và số lượng phát hành - Việt Nam chưa có nhiều những loại tài sản tài chính có đặc điểm phù hợp với chứng khoán hóa. Thị trường bất động sản chưa minh bạch. Thị trường cho vay thế chấp mua nhà và tín dụng tiêu dùng chỉ mới bắt đầu phát triển từ năm 2007, hứa hẹn cung cấp cho thị trường những danh mục tài sản tiềm năng cho nghiệp vụ chứng khoán hóa trong tương lai. - Trong giai đoạn hiện tại, các ngân hàng thương mại đang tập trung tăng trưởng quy mô vốn và tài sản để tăng ưu thế cạnh tranh nên nhu cầu phát huy những ưu điểm của nghiệp vụ chứng khoán hóa cũng chưa phải là nhu cầu bức thiết. - Sự phát triển sôi động của thị trường cổ phiếu trong những năm gần đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm tính hấp dẫn của thị trường trái phiếu đối với các nhà đầu tư. - Các doanh nghiệp Việt Nam đã quá quen với việc vay vốn ngân hàng vì phương thức này đơn giản, thuận tiện, phù hợp với thực trạng trình độ quản trị tài chính yếu kém của các doanh nghiệp. 2.3 Kinh nghiệm của Mỹ và một số nước trong việc thực hiện nghiệp vụ CKH 2.3.1 Nghiệp vụ CKH tại Mỹ Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ giai đoạn 2007-2008. Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ tình trạng bong bóng của thị trường nhà đất ở Mỹ (2005-2006) với những khoản vay dưới chuẩn có nguy cơ rủi ro cao và các khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Năm 2007: Kinh doanh bất động sản thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1.3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. - Ngày 05/02: công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản. - Ngày 02/04: New Century Finacial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ tuyên bố phá sản. - Ngày 19/07: chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong lịch sử. - Tháng 8: khủng hoảng tín dụng toàn cầu. - Ngày 14/09: Ngân hàng Northen Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay tín dụng dưới chuẩn. Năm 2008 với những mốc đáng nhớ: - Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đô la một cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearns. - Ngày 17/07: các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đô la. - Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac. - Ngày 14/09: Merrill được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ đô la. - Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này tránh phá sản. - Ngày 26/09: ngân hàng Washington Mutual ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase &Co với giá 19 tỷ đô la. - Ngày 30/09: ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup. Nguồn gốc khủng hoảng Sự bùng nổ cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn từ sự bất cân đối từ nguồn tín dụng toàn cầu trong những năm trước đây. Nguồn vốn gia tăng liên tục do chính sách tiền tệ nới lỏng của FED và dòng chảy vốn nước ngoài đổ vào ổn định. Trong khi đó nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp lại giảm, cùng với sự kiểm soát thâm hụt ngân sách của chính phủ đã dẫn đến việc thừa vốn mà thị trường không sử dụng hiệu quả. Cuối năm 2002, hoạt động của thị trường nhà ở diễn ra sôi động nhờ vào thu nhập cá nhân tăng, lãi suất cho vay thế chấp thấp, chỉ riêng năm 2001, FED đã 10 lần cắt giảm lãi suất đối với các khoản vay cố định chỉ ở mức 4% đến 5% thấp nhất trong vòng 40 năm qua. Điều này đã khiến cho các chủ thể tham gia trên thị trường đều muốn tranh thủ để kiếm lời. Các ngân hàng thiết kế các sản phẩm nợ dưới chuẩn với mức lãi suất rất thấp trong những năm đầu tiên và điều chỉnh tăng nhanh trong những năm sau đã làm tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ nợ chuẩn của Mỹ 1998 - 2007 Sự kết hợp bất cân đối nguồn vốn và lãi suất hấp dẫn đã làm gia tăng thái quá cho vay tín dụng dưới chuẩn trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, được xem là nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ (2007-2009). Bùng nổ khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Các ngân hàng thương mại và các nhà môi giới cho vay dưới chuẩn đã thực hiện các khoản cho vay ban đầu, sau đó những khoản nợ dưới chuẩn này được đưa đến các ngân hàng đầu tư để phân loại, đóng gói và định mức tín nhiệm chuyển hóa thành những gói trái phiếu MBS, CMO, CDO hấp dẫn, có mức tín nhiệm cao, phù hợp với từng nhà đầu tư, phần lớn các CMO, CDO được bán cho các quỹ đầu cơ. Các trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa lại tiếp tục được chứng khoán hóa tạo ra vòng quay vốn vô hạn phục vụ cho vay dưới chuẩn. Lợi nhuận cao kết hợp với quy trình thẩm định cho vay lỏng lẻo đã làm cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ, đẩy giá bất động sản lên cao. Năm 2002 doanh số cho vay dưới chuẩn là khoảng 200 tỷ USD đã tăng lên 700 tỷ USD trong năm 2006. Kéo theo sự bùng nổ các sản phẩm chứng khoán hóa là sự phát triển của các sản phẩm phái sinh rủi ro tín dụng, do không phải tuân thủ theo các quy định ngặt nghèo của ngành bảo hiểm, nên ai cũng có thể mua các sản phẩm này mà không cần phải sở hữu tài sản cần bảo hiểm. Điều này đã khiến cho các công ty bảo hiểm tham gia mạnh mẽ vào cuộc chơi, bán ra hàng loạt các hợp đồng bảo hiểm. Đây cũng chính là nguyên nhân khi khủng hoảng xảy ra, các công ty bảo hiểm lập tức rơi vào tình trạng khó khăn do không thanh toán được các hợp đồng trước đó. Vào tháng 8/2007, giá nhà đã ngừng tăng và bắt đầu giảm, nguyên nhân là do chính sách tiền tệ thắt chặt đẩy lãi suất lên cao làm cho nhiều người không trả được nợ, thậm chí chấp nhận phá sản. Các ngân hàng tăng cường thu hồi và phát mại tài sản để thu hồi nợ đã cho vay. Nguồn: Realty Trac Press Releases of “U.S. Foreclosure Market Report” Biểu đồ 2.4: Số lượng tài sản bị thu hồi Quý 1/2007 – Quý 3/ 2008 Rủi ro tín dụng liên quan đến các danh mục tín dụng dưới chuẩn trực tiếp truyền sang rủi ro tín dụng cho các trái phiếu hình thành từ nghiệp vụ chứng khoán hóa làm cho giá trái phiếu lập tức sụt giảm mạnh và được bán tháo ra thị trường. Các ngân hàng đầu tư nắm giữ các gói cổ phiếu và các gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa chưa kịp phân phối ra thị trường đã bị thua lỗ nặng nề làm cho tín dụng liên ngân hàng tê liệt, dẫn đến nguy cơ sụp đổ của các định chế tài chính. Dựa vào những phân tích ở trên, nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ bao gồm hai nguyên nhân cơ bản như sau: Nợ dưới chuẩn quá cao: tăng trưởng tín dụng quá mức của các định chế tài chính Mỹ vào thị trường bất động sản, cho vay các đối tượng không đủ tiêu chuẩn, xem nhẹ chất lượng tín dụng dẫn đến tỷ lệ nợ dưới chuẩn gia tăng, hệ quả là mất khả năng thanh toán. Hạn chế của các công cụ chứng khoán hóa: về mặt lý thuyết mọi rủi ro về nợ sau khi bán chứng khoán thuộc về nhà đầu tư chứ không phải là các ngân hàng. Tuy nhiên khi khủng hoảng xảy ra, người vay tiền mua nhà mất khả năng thanh toán, nợ xấu phát sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu lãi của các ngân hàng và phá sản như là một tất yếu. Nhờ chứng khoán hoá, quá trình này diễn ra chậm hơn, song mức độ lan toả thì lớn hơn rất nhiều vì nó liên quan trực tiếp đến hai thị trường quan trọng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxGiải pháp phát triển ngân hàng đầu tư và áp dụng chứng khoán hóa tại việt nam.docx
Tài liệu liên quan