Đề tài Nghệ thuật biểu diễn dân gian ở đồng Bằng Bắc Bộ

MỤC LỤC

 

I. Âm nhạc dân gian Đồng Bằng Bắc Bộ 1

1. Khí nhạc có trước hay thanh nhạc xuất hiện trước? 1

2. Hò lao động 3

3. Hát nghi lễ phong tục 4

4. Hát trong sinh hoạt 9

5. Hát giao duyên 13

6. Khí nhạc dân gian 20

II.Nghệ thuật nhảy múa và diễn xướng dân gian Đồng Bằng Bắc Bộ. 22

1. Người Việt có tồn tại loại hình múa hay không? 22

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3103 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghệ thuật biểu diễn dân gian ở đồng Bằng Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úng ta đánh tiếc hay là đánh te. Giọng dậm mà là anh đứng anh đè riếc rô là vông vông tầm vông vông tập à tầm vông là vông”. Ta còn thấy những điệu hát chèo thuyền trong Chèo Chái hê (Bắc Ninh), hát Chầu văn, hát Chèo… Trong hát Ghẹo (Phú Thọ) bài hát Vãi tôi tập phúc đóng bè, cho ta một bằng chứng về sự giao lưu của hát Hò lao động cả trong hát giao duyên trữ tình và hát nghi lễ - phong tục. 3. Hát nghi lễ phong tục Hát nghi lễ - phong tục bao gồm hát Xoan (Phú Thọ), hát Dậm (Hà Nam), hát Dô, hát Chèo tầu (Hà Tây), hát ải Lao (Hà Nội)… Đây là những bài hát trình bày trong dịp Hội mùa hàng năm theo phong tục và tín ngưỡng thờ Thành Hoàng ở các làng xã giữa một môi trường trang trọng của lễ nghi và đại náo của hội hè với trống dong, cờ mở, đèn, hương, hoa, quà, rước xách, tế lễ, cúng bái, xướng, cầu chúc, trò vui… nhằm cầu mong sự che chở cho tai qua nạn khỏi, phù hộ độ trì bình yên no ấm. Hát Xoan có lề lối riêng thay đổi theo yêu cầu địa phương. Thường mở cuộc hát vào buổi tối, tại gian giữa đình. Người xem ngồi đứng xung quanh. Mở đầu, ông Trùm cùng ông Chủ Tế của làng đứng trước hương án thờ hát Chúc và đọc bài khấn theo nghi thức. Sau đến trò Giáo Trống, Giáo Pháo của một kép trẻ. Tiếp đến 4 đào ra hát Thơ Nhang, mang nội dung dâng hương. Bài hát đóng Đám kết thúc giai đoạn I đã mang nội dung giao duyên, tuy vẫn được coi là “lề lối” (nghi thức). Giai đoạn II: Thường trình diễn 13 quả cách sau: 1. Kiều giang cách. 2. Nhàn ngâm cách 3. Tràng mai cách 4. Ngư - tiều - canh - mục cách. 5. Đối giấy cách Hồi liên cách Xoan thời cách Hạ thời cách 9. Thu thời cách 10. Đông thời cách 11. Tứ mùa cách 12. Thuyền chèo cách 13. Chơi dâu cách. Các “quả cách” có nội dung miêu tả đời sống và sinh hoạt nông thôn, hoặc ca ngợi thiên nhiên, hoặc kể chuyện xưa tích cũ, v.v… Âm nhạc của các cách có nhiều vẻ. Phong cách cơ bản là hát nói, được trình bày với một kép ngồi giữa, vừa đánh trống vừa hát “dẫn cách”, các đào hát phụ hoạ, nhắc lại lời “dẫn cách” hoặc “lời đệm”, hoặc tiếng “đưa hơi”. Lời quả cách có phần đóng góp của nho sĩ bình dân, thường chia ba phần: a. Giáo cách (mở đầu). b. Đưa cách (phần giữa). c. Kết cách (phần cuối). Phần quả cách được coi như phần hát thờ. Khi có nhiều phương tham gia, lễ hội thường dành hẳn một đêm để các phường trình diễn. Giai đoạn ba còn có nhiều tiết mục múa hát khác: Các hoạt cảnh, các trò chơi. Đây là phần hứng thú và sinh động nhất: “hát trao tình”, “chơi bợm gái”, “bỏ bộ”…do các đào vừa hát vừa làm “điệu bộ” hoặc múa. Tiết mục “Xin hoa - Đố chữ” mang tính chất “giao duyên” do 8 đào và 4 kép hát đối đáp. “Gái ho” cứ một nam hai nữ làm một cách hoa, cầm tay nhau vừa quay lộn, vừa tạo hình vừa hát. Tiếp theo còn “Hát Đúm”. Tiết mục kết thúc chương trình hát Xoan : “Giã Cá” hoặc “Đánh cá”, là cảnh múa hát sôi nổi. Đào là cá, kép là người đánh cá, hai bên săn đuổi cho đến khi bắt được cá, khiêng để lên bệ thờ, dâng thần. Khi ông chủ tế vào tế “cá” mới được nhấc xuống. Có nơi như Đức Bác lại dùng kép làm cá. Hát Dô ở Liệp Tuyết, Quốc Oai, Hà Tây được ghi chép thành sách gọi là Quốc nhạc diễn ca”, chỉ trình diễn 36 năm một lần tại “Ca Xoan Điện”, do một đội gồm nhà “cái” hát dẫn giọng chính và nhà “con” (một số thiếu nữ ở làng). Nội dung hát Dô cũng gồm những bài ca khẩn nguyện mùa màng tươi tốt, dân làng thịnh vượng, ca ngợi bốn mùa… miêu tả chèo thuyền, dệt cửi… và giao duyên. Hát Chèo tàu ở Tân Hội (Gối) Đan Phượng, Hà Tây lại diễn ra 20 năm một lần để tưởng niệm việc khởi nghĩa thời Hai Bà Trưng tại một “dinh” dựng tạm trên một khu ruộng ngoài làng. Ngoài những bài hát nghi thức cầu cúng, hát Chèo tầu còn cả nhiều bài hát trữ tình giao duyên trình diễn với bè xướng (đơn ca) của “Nhà cái” và bè xô (đồng ca) của “Nhà con”. Ở đây cũng có bỏ bộ. Hát Dậm, điệu hát mang tính sử thi của dân ca nghi lễ - phong tục gắn với Lễ hội thờ Thành Hoàng hàng năm. Các “con dậm” là những cô gái thanh tân từ 13 đến 20 được tuyển lựa vào phường tập luyện theo sự hướng dẫn của cụ “Trùm”, “Con dậm” mặc áo dài nâu năm vạt, váy lỉnh, yếm đỏ, chít khăn mỏ quạ. Cụ Trùm mặc quần áo vàng, chít khăn vàng đứng giữa cầm sênh đánh nhịp cho con dặm vừa múa vừa hát các bài khấn nguyện như: Hoá sắc, Phong ống, Phong pháp, Dâng Hương… các bài về sinh hoạt lao động như: Mắc cửi, chăn tằm, dệt vải, đi cầy… ca ngợi tình yêu nam nữ như: Bỏ bộ, v.v… Hát ải Lao được trình diễn tại Hội Dóng làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội vào đầu tháng tư Âm lịch hàng năm để tưởng niệm vị anh hùng huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương(1) Nguyễn Văn Huyên, Les fêtex de Phù Đổng, Une bataille ce’leste dans la trdition annamite. Cahier le la socie’te’ de Ge’ographie de Hanoi. XXXIV.H. 1938. . Phường ải Lao cũng gọi là phường Tùng Choạc có 20 trai trẻ làng Hội Xá (cùng tống Phù Đổng xưa) chuyên trách phục vụ. Như ở các lễ hội khác, chương trình hát ải Lao cũng gồm hát, múa và diễn trò. Trình tự: - Hát làm lễ trình. - Hát khi rước nước. - Hát khi rước vàng lễ. - Hát diễn trò săn hổ. - Hát khi hành quân đi đánh giặc - Hát đi chiến thắng - Hát đi thu quân trở về - Hát đi khao quân - Hát đi tế kết thúc Hội. Phường ải Lao ăn ở tại Hội, biểu diễn theo thời gian và trên các địa điểm mô phỏng diễn biến của trận đánh của Thánh Dóng diệt giặc xâm lược. Tuy là loại hát phục vụ cho các nghi thức nhưng nội dung hát ải Lao người việc phản ánh trình tự Lễ hội như: Vào đền, ra đền… còn ca ngợi sự ra đời của Thánh Gióng. Chèo Chái hê là loại hát ở vùng Kinh Bắc, có những điệu kể hạnh, hát văn, hát than, hát xẩm thập ân, kể bày… trong lễ tang hay trong dịp lễ “xá tội vong nhân” ngày 15 tháng 7 Âm lịch. Chèo Chái hê được sắp xếp thành hệ thống bài bản ca khúc, thể hiện các giai đoạn công việc: 1- Đẵn gỗ. 2 - Kéo gỗ 3 - Cốn bè. 4 - Xuôi bè. 5 - Xẻ ván. 6- Nắn ván. 7- Mai quai. 8 - Mai cọc chèo hoa. 9- Chở đò. 10 - Cắm sào. Phần mở đầu, kể chuyện 6 người con hiếu thảo. Cách hát cũng theo hình thức “xướng”, theo lề lối, trình tự và tiếng mõ của Nhà cái cầm nhịp cho đội Nhà con, phục trang đồng bộ, tay cầm gậy sơn son thếp vàng làm điệu bộ và “xô” theo. Hát Văn, hay hát Chầu Văn, là âm nhạc chuyên dùng hát chầu cho nghi lễ Hầu bóng (hay lên đồng) trong đạo tứ phủ, một tín ngưỡng lâu đời của cư dân vùng Đồng Bằng Bắc Bộ và Việt Nam. Các cung văn thường vừa hát vừa chơi nhạc đệm, gồm chủ yếu là nhạc gõ và cây đàn nguyệt. Hát Văn có hát Thơ và hát Thi. Bao giờ bài Văn đồng cũng mở với bài Chầu phủ đền đến Văn tạ, kết thúc cuộc hát. Nội dung chính là những bài hát chầu từng vị Thánh Mẫu đứng đầu các phủ: Thiên, Nhạc, Thoải (Thuỷ) và Địa đều không giáng đồng. Chỉ có các Quan, các ông Hoàng, các Cô, các Cậu, Ngũ hổ. Ông Lốt (Rắn), những trợ thủ cùng các Chầu đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ là hoá thanh của các Thánh Mẫu mới giáng đồng. Hát Văn tuy theo bài bản nhưng được trình bày bằng nhiều điệu như: Bỉ, Miễu, Thống, Phú, Kiều dương, Dọc, Cờn, Xá, Hãm, Nhịp một, Chèo đò, Bỏ bộ, Thỉnh (phụ đồng), Văn, Hò, Song thất, Lới lơ, Cò lả, Hành vân, Ngũ đối, Lưu thuỷ, Kim Tiền, Bình bản, Sai, Dồn, Đưa thư… Hát Văn tiếp thu rất rộng rãi âm nhạc dân gian và thơ văn dân gian để có thể diễn đạt được nhiều trạng thái tình cảm tuỳ nơi, tuỳ lúc và tuỳ tính cách từng vị Thánh giáng đồng. Tứ phủ không có Trần Hưng Đạo, nhưng trong việc thờ tự, cầu cúng tại cá Điện Mẫu, Đức Thánh Trần vẫn tham gia với vị trí cao, nhất là phần trừ tà hộ mệnh. 4. Hát trong sinh hoạt Đây là thể loại hát tản mạn trong gia đình, chòm xóm, phản ánh mối quan hệ huyết thống như: Mẹ con, chị em, vợ chồng, bà cháu… hay giữa các thành viên của cộng đồng làng xã. Thể lọai này rất đa dạng, phong phú, gắn bó chặt chẽ với nhiều sinh hoạt dân dã, như: Hát Ru, hát Trẻ em, hát Xẩm… Ngoài ra còn một số loại hình đơn giản, thông thường, phổ cập rộng khắp: Kể chuyện thơ, ngâm vịnh Kiều, lẩy Kiều, ngâm Chinh phụ, kể Lục Vân Tiên, kể vè… Đây là loại ngâm ngợi, văn vần, có ngữ âm, ngữ điệu tự do, lối đọc thơ, kể chuyện cách điệu cao hơn nói thường, nhưng chưa đạt mức âm nhạc. Vè là lại văn vần dân dã thường được sáng tác nhằm phản ánh những sự việc khác thường, xuất hiện đột ngột trong xóm làng với mục đích phê phán, giáo huấn theo đạo đức truyền thống như: Chuyện “bỏ chồng theo trai”, “bất hiếu”, bất mục”… Cũng có những bài vè dài ca ngợi gương người tài, việc tốt như: Vè Vợ ba Cai Vàng,… Loại vè này thường do các nho sĩ sáng tác, có tính “Sử thi”, được phổ cấp rộng rãi qua những người hát xẩm và đã được nhân dân thừa nhận. Hát ru, ngay từ buổi chào đời, con người đã tham dự vào buổi hoà nhạc độc đáo chỉ có một diễn viên - Người Mẹ - và một người nghe - Con. Tuổi thơ ấu của chúng ta đã được làm quen với loại tín hiệu thông tin Ru Con này. Cũng từ đó nẩy sinh hình thức âm nhạc hát Ru. Có thể nói không một dân tộc nào không có hát Ru, bởi lẽ hễ có người Mẹ là có ru Con. Tất cả tình cảm thương yêu sâu nặng của Mẹ được biểu lộ bằng những tiếng ngâm nga êm dịu: Ạ, à, ơi… ru hời… với tiết tấu nhẹ nhàng đung đưa theo nhịp tay, nhịp võng… Hát Ru đồng bằng Bắc Bộ gắn bó với đặc điểm ngôn ngữ vùng đồng nước và thói quen thẩm mỹ người dân làm lúa nước. Đây là loại âm nhạc dân gian truyền thống lâu đời, đa dạng và phong phú, nhưng chất nhạc lại mộc mạc hồn nhiên. Người Mẹ vùng này đã qua hát Ru gửi gắm những tâm tư, tình cảm, phản ánh đời sống tinh thần của xã hội, gửi vào đó bao điều sâu xa, thấm thía về con người và cuộc đời. Hát Ru đã là một trong những yếu tố đầu tiên góp phần cấu thành tính cách, tâm hồn dân tộc trong mỗi con người. Hát ru còn mang nhiều nội dung ngụ ngôn, giáo huấn…. Với các hình thượng thiên nhiên xã hội thân quen như: Con cò, con vạc, ông trăng, ông trời, cây đa, bến nước… Nét nhạc quen thuộc thường mở đầu cho câu hát, sau đó cũng có thể gặp lại ở giữa câu và cuối câu. Nét nhạc này ngắn gọn xác định chủ âm câu hát. “Đố ai ngồi võng không đưa Ru con không hát, anh chừa rượu tăm”. Hát Trẻ em - Những bài hát thường kèm theo trò chơi, cũng quen gọi là đồng giao, do ông bà, cha mẹ, anh chị sáng tác ra nhằm dỗ dành, dậy bảo con em lứa tuổi từ nhỏ đến 14, 15. Đây là quãng đời sống chưa hoàn thiện về chất và tư duy của con người, có đặc thù sinh lý và tâm lý riêng. Kho tàng hát Trẻ em Đồng Bằng Bắc Bộ đa dạng, phong phú, không ngừng được kế thừa và phát triển đời nọ qua đời kia và có vai trò quan trọng trong sự hình thành bản lĩnh, bản sắc dân tộc. Qua sưu tầm, những bài Trẻ em mà chúng ta còn được biết thường là những bài hát của các em từ 6 - 7 đến 12 - 13 tuổi. Quãng tuổi vui chơi ca hát này tuy ngắn ngủi nhưng khá sôi động. Sự bắt chước là một bản năng trội nhất trong sinh hoạt hàng ngày của các em. Trong những bài hát Trẻ em ta thấy nhiều sự lặp lại cái dáng dấp mộc mạc, thô sơ vốn có trong sáng tác dân gian của người lớn cổ xưa. Một phần những bài hát này bắt nguồn từ những bài hát, hoặc múa - hát của người lớn, được các em tiếp thu hoặc nguyên vẹn, hoặc trích đoạn, rồi sửa đổi, thêm bớt tuỳ tiện cho phù hợp. Một phần khác là những bài hát trẻ em do những người trông nom các em sáng tác và truyền đạt. Xưa thường ông bà là những người có điều kiện tiếp xúc với các em nhiều nhất. Tất cả những bài hát Trẻ em dù từ nguồn gốc nào, các em cũng đều nhào nặn lại trong thực hành diễn xướng. Các em luôn cải biến chúng cho phù hợp với lối chơi, cách chơi ở từng nơi, từng lúc. Bài Nu na nu nống hợp với chơi trên giường, trên phản, ngoài hiên. .. Bài Dung giăng dung giẻ lại hợp với cảnh ngoài sân đêm trăng, khi được bà, mẹ hay chị hoặc các em dắt tay nhau cùng chơi, vừa hát vừa đi dong. Với các em lứa tuổi không cần phải người coi sóc. Các bài kiểu Xỉa cá mè, Rồng rắn… thường là phổ biến. Ở đây cùng với lời hát còn có nhiều trò phụ hoạ như: Bắt chước tiếng chó cắn “gâu, gâu”, tiếng mèo kêu “ngao, ngao”… khi có tiếng người “buôn men” rao bán. Đặc biệt khi chơi trò Rồng rắn, các em đã đi vào đối đáp giữa Rắn đi lấy thuốc cho con để dẫn đến đuổi bắt khúc đuôi rắn. Trò Chi chi chành chành lại mở đầu một cuộc đi ẩn, đi tìm, hấp dẫn. Cũng có nhiều bài hát Trẻ em mang nội dung tập nói, tập đếm, tập đố… Phải nhận rằng hát Trẻ em đều ít nhiều nhằm mục đích dạy dỗ các em ý thức đùm bọc bảo vệ lẫn nau (Rồng rắn), rèn luyện sự nhanh nhẹn (Chi chi chành chành), sự khéo léo (Rải ranh, chuyền thẻ), sự sạch sẽ (Xỉa cá mè)… Hát Trẻ em thường dự trên âm điệu tiếng nói, là một bộ phận trong âm nhạc dân gian, có mối quan hệ chung với các thể loại khác, nhưng đặc biệt được cấu trúc nhịp điệu theo kiểu chu kỳ, thường gắn với trò chơi và luôn gắn bó với ngữ khí, ngữ điệu của tiếng nói. Hát Xẩm, được trình diễn tại những nơi công cộng nhiều người qua lại như: Chợ búa, bến đò, gốc đa, quán nước, hội hè… Do đó ngày xưa vẫn quen gọi là “Xẩm chợ”. Hát Xẩm thường do từng gia đình, từng nhóm đôi ba người… mà người chủ yếu thường bị mù. Hát Xẩm bao giờ cũng có nhạc chơi phụ hoạ. Nhạc cụ thường gặp là trống mảnh, đàn bầu, nhị, hồ, cặp kè, mõ… Người hát, vừa hát vừa chơi nhạc, nhưng người khác hát đỡ giọng và chơi nhạc theo. Họ có thể chơi được nhiều nhạc cụ thay đổi theo làn điệu sử dụng. Nội dung hát Xẩm rất rộng rãi về đề tài: Từ những bài hát, ca ngợi quê hương đất nước, anh hùng dân tộc, đến những chuyện nhân tình, thế sự, thân phận con người trái kiếp lỡ duyên… Người hát Xẩm thường vận dụng từ những bài ca dao, hò, vè hay lấy trích tử các truyện thơ Nôm quen thuộc và trình bày bằng nhiều làn điệu dân ca và lời hát rất gần với âm điệu tiếng nói. Lời hát Xẩm chủ yếu là thể thơ sáu tám và sáu tám biến cách có thêm tiếng đệm, tiếng lót. Người hát Xẩm rất giỏi cóp nhặt thơ ca dân gian, thuộc lòng nhiều câu hát, nhiều tích truyện. Họ sẵn sàng phục vụ yêu cầu của người nghe. Hát Cẩm đề cập sâu rộng qua nội dung phong phú và hình thức trình diễn dân dã, đa dạng, hấp dẫn. Hát Xẩm còn sở trường trào lộng, châm biếm những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội… như: Giết chó khuyên chồng, Mài dao dạy vợ, của Phi nghĩa có giầu đau, Tiếc gà chôn mẹ… Bên cạnh đó còn có các bài vè dà mang nội dung lịch sử: Vè cụ Đề Thám, vợ Ba Cai Vàng, ông Đội Cấn… Hát Xẩm có 7 làn điệu chính: a. Chỉnh bong. b. Huê tình (hay riềm huê). c. Nhà trò (hay Ba bực). d. Thập ân. e. Phồn Huê. f. Hát ai. g. Bốn mùa. Ngoài ra còn sử dụng nhiều làn điệu dân ca khác nhau: Bồng mạc, Sa mạc, Cò lả, Trống quân, Ví, Ru, Ru con… Rất tiếc, hát Xẩm cũ nay chưa thấy được phục hồi. Hiện nay có loại hát xẩm mới, dùng nhạc điệu các bài hát quen thuộc, đặt lời mới, biến tấu, biến cách, như: Đại thắng mùa xuân, Đào đá đỏ. 5. Hát giao duyên Hát Giao duyên là một sinh hoạt âm nhạc tương đối thuần tuý như: Hát Quan họ (Bắc Ninh), hát Ghẹo (Phú Thọ)… rất phong phú về nội dung và đa dạng về cách thức diễn xướng, có thể phân thành ba loại: a. Lối hát Giao duyên gắn liền với tục kết nghĩa (kết chạ, kết hiếu, kết bạn…) làng xã. b. Lối hát Giao duyên gắn với tục thời vụ, nghề nghiệp. c. Lối hát Giao duyên trong sinh hoạt hàng ngày giữa trai gái. Hát Giao duyên tuy cũng có xuất hiện tản mạn trong hát hò - lao động, hát nghi lễ - phong tục, hát sinh hoạt, nhiều khi thành hoạt cảnh múa hát (như xin hoa - đố chữ trong hát Xoan…) nhưng chỉ là một phần phụ thuộc. Hát Quan họ (Bắc Ninh) là một sản phẩm âm nhạc dân gian đặc biệt. Vùng Quan họ rộng gần 60 km2 gồm 50 làng thuộc các huyện Tiên Sơn, Yên Phong, Tan Yên và thị xã Bắc Ninh(1) Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý - Quan họ, Nguồn gốc và quá trình phát triển NXBKHXH. H. 1978. . Hát Quan họ là loại dân ca giao duyên nhiều giọng điệu, Sinh hoạt hát Quan họ có lề lối nghi thức và tổ chức tập thể gọi là Quan họ. Mỗi Quan họ thường gồm khoảng 10 người toàn nam hoặc nữ, có anh Cả, chị Cả đứng đầu. Một làng có thể có một hoặc nhiều Quan họ. Xưa Diềm (Viêm Xá) có 6 bạn nam, Thị Cầu chỉ có một Quan họ nam, Nhồi (Hoà Bình) chỉ có một Quan họ nữ. Trai Quan họ mặc áo lụa, áo the, quần trắng “ống sớ”, khăn xếp, ô lục soạn. Gái Quan họ mặc áo mớ bẩy mớ ba tứ thân nhiễu điều, nhiễu tía, yếm đào cổ xẻ, thắt lưng hoa đào, hoa lý, váy lụa, váy chồi thâm, nón thúng quai thao, nón ba tầm, đeo khuyên vàng, khuyên bạc, xà tích ống vôi bạc. Thường các Quan họ cùng làng không hát với nhau mà tìm kết bạn chính thức với Quan họ khác giới thuộc làng khác và chỉ với một mà thôi. Điều đáng lưu ý là trai gái Quan họ kết nghiã không bao giờ lấy nhau. Hát Quan họ thường được tổ chức vào dịp hội đình, hội chùa, đám khao, đám cưới. Trong giao tiếp, theo tuổi tác mỗi Quan họ có xếp thứ bậc để gọi, từ Anh Cả, chị Cả, đến anh Hai, chị Hai… cho đến hết. Cách ăn nói với nhau bao giờ cũng rất lịch sự, lễ phép bằng một điều thưa, hai điều gửi, một điều liền anh, hai điều liền chị, một điều anh cả, chị cả, anh hai, chị hai,… Ngay khi mời ăn cũng nói. “Hôm nay, liền chị đã có lòng sang chơi bên đất nước nhà em, anh em nhà em chạy được mâm cơm thì đầu mâm đĩa muối, cuối mâm đĩa vừng, mâm nan, bát đàn để xin được mời đương Quan họ dựng đũa lên chén, để anh em nhà em được thừa tiếp”. Sinh hoạt Quan họ ngày hội, ngày đám thường vào ban ngày ở những địa điểm gần như: Cửa đình, sườn đồi, bờ suối… Những nơi có điều kiện thì tổ chức hát trên thuyền. Hát ngoài trời dù mưa dù nắng, trai thường che ô, nữ thường đội nón. Hát Quan họ thường theo quy trình: - Giai đoạn I mở đầu: Hát giọng Lề lối (các bài Phong thư, Gửi thư, Thơ đúm, Đàn đúm, Hừ la, La rằng, Tôi rằng, Bạn lan, Cây gạo… Chuyển sang giọng Sổng (các bài hát cho thông giọng). - Giai đoạn II - Hát giọng Vặt: Đây là giai đoạn hát, âm nhạc không đơn điệu như ở Lề lối mà phát triển phong phú, nhiều vẻ, tinh tế, đa dạng. - Giai đoạn III - Giã bạn: Kết thúc. Lối hát Quan họ cứ từng nhóm hai người một bên, nam cũng như nữ, người hát phụ coi như “luồn giọng”. Bên nam hát một bài, bên nữ hát đối lại cùng bài nhưng lời khác. Ví dụ: Nam hát bài: Thuyền thúng - Nữ đối lại bài: Lúng liếng. Hai bài này nhạc điệu giống nhau nhưng khác lời. Hát Quan họ tuy lấy “đối giọng” là chính, nhưng vẫn có thể kết hợp cả “đối ý”, như bên nam hát Bốn mùa - bên nữ hát Bốn phương, hoặc bên nam: Ba mưới sáu thứ cây - bên nữ: Ba mươi sáu thứ chim. Do yêu cầu “đổi ý” nên “đổi giọng” cũng được châm chước như: Nam: Mười nhớ - Nữ: Mười thương dù khuôn khổ nhạc điệu không cùng). Trong hát Quan họ đã có sự “biến cách” trong quy luật “đổi giọng” như Mười nhớ - Mười thường và một số bài trong Giã bạn. Do có quy luật đổi giọng nên nhiều điều hát khác thể loại cũng được tiếp thu và phát triển như: Lý Cây đa có thêm: Chẻ tre đan nón, Trèo lên quan Dốc,…Lý hoài xuân có thêm: Trèo lên trái núi Thiên Thai, Tranh treo ba bức tình đôi ta,… Cũng từ đây, Quan họ có giọng Ai, nghe buồn, vì xây dựng trên giai đoạn của Kể hạnh trong nhà chùa, Lâm khốc trong đám ma,… Điệu Bắt bài hát nguồn từ một điệu hát Tuồng như: Bài Phùng quan tế hội, dùng toàn lời chữ Hán: Điệu Thuỷ đường là một điệu dân ca vùng Móng Cái (Quảng Ninh); Điệu Mười cua từ điệu Sa mạc và Ru hời; Điệu Ca đàn từ bài hát Thu trên đảo Kinh Châu của nhạc sĩ Lê Thương; Điệu Cò lả trong bài Giã bạn… Hát Quan họ là một hình thức ca bắt nguồn từ lối hát Giao duyên mộc mạc, đơn giản xa xưa, như hát Đúm,…mà phát triển. Gặp môi trường văn hoá thuận lợi của Bắc Ninh, vùng cửa ngõ kinh thành Thăng Long, nơi giao tiếp của các luồng văn hoá Đồng Bằng, miền Núi, Trung du, miền Biển, miền Trong và có vốn nghệ thuật dân gian phong phú, vốn sinh hoạt văn hoá đa dạng (Chèo, Tuồng, Hát nhà tơ, Hát Chầu văn, Kể hạnh, Chèo Chái hê, hát Trống quân…) nên đã trở thành một loại hình âm nhạc giao duyên độc đáo trong nền văn hoá Đồng Bằng Bắc Bộ và Việt Nam. Đặc điểm âm nhạc Quan họ được cấu trúc theo mô típ “lèo lượn” (như thêu) nối tiếp từ thấp lên cao hoặc từ cao xuống thấp, kết hợp với nhịp độ chậm. Hát Quan họ dùng hơi cổ đưa âm thanh phát ra ngoài, không giữ âm thanh lại trong lồng ngực để ngân dài, nên để đưa hơi đã dùng phụ âm “h” (hì, hi, ha…) bên cạnh các nguyên âm khác, nên những chỗ đưa hơi phải chuyển động “lèo lượn” hoặc chia nhỏ cao độ và nhấn trọng âm. Nghệ nhân gọi là “Hơi hột”. Những thủ pháp này đã làm cho hát Quan họ được thanh thoát và mềm mại. Hát Quan họ luôn thu hút các luồng dân ca khác để phát triển, nên thường thích ứng kịp thời với yêu cầu thẩm mỹ thời đại. Gần đây hát Quan họ đã ngắn gọn, khoẻ và nhanh hơn. Đó là những mặt mạnh của hát Quan họ. Hát Ghẹo là một loại hát Giao duyên nổi tiếng lâu đời ở các xã Bình Dân, Mê Linh (huyện Tam Nông) và Hùng Nhĩ (huyện Thanh Sơn) tỉnh Phú Thọ. Hàng năm khi các làng kết nghĩa mở hội, dân làng kén chọn con trai hoặc con gái làng, giỏi ca hát, có giọng tốt để ôn luyện trước khoảng một tháng. Nếu làng đón “nước nghĩa” thì dùng các cô gái do một bà trùm ra tiếp và ca hát. Còn nếu đi dự hội làng kết nghĩa thì làng cử các chàng trai do một ông trùm hướng dẫn. Nhóm hát Ghẹo cũng cùng đi trong đoàn đại diện của làng như thành viên. Đến tối, hai nhóm của hai làng kết nghĩa trải chiếu trong căn nhà rộng hát với nhau suốt sáng. Họ hát từng đôi nam, đôi nữ, đồng âm đơn điệu. Hát đôi để đỡ giọng cho nhau và mở rộng âm lượng. Cuộc hát thường được chia ra ba chặng: - Chặng thứ nhất: Ví trầu: Giọng ví lấy “đối câu”, “đối lời’ làm chính. - Chặng chứ hai: Giọng Sổng: Giai điệu mang tính ngâm ngợi, bày tỏ nỗi niềm tâm sự, ước vọng về hạnh phúc lứa đôi. - Chặng thứ ba: Song giọng: là chặng phong phú nhất, gồm nhiều làn điệu, nhiều nội dung, đề tài khác nhau xoay quanh chủ đề tình yêu. Ở chặng thứ nhất và chặng thứ ha, hai bên hát dựa vào làn điệu đã có, chỉ thay đổi lời như: Cứ hết bài giọng ví thì chuyển sang giọng Sổng - Rồi chuyển “Song Giọng”. Ở chặng thứ ba, hai bên nam nữ đối đáp bằng hết các bài của một điệu rồi mới chuyển sang các bài thuộc điệu khác. Hát lấy “đối giọng” là chủ yếu, nhưng vẫn kết hợp “đối lời’. Những điệu hát ở chặng này phần lớn là những ca khúc có chủ đề độc đáo, cấu trúc hoàn chỉnh, nhưng cũng có “biến tấu” như: Khuynh hướng Tên bài Người hát Số lần hát: khuynh hướng (bằng chữ cái) Tổ khúc Hoa thơm Nam A A2 Biến tấu Hoa thơm Nữ A1 A3 Tổ khúc Trèo lên Quán Dốc Nam A A2 Biến tấu Trèo lên Quan Dốc Nữ A1 A3 Tổ khúc Cái ruộng năm sào Nam A Cái ruộng năm sào Nữ A1 Tổ khúc Thuyền ai róc rách Nam A Thuyền ai róc rách Nữ A1 Bên cạnh những bài hát ở thang âm thuần nhất, cũng có nhiều bài ở thang âm khác nhau, tạo ra điệu thức khác nhau. Sự biến động và điệu thức này một phần do sự biến động của phát âm khi hát, như bài “Thuyền ai róc rách”. Hát Ghẹo, với tên gọi nôm na được nhiều địa phương khác dùng gọi lối hát Giao duyên của địa phương mình, như: Hát Ghẹo Sơn Tây, Hát Ghẹo Thanh Hoá… Hát Ghẹo Phú Thọ gắn với tục kết nghĩa giữa các làng, ít nhiều mang tính cách của âm nhạc “Phòng khách”, có hơi hướng mang tính chất thi thố tài năng, nên luôn phát triển, dùng thủ thuật “đổi giọng” để đưa lối hát Giao duyên đơn điệu trở thành lối hát Giao duyên đa điệu. Sự phát triển của hát Ghẹo (Phú Thọ) phần dựa vào chất liệu sống với bài bản sẵn có để biến tấu được xem là vốn bài gốc, “giọng nội”. Phần thu nạp những điệu hạt dân gian khác, chuyển hoá làm giầu cho mình, là vốn bài tiếp thu, “giọng ngoại”. Dạng hát Giao duyên gắn với thời vụ, nghề nghiệp trong sinh hoạt hàng ngày, thường được gọi là hát Trống quân, hát Đúm, hát Ví… được tổ chức vào những đêm mùa cấy, mùa cầy hàng năm giữa các toán nữ thợ cấy và các trai thợ cầy, thợ mạ đến làm thuê trong làng. Thời gian lao động này kéo dài khoảng hai tháng. Cuộc hát gồm hai bên nam, nữ. Hát đối giọng, đối lời, đối làn, đối điệu, hát tự do. Ngoài ra các cuộc hát còn được tổ chức vào dịp nông nhàn, nhất là tháng bảy, tháng tám Âm lịch, lúa mùa đã cấy, không khí mát mẻ, không có mưa, nắng hanh, đêm trăng sáng, trời đầy sao. Trai gái trong làng rủ nhau hát ở ngoài trời, trên sân rộng hay một bãi cỏ… vào ban đêm. Trống quân là tên gọi của một điệu hát dùng lời thơ sáu tám, giai điệu biến đổi theo dấu giọng và nhắc đi nhắc lại suốt bài. Hát Trống quân lấy đối lời, đối ý là chính nên tiếng đệm lót không nhiều. Cũng có làng đưa th hát Trống quân làm một tiết mục của Hội làng. Lúc này trai gái của nhiều làng có thể tham gia thi tài… Người ta khoét một hố sâu ở giữa bãi, trên mặt úp kín một mảnh ván nhỏ hay mảnh tôn hoặc đặt một thùng sắt úp ở giữa sân, hai bên thùng đóng hai cọc có khoảng cách bằng nhau độ 3 đến 5m, tới nơi ngồi của bên nam và nữ, căng một giay thép buộc giữa hai đầu cọc, chạy qua mặt thúng trên đầu một que chống từ đáy thúng hay mặt ván lên vừa căng giây vừa thay “ngựa đạn” mà hố và thùng là trống, là hòm cộng hưởng. Khi hát, người ta dùng que gõ vào dây phía mình để tạo tiếng “trống” làm nhịp lưu không, báo hiệu mở đầu và kết thúc bài hát. Hát Đúm thường được coi như một sinh hoạt giải trí (trừ hát thi), thỉnh thoảng cũng được người nghe tặng thưởng khuyến khích những giọng hát hay, những câu đối đáp tài giỏi. Tất nhiên buổi hát nào cũng có thủ tục mở đầu chào hỏi và tạm biệt kết thúc. Cuộc hát Giao duyên tự do thường được kéo dài tới gần sáng, nêu hai bên ngang tài ngang sức và hát xen kẽ nhiều điệu khác như: Ví, cò lả, lý, đúm… để cho bớt phần đơn điệu, bao giờ cũng có mở đầu, kết thúc và phần chủ yếu của nội dung cuộc hát vẫn là điệu Trống quân. Hát Ví là loại dân ca đồng ruộng vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, đư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHOA (48).doc