Luận văn Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung bộ

Nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu trong khung cảnh làng xã đã tồn tại ở Việt

Nam hàng ngàn năm. Mặc dù hiện nay, kinh tế nước ta đã có bước phát triển rõ rệt, nhất

là từ lúc giai đoạn thực hiện đổi mới, nhưng nhìn chung, nền kinh tế vẫn còn lạc hậu so

với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã

tạo những bước đổi thay trong xã hội, nhưng lối tư duy của nền sản xuất nhỏ vẫn còn in

đậm trong mỗi con người; do đó nó đã ảnh hưởng rất lớn đến tư duy của con người Việt

Nam nói chung, con người Bắc Trung bộ và đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt

ở khu vực này.

pdf96 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3102 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến ý thức, động cơ hoạt động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Người có động cơ không trong sáng, trong hoạt động, học tập, rèn luyện chỉ vì lợi ích cá nhân, trước mắt, lợi ích cục bộ... thì khó có thể rèn luyện được năng lực tư duy lý luận sắc bén. Hoặc có được năng lực tư duy lý luận tốt những người đó có động cơ không trong sáng thì cũng chỉ là "người có tài mà không có đức thì cũng trở thành vô dụng". 2.1.2.3. Sự cố gắng, nỗ lực của chủ thể Bao giờ cũng vậy, khả năng của mỗi người là sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố sinh học, trình độ tư duy và cả thái độ rèn luyện để nâng cao khả năng đó. Thực tiễn cho thấy rằng, người cán bộ lãnh đạo nào càng cố gắng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, càng tham gia vào hoạt động thực tiễn xã hội càng nhiều thì càng có nhiều cơ hội phát triển năng lực nói chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng. Còn cán bộ nào ỷ lại vào tri thức bản thân, tự thỏa mãn về khả năng của mình, không chịu rèn luyện, học tập thì năng lực đó không thể phát triển mà ngày càng bị thui chột. Sự phấn đấu vươn lên về mọi mặt của chủ thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc rèn luyện, trau dồi năng lực tư duy lý luận của họ. Điều này thể hiện ý chí phấn đấu, ý thức rèn luyện vươn lên; ở tấm lòng trung thực trong việc phát triển lý luận, tinh thần tổng kết kinh nghiệm, nâng kinh nghiệm thực tiễn trở thành lý luận, bảo vệ lý luận… 2.1.2.4. Hoạt động thực tiễn của chủ thể Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tư duy lý luận của con người. Thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực của nhận thức, của lý luận mà còn là cơ sở, nguồn gốc sâu xa và động lực của mọi năng lực của con người. Chỉ có thông qua hoạt động mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn con người mới làm bộc lộ những năng lực của mình. Cũng thông qua hoạt động thực tiễn mà mà năng lực của con người mới được phát huy tối đa, mới có điều kiện cọ xát, trau dồi, rèn luyện, phát triển. Người nào tham gia hoạt động thực tiễn nhiều, thì càng có cơ hội phát triển năng lực tư duy lý luận. Ăngghen đã chỉ rõ, "… việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất, của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [32, tr.720]. Như vậy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt động thực tiễn mà con người có được những hiểu biết, những tri thức về hiện thực khách quan và phát triển những năng lực của mình. Mọi tri thức, năng lực của con người, nhất là năng lực tư duy lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Hơn nữa, sự phát triển liên tục, không ngừng của thực tiễn luôn luôn đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi con người phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện quy luật vận động, phát triển của sự vật, hình thành những phương thức, nội dung mới trong năng lực tư duy hướng về việc phát hiện và giải quyết các vấn đề theo yêu cầu của thực tiễn. Như thế, trong hoạt động thực tiễn, năng lực trí tuệ con người nói chung, năng lực tư duy lý luận nói riêng được phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn năng lực tư duy lý luận, đặc biệt là khả năng xác lập tri thức và đối tượng hóa tri thức của con người mới được hình thành và cũng thông qua đó mà những năng lực ấy mới được trau dồi, phát triển. Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau. ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử – xã hội, mà ngay trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối. Những điều kiện, hoàn cảnh và nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác động đến năng lực tư duy lý luận. Nếu những yếu tố trong hệ thống ấy cùng tác động đến năng lực tư duy lý luận theo một chiều tích cực sẽ có tác dụng phát triển năng lực tư duy lý luận nhanh chóng hơn. Ngược lại, sự tác động không thuận chiều giữa các yếu tố trong hệ thống sẽ làm cho năng lực tư duy lý luận khó có khả năng phát triển. Tuy nhiên, phải thấy rằng các yếu tố đó có vai trò, tác dụng, có mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đối với năng lực tư duy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Như vậy, hoạt động thực tiễn chính là nguồn gốc sâu xa của mọi năng lực của con người, là cơ sở chủ yếu của năng lực tư duy lý luận. 2.2. Thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Bắc Trung bộ (qua thực tế tỉnh Quảng Trị) 2.2.1. Một số đánh giá khái quát Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, về cơ bản đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở khu vực Bắc Trung bộ nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị nói riêng đã có nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hiệu quả lãnh đạo, quản lý. Họ có ý thức tốt trong việc học tập, nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, rèn luyện bản thân, lăn lộn với thực tiễn cuộc sống; đã xác định đúng sự cần thiết, mục đích của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, vấn đề này chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức. Trên thực tế, kết quả lãnh đạo, quản lý vẫn còn bất cập. Bỡi lẽ, trình độ của đội ngũ cán bộ này chưa cao, được đào tạo từ nhiều nguồn lại không cơ bản. Trình độ tư duy lý luận còn hạn chế, vẫn bị ảnh hưởng nặng bởi bệnh kinh nghiệm, bệnh chủ quan của chủ nghĩa thành tích cùng với thói quen ỷ lại, trông chờ vào sự chỉ đạo của Trung ương cũng như sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã tác động tiêu cực tới đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, đã làm ảnh hưởng tới hiệu quả lãnh đạo, quản lý của họ. Quảng Trị là một tỉnh nghèo, điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội hết sức khó khăn. Nhưng điều đó không phải là lý do chính cho sự kém phát triển. Một số tỉnh có điều kiện khá khó khăn như Quảng Trị, nhưng vẫn phát triển, trong khi đó, một số tỉnh khác có điều kiện tốt hơn nhưng thu hút đầu tư, chỉ số cạnh tranh thấp hơn nhiều. Thực tế chứng tỏ rằng, bên cạnh những yếu tố khách quan khác thì năng lực lãnh đạo, quản lý, trong đó có năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có ảnh hưởng to lớn đối với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi địa phương. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Quảng Trị hiện nay là lực lượng nòng cốt chỉ đạo quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Họ là những người đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai, vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Trung ương vào địa bàn tỉnh. Đến tháng 4 năm 2009, qua các lần bổ sung, thay đổi, số ủy viên Ban chấp hành đảng bộ tỉnh Quảng Trị là 48 người, trong đó phụ nữ là 02, chiếm 4,2% (thấp hơn trung bình toàn quốc: 11%). Cán bộ là người dân tộc thiểu số là 02 người. Như vậy, có thể thấy rằng, đội ngũ cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị thiếu sự cân bằng về giới tính, số lượng cán bộ thuộc đối tượng ưu tiên từ chính sách dân tộc là quá ít. Trên địa bàn một tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, đặc biệt là có số lượng đông đảo người dân tộc Pakô, Vân kiều mà đội ngũ cán bộ đại diện cho họ chỉ là 02 người thì đây là điều bất cập. Điều này có thể bắt nguồn nhiều lý do, trước tiên là do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tư duy lý luận và cả kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ này chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của tỉnh; điều dễ thấy nữa là do những hạn chế mang tính chất đặc trưng của họ như: giới tính, ngôn ngữ, khả năng nhạy bén… đã làm cho số lượng này chưa thể nâng lên được. Qua khảo sát, về độ tuổi trung bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị: từ 36 – 45 tuổi chỉ có 03 người (chiếm: 6.2%), từ 46 – 55 tuổi là 25 người (chiếm 52.1%), từ 56 – 60 có 20 người (chiếm 41.7% – tỉ lệ này của cả nước chỉ có 24%, cá biệt còn có một số tỉnh dưới 10% như An Giang, Kiên Giang…), không có ai thuộc lứa tuổi từ 18 – 35 và trên 60. Như vậy, theo độ tuổi, thì tuổi trung bình của đội ngũ này là: 54,15 tuổi. Nếu tính giai đoạn chín muồi nhất của tư duy ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt là từ 45 – 50 tuổi, thì cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị là những người có độ tuổi trung bình khá cao. ở lứa tuổi này, họ là những người có nhiều kinh nghiệm sống và kinh nghiệm công tác, đảm bảo sự lãnh đạo vừa chắc chắn đúng hướng, nhưng lúc này cũng là giai đoạn mà sức ỳ của tư duy phát huy tác dụng, độ nhạy bén, phản xạ nhanh nhẹn trong các tình huống chính trị đã đi xuống, khả năng tiếp thu và xử lý thông tin kém chính xác hơn so với tuổi trẻ, lúc này cũng là lúc mà chủ nghĩa kinh nghiệm bắt phát huy tác dụng và tác động, ảnh hưởng đến tư duy và cả hoạt động của con người. Thiếu sức bật trong tư duy sẽ là điều kiện dẫn đến sự thiếu táo bạo trong đề xuất đường lối, chủ trương lãnh đạo của tỉnh. Và như vậy, hiệu quả công việc sẽ không được cao. Một trong những vấn đề đặt ra nữa là lực lượng kế cận của đội ngũ cán bộ chủ chốt thiếu trầm trọng. Nếu không có biện pháp quy hoạch ngay từ lúc này, thì chỉ vài năm nữa thôi, số lượng lớn cán bộ đến tuổi về hưu sẽ để lại một khoảng trống cho tỉnh khó mà thay vào được. Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này được thể hiện chủ yếu ở: năng lực tiếp thu lý luận, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; năng lực suy nghĩ, tìm tòi phát hiện những vấn đề mới trong thực tiễn ở địa phương; năng lực vận dụng linh hoạt sáng tạo lý luận, đường lối để xây dựng các phương hướng, các mô hình, chương trình, kế hoạch phù hợp với thực tế địa phương; năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo cũng như tổng kết kinh nghiệm rút ra các bài học để góp phần xây dựng, bổ sung cho đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước; năng lực xử lý thông tin, dự báo về sự phát triển của địa phương. Đó cũng chính là những tiêu chí có thể căn cứ vào để đánh giá về ưu điểm cũng như hạn chế về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. 2.2.2. Những ưu điểm về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Quảng Trị Thứ nhất, nắm vững lý luận, thường xuyên được giáo dục, nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Số liệu thống kê cho thấy, năm sinh của lực lượng cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị từ 1949 – 1963 có đến 45 người, chiếm 93,75%, 03 người còn lại đều sinh trước năm 1968. Điều đó cho thấy rằng, tất cả cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị đã được sinh ra, lớn trong cuộc chiến tranh vệ quốc, họ đã được thử thách, rèn luyện và trưởng thành qua thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và trong quá trình xây dựng phát triển đất nước. Họ đã trãi qua những giờ phút gian khó và hào hùng nhất của đất nước, họ đã biết được cái giá để đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Số cán bộ được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng từ 21/7/1954 đến 30/4/1975 có 13 người, (chiếm 27,1%), còn lại là từ 01/5/1975 đến nay. Con số này nói lên rằng, phần nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị sớm giác ngộ, đi theo con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Trong quá trình ấy họ đã được giáo dục, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp của truyền thống yêu nước, cần cù trong lao động... Sau khi đất nước thống nhất, họ lại được đào tạo tương đối có hệ thống về chuyên môn trong các nhà trường XHCN, về trình độ lý luận chính trị trong hệ thống Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và trường chính trị tỉnh. Cho nên, đội ngũ cán bộ này có nhạy cảm chính trị, bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức trách nhiệm cao, kiên định đường lối đổi mới theo định hướng XHCN, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Tất cả những điều ấy được hun đúc nên từ nhiều yếu tố như: tâm lý, tình cảm, truyền thống, năng lực tư duy lý luận,… Trong đó, năng lực tư duy lý luận đóng vai trò quan trọng. Bởi lẽ, nhờ có năng lực tư duy lý luận, họ mới hiểu đúng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, hiểu được xu thế của thời đại. Vì vậy, họ vững vàng, kiên định lập trường cách mạng, họ tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường CNXH. Đứng trước hoàn cảnh tình hình quốc tế đầy biến động, đòi hỏi cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Đây là điều kiện tiên quyết để phong trào cách mạng đi đúng hướng, nhất là những thời điểm khó khăn phức tạp. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh ở Quảng Trị đã đáp ứng được yêu cầu này. Hiện nay, trước những khó khăn phức tạp của tình hình quốc tế cũng như trong nước, không ít cán bộ có quan điểm dao động về định hướng chính trị, cho rằng: Việt Nam muốn thoát khỏi lạc hậu, bắt kịp các quốc gia hùng mạnh trong khu vực cũng như thế giới thì hãy phát triển đất nước một cách tuần tự, trước tiên phải theo con đường tư bản chủ nghĩa. Những lý do mà họ đưa ra là chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa; cách mạng khoa học, công nghệ phát triển, toàn cầu hóa kinh tế là do chủ nghĩa tư bản điều khiển, kinh tế thị trường không thể đi đôi với CNXH … Đây không chỉ là vấn đề khoa học mà còn là vấn đề lập trường, tư tưởng. Phải giải quyết vấn đề này mới đảm bảo vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt. Bản lĩnh của cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị thể hiện ở chỗ, họ là người luôn đảm bảo nguyên tắc định hướng XHCN trong hoạt động lãnh đạo, trong các quyết định phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Họ luôn là những người đi đầu, gương mẫu trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Họ luôn thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Họ không hoang mang, dao động, kiên trì lãnh đạo cấp dưới và quần chúng nhân dân trên địa bàn thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng. Rõ ràng, để có bản lĩnh chính trị như vậy, đội ngũ này phải có đức và tài. Trong tài của họ phải có các phẩm chất trí tuệ, năng lực tư duy lý luận. Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước khi đã thấm nhuần vào nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh không những là nền tảng cho lập trường chính trị vững chắc mà còn tạo cho họ sự nhạy cảm và bản lĩnh chính trị nhất định. Vấn đề này thể hiện ở chỗ đã xuất hiện những quyết định táo bạo có tính chất “đi trước” so với các tỉnh khác trên địa bàn cả nước. Chẳng hạn như: hình thành khu kinh tế đặc biệt miễn thuế vùng biên giới, thành lập làng thanh niên lập nghiệp ở Bãi Hà (Vĩnh Linh), phát triển dân sinh tại đảo quốc phòng Cồn cỏ, xây dựng thị xã Quảng Trị thành đơn vị văn hóa điển hình … Kết quả, sau 20 năm tái lập tỉnh (1989 – 2009), Quảng Trị đã đạt được một số thành tựu kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng nhất định; đã góp phần quan trọng tạo nên sự chuyển biến thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng Bắc Trung bộ và cả nước. Có thể thấy rõ điều này khi trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước do tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính thế giới, thời tiết không thuận lợi, đầu tư giảm sút, thị trường thu hẹp, … nhưng tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Trị vẫn phát triển khá: mức tăng trưởng kinh tế khá cao, thu ngân sách nhà nước và huy động vốn đầu tư khá. Các chương trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được quan tâm chỉ đạo thực hiện với những giải pháp tích cực, quyết liệt. Đời sống nhân dân cơ bản giữ được ổn định, các chính sách hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội được tăng cường và đã phát huy tác dụng, giải quyết được một phần khó khăn cho nhân dân. Tốc độ tăng tưởng GDP liên tục tăng, giai đoạn 1996 – 2000 là 8,5%, 2001 – 2005 là 8,7%, 2006 – 2008 là 10,8%. GDP bình quân đầu người năm 2000 chỉ có 2,92 triệu đồng, năm 2005 là 5,16 triệu đồng, đến 2008 là 11,2 triệu đồng (665 USD), bằng 65% so với cả nước (960 USD) giảm mức chênh lệch 5% so với 2007. Đến năm 2008, tỉ trọng ngành công nghiệp – xây dựng chiếm 31,9%, nông – lâm – ngư nghiệp là 33,5%, ngành dịch vụ đạt 34,6%. Sản lượng lương thực toàn tỉnh năm 2008 đạt 22,6 vạn tấn, sản lượng thủy sản đạt 2,225 vạn tấn. Thu ngân sách trên địa bàn và huy động vốn đầu tư phát triển xã hội tăng khá, đã góp phần quan trọng vào ổn định ngân sách và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của tỉnh. Năm 2008, tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 671,24 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư phát triển xã hội ước đạt 3.300 tỷ đồng. Đời sống tăng lên đã tạo điều kiện phát triển các vấn đề xã hội khác. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở là 99,3% (140/141), tạo việc làm mới cho 8500 lao động, mức giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,062%, tỉ lệ hộ nghèo xuống còn 17,8%, giảm tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống còn 21%. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được chú trọng, đặc biệt là chính sách khám, chữa bệnh cho người nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, gia đình chính sách. Hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện, khu vực được đầu tư nâng cấp nhằm tăng khả năng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Bình quân có 18 giường bệnh/1 vạn dân; 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế; 50% trạm y tế có bác sỹ (thấp hơn bình quân cả nước – 70%). Tỷ lệ che phủ rừng ước đạt 44%. Nhiều công trình quan trọng đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như: công trình thủy lợi – thủy điện, bảo tàng tỉnh, cụm di tích đôi bờ Hiền Lương … Trên lĩnh vực thông tin, truyền thông, mật độ điện thoại đã đạt 65,2 máy/100 dân, thuê bao Internet đạt 2,4/100 dân. Thứ hai, có trình độ chuyên môn khá, trình độ lý luận chính trị cao, đã biết vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào việc xây dựng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội cụ thể trên địa bàn tỉnh, đã phát hiện đúng tiềm năng, đưa các chủ trương phát triển đúng hướng, phù hợp với điều kiện vùng. Trình độ chuyên môn có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng làm việc và năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Qua điều tra cho thấy, số cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị không được đào tạo về chuyên môn là 02 người (chiếm 4,2%), có trình độ trung học chuyên nghiệp là 02 người, cao đẳng là 01 người (chiếm 2.1%), trình độ đại học chiếm số đông: 40 người (83%). Tuy nhiên, trong số cán bộ có trình độ đại học thì đã có 08 cán bộ lựa chọn loại hình đào tạo là tại chức, 05 cán bộ học từ xa, 05 cán bộ khác chỉ có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức đại học. Đặc biệt, đã có 03 người tốt nghiệp sau đại học, một trong đó là tiến sĩ. So với trung bình chung của cả nước, thì tất cả các chỉ số trình độ chuyên môn đều thấp, cả nước có 6.0% có trình độ trung cấp, 2,8% trình độ cao đẳng, 81,4% đại học, 5,7% là thạc sĩ và 4,1% là tiến sĩ. Như vậy, trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị là không cao và không đồng đều. Trừ những cán bộ được học đại học chính quy và sau đại học ra thì năng lực làm việc của những người còn lại sẽ còn nhiều hạn chế. Trong quá trình công tác, đội ngũ này sẽ gặp không ít khó khăn khi phải giải quyết các vấn đề lý luận lẫn thực tiễn. Khả năng đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm, tính chủ động của những cán bộ này trong công tác chưa cao. Thậm chí, một số cán bộ do không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực đang công tác (do việc bố trí, luân chuyển cán bộ không hợp lý) nên trong lãnh đạo, quản lý còn giải quyết sai nhiều vụ việc. Vì vậy, việc không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý chủ chốt vẫn là yêu cầu cấp thiết. Trình độ lý luận chính trị có ảnh hưởng nhiều đến năng lực tư duy lý luận. Người có năng lực tư duy lý luận phải có khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa cao. Họ phải rút ra được cái bản chất giữa vô vàn hiện tượng, cái phổ biến giữa vô vàn cái đặc thù của tự nhiên và xã hội. Họ phải có khả năng lý luận cao, phải biết tổng kết thực tiễn, nâng tầm tư duy từ kinh nghiệm lên thành lý luận. Những khả năng đó phải được rèn luyện qua thực tiễn công tác, và học tập ở hệ thống trường chính trị, mà trình độ lý luận chính trị là một trong các bậc thang rõ nhất để đánh giá. Qua số liệu thống kê thì chỉ có 01 cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị có trình độ lý luận chính trị là trung cấp, 97,9% cán bộ còn lại có trình độ lý luận chính trị là cao cấp hoặc cử nhân. Con số này của cả nước là 8,9% và 90,8%. Điều này chứng tỏ đội ngũ này đã cố gắng học tập nâng cao lý luận chính trị. Đây là điều kiện quan trọng để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Chính năng lực tư duy lý luận là nhân tố cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, việc gắn liền đào tạo lý luận với quá trình rèn luyện, bồi dưỡng vẫn luôn là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục để tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này được mài sắc trước những vấn đề thực tiễn mới. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận, kết hợp với quá trình rèn luyện, phấn đấu nên họ có năng lực tư duy lý luận nhất định. Do đó, họ có khả năng nắm bắt được thực chất quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong quan hệ khăng khít với những vấn đề đặt ra nơi công tác. Từ đó họ biết huy động kiến thức vốn có của mình để làm sáng tỏ con đường, phương thức để giải quyết một cách một cách tốt nhất những vấn đề nảy sinh ở địa phương. Họ thấy được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Thấy được nhiệm vụ của từng giai đoạn trong tính chỉnh thể của một quá trình phát triển, gắn sự phát triển của tỉnh với vùng và cả nước. Họ đã xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phù hợp với điều kiện ở địa phương với những chỉ tiêu và giải pháp cụ thể, đồng bộ để đạt được chỉ tiêu đó. Các vấn đề ấy thể hiện sinh động việc cụ thể hóa đường lối của Đảng với những nét riêng, độc đáo của tỉnh. Do vậy, sau 20 năm tái lập, tỉnh Quảng Trị đã có những bước phát triển nhất định trên tất cả các mặt kinh tế – xã hội. Điều này góp phần làm cho nhân dân trong tỉnh tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng. Trong tư duy của lực lượng cán bộ bộ chủ chốt cấp tỉnh, lối tư duy tập trung, bao cấp đã dần dần mất đi mà thay vào đó là tư duy kinh tế thị trường. ở họ đã có tính năng động, sự nhạy bén trong các hoạt động chỉ đạo phát triển kinh tế như: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; chỉ ra được phát triển công nghiệp, xây dựng là nhiệm vụ trọng tâm – ưu tiên số một của quá trình công nghiệp hóa, quyết tâm, phấn đấu đưa thương mại, dịch vụ, du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nhờ vậy mà cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng nhanh, tỉ trọng ngành công nghiệp từ 15,08% năm 2000 tăng lên 31,9% trong năm 2008. Từ năm 2000 – 2005 chỉ thu hút 60 dự án với số vốn đăng ký là 2300 tỷ đồng, thì năm 2007 có 27 dự án với số vốn 3722 tỷ đồng, năm 2008 có 36 dự án với số vốn đăng ký là 5200 tỷ đồng. Nhờ đã xác định đúng lợi thế về du lịch của tỉnh như có bờ biển dài với các cảnh quan đẹp, trên địa bàn có nhiều khu du lịch sinh thái hấp dẫn với nhiều di tích văn hóa, lịch sử gắn liền với truyền thống đấu tranh của nhân dân Việt Nam như: Thành cổ Quảng Trị, địa đạo Vịnh Mốc, nhà tù Lao Bảo, căn cứ Khe Sanh, đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải, đường mòn Hồ Chí Minh, Nghĩa trang Quốc gia đường 9, Trường Sơn …; cho nên tỉnh đã tập trung đầu tư, vì vậy mà số lượng khách tham quan tăng vọt từ 9.153 lượt năm 2001 lên 36 vạn lượt năm 2008 (trong đó có khoảng 2,5 vạn lượt khách quốc tế). Thu nhập của ngành du lịch tăng từ 13,9 tỉ đồng lên 600 tỷ đồng. Thứ ba, có kinh nghiệm thực tiễn. Căn cứ vào quá trình công tác, tất cả 48 đồng chí trong Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ đều được trưởng thành từ phong trào thực tiễn ở cơ sở, thời gian làm việc tại đó tương đối dài. Một số cán bộ đã lần lượt nắm giữ các cương vị công tác từ cơ sở, huyện, tỉnh. Số khác được điều động, luân chuyển từ tỉnh xuống cơ sở, hoặc chuyển từ cơ quan này sang đơn vị khác. ở cơ sở, họ đã có những thành tích cao trong công tác, đã được cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43_2951.pdf