Đề tài Nghiên cứu và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý và bền vững cho rong nguyên liệu sản xuất ethanol ở ven biển Nha Trang

Trong chu trình sống của rong Mơ thì giai đoạn sinh sản là quan trọng để quyết định thời gian thu hoạch rong Mơ, để có lợi về sản lượng và có khả năng tái phát triển cho mùa sau. Thời kỳ sinh sản của rong Mơ ở Nha Trang chỉ xảy ra một lần duy nhất trong năm. Thời điểm này là rất khác nhau giữa các vùng nghiên cứu và các loài.

Rong Mơ gai (S. serratum) có thời gian sinh sản sớm nhất ở các vị trí thu mẫu, thường mang thỏi sinh sản trước một tháng so với các loài rong khác của Bãi, Ở Sông Lô và Hòn Chồng rong Mơ gai sinh sản vào tháng 3, ở đảo Bãi Nam thì sinh sản vào tháng 4. Rong Mơ mcclure (S. mcclurei) và rong Mơ nhiều phao (S. polycystum) sinh sản vào tháng 4 ở Hòn Chồng và Sông Lô, nhưng lại sinh sản vào tháng 5 ở Bãi Nam. Rong Mơ binder (S. binderi) sinh sản muộn nhất ở các bãi rong, nó sinh sản vào tháng 5 ở Hòn Chồng và Sông Lô, nhưng lại sinh sản vào tháng 6 tại điểm Bãi Nam. Trong khi đó các loài rong mơ Kuetzing (S. kuetzingii) ở rạn ngầm Grand Bank bắt đầu sinh sản vào tháng 7 và đạt đỉnh cao (100%) vào tháng 8 (Bảng 4.9, Hình 4.9).

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý và bền vững cho rong nguyên liệu sản xuất ethanol ở ven biển Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng điều tra là các loài rong có trữ lượng cao. Phạm vi nghiên cứu là các vùng triều ven bờ và ven đảo ven bờ thuộc vịnh Nha Trang, gồm: Hòn Chồng, Hòn Đỏ, Sông cái, Sông Lô, Hòn Tre, rạn ngầm Grandbank, Đồng Bò (Hình 3.1). Bảng 3. 1. Các địa điểm được nghiên cứu sinh học tại Nha Trang Địa điểm Kinh độ Đông Vĩ độ Bắc 1 Hòn Chồng 109020'05" 12027'77" 2 Sông Lô 109021'04" 12015'97" 3 Xóm Cồn 109020'00" 12026'04" 4 Cửa sông Cái 109020'04" 12025'07" 5 Cửa sông Bé 109021'05" 12018'48" 6 Bãi Nam 109024'05" 12022'94" 7 Rạn ngầm Grandbank 109.29'01" 12030'81" 3.2. Thời gian nghiên cứu: 2010 3.3. Phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Phương pháp nghiên cứu sinh lượng Theo qui phạm nhà nước về điều tra rong biển (UBKH-KT NN, 1981), tại mỗi vùng điều tra, chọn 3-5 mặt cắt thẳng góc với bờ tùy thuộc vào diện tích vùng điều tra (lớn hay nhỏ) mà định ra số mặt cắt, khoảng cách các mặt cắt càng nhỏ càng tốt. Trên các mặt cắt có khoảng từ 3-5 điểm ngẫu nhiên đại diện cho các đai phân bố (trên, giữa và dưới) để đặt các khung sinh lượng có có kích thước 0,5 x 0,5 m, số lượng và khoảng cách giữa các điểm thu mẫu rong và sinh lượng. 3.3.2. Phương pháp tính trữ lượng Trên cơ sở đo đạt tại hiện trường về diện tích và sinh lượng bình quân của các ô tiêu chuẩn, trữ lượng rong được tính theo công thức: P = S x µ Trong đó: S: diện tích khu vực có rong phân bố, tính bằng m2; µ: sinh lượng bình quân của các ô tiêu chuẩn, tính bằng kg tươi/ m2. (Những kết quả tại các điểm nghiên cứu này được dùng làm chuẩn cho việc tổng hợp và nhập số liệu cho bản đồ hiện trạng phân bố nguồn lợi) IV. KẾT QUẢ 4.1. Thành phần loài Qua việc điều tra khảo sát thu mẫu sinh lượng, đã xác định được các loài có trữ lượng lớn: được 23 loài rong biển thuộc 3 ngành rong biển là rong Đỏ (Rhodophyta), rong Nâu (Phaeophyta) và rong Lục (Chlorophyta). Bảng 4.1. Danh mục loài có trữ lượng lớn và nơi phân bố tại Nha Trang TT Hòn Chồng Hòn Đỏ Sông Cái Sông Lô Bãi Nam Sông Bé RHODOPHYTA Gracilaria blodgettii x G. bailiniae x Gelidiella acerosa x Hydropuntia edulis x Gracilaria tenuistipilata x H. eucheumatoides Acanthophora spicifera x Hypnea pannosa x Laurencia concreta x Hypnea valentiae x Prionitis ramossisima x Ahnfeltiopsis flabelliformis x PHAEOPHYTA Chnoospora implexa x Colpomenia sinuosa x Sargassum binderi x Sargassum mcclurei x Sargassum polycystum x Sargassum serratum x Sargassum angustifolium Turbinaria ornata x CHLOROPHYTA Ulva reticulata x Enteromorpha intestinalis x Ulva papenfussii x Tổng số loài: Hình 4.2. Một số loài rong Đỏ phổ biến tại Nha Trang Hình 4.3. Một số loài rong Lục phổ biến tại Nha Trang 4.2. Sự biến động sinh lượng và tỷ lệ cá thể mang cơ quan sinh sản một số loài rong biển tự nhiên tại Nha Trang Sáu địa điểm gồm Hòn Chồng, Cửa sông Cái, Cửa sông Bé, Xóm Cồn, Sông Lô, Bãi Nam được chọn để nghiên cứu biến động sinh lượng, tỷ lệ cá thể mang thỏi sinh sản của một số loài phổ biến và có sinh lượng lớn tại Nha Trang (Bảng 4.1, Hình 4.1-3). 4.2.1. Sự biến động sinh lượng của rong Đỏ Qua khảo sát 6 bãi rong cho thấy tất cả các loài đều có một kiểu phát triển và có một thời điểm cho sinh lượng cao nhất trong năm. Sinh lượng của các loài tại các bãi triều gia tăng theo nhiệt độ ấm hơn và tương quan thuận với nhiệt độ nước bề mặt (r2 = 0.58, p = 0.048, n = 7). Tuy nhiên ở mỗi địa điểm, biến động sinh lượng của từng loài theo thời gian là khác nhau và các đỉnh sinh lượng của từng loài cũng không giống nhau và khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). Kết quả cho thấy rằng sinh lượng cao nhất của các loài phụ thuộc vào sự phân bố theo độ sâu. Các loài phan bố ở vùng triều cao có thời điểm cho sinh lượng cao là sớm nhất và muộn dần theo độ sâu của mực nước thủy triều. Loài Porphyra spp. phân bố ở vùng triều cao có giá trị sinh lượng cao vào tháng 2; Grateloupia asiatica, Gymnogongrus flagelliformis phân bố ở vùng triều giữa có giá trị sinh lượng cao vào tháng 4; Hypnea boergesenii Acanhophora spicifera, Gelidiella acerosa, G. bailiniae phân bố ở vùng triều thấp có giá trị sinh lượng cao vào tháng 5 và Hypnea pannosa, Hydropuntia edulis, H. eucheumatoides phân bố ở vùng dưới triều có giá trị sinh lượng cao vào tháng 6 (Bảng 4.2). Bảng 4. 2. Biến động sinh lượng trung bình (g tươi/m2) của một số loài rong Đỏ tại Nha Trang năm 2010 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Gracilaria blodgettii 24 56 138 248 292 34 0 0 0 0 0 0 G. tenuistipitata 50 76 178 448 492 90 0 0 0 0 0 0 G. bailiniae 64 88 118 260 484 374 0 0 0 0 0 0 Hydropuntia edulis 44 70 134 240 284 374 1048 86 0 0 0 0 H. eucheumatoides 92 176 260 460 640 712 70 44 44 56 60 70 Hypnea pannosa 32 56 60 260 240 292 50 24 24 20 20 30 Hypnea valentiae 50 76 140 200 50 20 0 0 0 0 0 0 Laurencia concreta 30 36 80 160 250 220 112 0 0 0 0 0 Gellidiella acerosa 64 92 136 174 152 196 48 40 44 44 56 60 A. spicifera 44 68 90 174 244 0 0 0 0 0 0 0 Prionitis ramossisima 26 96 520 280 64 0 0 0 0 0 0 0 Ahnfeltiopsis flabelliformis 70 116 240 140 68 0 0 0 0 0 0 0 4.2.2. Sự biến động sinh lượng của rong Nâu Qua khảo sát 4 bãi rong Mơ Sông Lô, Hòn Chồng, Bãi Nam và rạn ngầm Grand Bank đại diện cho các bãi triều đá tại Nha Trang, cho thấy tất cả các đều có một kiểu phát triển và có một thời điểm cho sinh lượng cao nhất trong năm. Tổng sinh lượng của bãi triều gia tăng theo nhiệt độ ấm hơn và tương quan thuận với nhiệt độ nước bề mặt (r2 = 0.58, p = 0.048, n = 7). Sinh lượng chung của các loài rong ở 4 bãi rong trong nghiên cứu này là khác nhau có ý nghĩa thống kê bằng khác nhau đáng kể ANOVA (df=11; f=9,93; p= 0,00037), sinh lượng trung bình ở các bãi rong đều theo khuynh hướng giảm dần theo trình tự rạn ngầm Bãi Cạn Lớn > Bãi Nam > Hòn Chồng > Sông Lô. Trong đó, sinh lượng trung bình cao nhất của rạn ngầm Bãi Cạn Lớn là 7215,5± 333,7g. tươi/m2 (1017,1±63,5g. khô/m2) vào tháng 8, ở Bãi Nam là 2350,7± 123,7g. tươi/m2 (329,1±25,7g.khô/m2) vào tháng 5, ở Hòn Chồng là 1715,5± 233,7g. tươi/m2 (240,1±46,7g. khô/m2) vào tháng 4, ở Sông Lô là 1385,5± 153,7g. tươi/m2 (193,9± 31,6g.khô/m2) vào tháng 4 (Hình 4.4). Tuy nhiên ở mỗi địa điểm, biến động sinh lượng của từng loài theo thời gian là khác nhau và các đỉnh sinh lượng của từng loài cũng không giống nhau và khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). Hình 4.4. So sánh biến động sinh lượng trung bình của rong Mơ ở 4 bãi rong Sông Lô, Hòn Chồng, Bãi Nam và rạn ngầm Bãi Cạn Lớn trong năm 2010 Ở Bãi Nam sinh lượng cao nhất của bãi là 2350,7± 223,7 g. tươi/m2 vào tháng 5, trong đó cao nhất là rong Mơ mcclure 3820,7±211,3 g. tươi/m2 vào tháng 5, thứ nhì là rong Mơ nhiều phao (3040,4 ± 123,7 g. tươi/m2) vào tháng 5, tiếp theo là rong Mơ binder (2600,2 ±257,6 g. tươi/m2) vào tháng 6, và nhỏ nhất là rong Mơ gai (2060,7±112,4 g. tươi/m2) vào tháng 3 (Hình 4.5). Hình 4. 5. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Bãi Nam và riêng cho từng loài: S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin) Ở Hòn Chồng sinh lượng cao nhất của bãi là 1715,5± 233,7g tươi/m2 vào tháng 4, trong đó: cao nhất là rong Mơ gai (2340,8±210,4 g. tươi/m2) vào cuối tháng 3, thứ nhì là rong Mơ mcclure 2201,4±126,3 g. tươi/m2 vào tháng 4, tiếp theo là rong Mơ nhiều phao (1880,5 ± 130,7 g. tươi/m2) vào tháng 4, và nhỏ nhất là rong Mơ binder (1780,5 ±26,6 g. tươi/m2) vào tháng 5 (Hình 4.6). Hình 4. 6. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Hòn Chồng và riêng cho từng loài: S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin) Ở Sông Lô có sinh lượng nhỏ nhất trong 3 địa điểm (sinh lượng cao nhất của bãi là 1385,7± 143,7g. tươi/m2 vào tháng 4, trong đó thứ nhất là rong Mơ mcclure (2380,1±110,3 g. tươi/m2) vào tháng 4, thứ nhì là rong Mơ binder (1740,6 ±156,6 g. tươi/m2) vào tháng 5, tiếp theo là rong Mơ gai (1356,5±247,4 cm) vào cuối tháng 3, và nhỏ nhất rong Mơ nhiều phao (1200,8 ± 163,7 g. tươi/m2) vào tháng 4 (Hình 4.7). Hình 4. 7. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Sông Lô và riêng cho từng loài: S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin) Ở rạn ngầm Bãi Cạn Lớn (Grand Bank) sinh lượng cao nhất của bãi là 7215,5± 333,7g. tươi/m2 vào tháng 8 (Hình 4.8). Hình 4. 8. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Bãi cạn Lớn (Grand Bank) Nhận xét về sinh lượng: Nhìn chung sinh lượng giảm nhanh sau khi sinh sản và biến mất vào khoảng tháng 8 ở các bãi rong ven bờ và tháng 10 ở các rạn đá ngầm. Thời gian đạt sinh lượng khác nhau cho từng loài là kết quả của sự phân bố không gian khác nhau trong bãi triều. Bảng 4. 3. Biến động sinh lượng trung bình (g tươi/m2) của 4 loài rong Mơ theo tháng tại Nha Trang Vị trí Loài 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Hòn Chồng S. serratum 40.6 84.0 327.6 140.0 61.0 2.4 2.7 3.0 8.6 121.2 S. polycystum 18.0 135.0 145.6 263.2 114.8 3.4 4.2 46 S. binderi 5.8 112.8 168.0 221.2 263.2 43.6 29.4 2.4 2.4 25 S. mcclurei 56.0 141.7 230.4 308.0 226.8 9.1 2.6 3.5 4.7 4.7 45.2 Sông Lô S. serratum 31.4 68.0 189.8 106.4 41.4 8.6 121.2 S. polycystum 15.2 23.0 38.4 168.0 37.8 8.4 9.2 11.3 12.8 14.1 14.1 106.8 S. binderi 5.8 28.8 78.4 168.0 243.6 56.4 29.4 2.4 2.4 25 S. mcclurei 56.0 141.7 230.4 333.2 170.8 3.5 4.7 4.7 45.2 Bãi Nam S. serratum 17.8 67.8 288.4 238.0 106.4 1.5 4.3 8.5 S. polycystum 9.0 67.5 219.8 263.2 425.6 7.1 7.1 7.5 S. binderi 2.9 56.4 168.0 193.2 249.2 364.0 58.8 1.8 S. mcclurei 6.6 15.7 324.8 397.6 534.8 2.4 2.4 3.2 Rạn ngầm S. angustifolium 25 345 670 2245 7265 324 4.2.3. Sự biến động sinh lượng của rong Lục Rong Lục phân bố chỉ ở vùng cửa sông, tại Nha Trang rong Lục phân bố nhiều nhất ở từ cử Sông cái đến Ba Làng. Trên bãi triều, Rong Lục phân bố ở vùng triều giữa, vì thế rong bày ra không khí khi triều thấp. Do đó mùa vụ rong Lục rất ngắn, từ tháng 1 đến tháng 5. Vào tháng 6 khi thủy triều thấp vào ban ngày, thì hầu hết rong Lục đều bị phơi khô và chết. Sinh lượng rong Lục cao nhất vào tháng 3-4, trung bình từ 231-4140 g tươi/m2. Bảng 4. 4. Biến động sinh lượng trung bình (g tươi/m2) của một số loài rong Lục theo tháng tại Nha Trang 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Ulva reticulata 1760 2000 4140 3450 800 150 Enteromorpha intestinalis 50 300 1200 1800 2100 Ulva papenfussii 50 100 800 1300 2100 Tổng số loài: 4.2.4. Trữ lượng rong biển tại Nha Trang Qua khảo sát sinh lượng trong năm 2010, cùng với đo đạy diện tích bằng thực địa và kết hợp phân tích ảnh Google map. Trữ lượng các ngành rong biển tại Nha Trang như sau: Khu vực vịnh Nha Trang có diện tích rong Mơ 546,20ha. Rong Mơ phát triển thành thảm với sinh lượng trung bình đạt 571,90g.khô/m2, trữ lượng 4840,4 tấn khô/năm. Rong Đỏ là 231,97 tấn khô và rong lục là 16,53 tấn khô (Bảng 4.5-7). Bảng 4. 5: Trữ lượng rong Mơ khu vực ven biển vịnh Nha Trang tháng 4.2010 Địa danh Diện tích (ha) Độ phủ (%) Sinh lượng (g.khô/m2) Mật độ (cây/m2) Chiều dài cá thể (cm) Trữ lượng (tấn khô) Hòn Rùa 5,625 69,4±8,8 598,7±63,2 42,7±12,3 79,8±38,6 33,63 Bãi Tiên 6,242 66,2±6,8 447,3±41,2 46,5±6,5 67,3±17,3 27,90 Ba Làng, Đường Đệ 16,35 30,5±8,5 810,3±50,3 20,5±12,5 81,5±12,4 73,08 Kê Gà - Lương Sơn 12,17 56,1±8,5 242,3±21,3 44,5±8,5 65,3±15,3 54,40 Nam Hòn Đỏ 2,107 12,5±6,5 249,3±21,7 26,8±8,8 62,3±18,4 9,41 Nam Hòn Chồng 5,728 46,5±15,5 487,3±31,2 55,5±6,5 49,3±15,6 25,60 Tây Mũi Cá Sấu_Trí Nguyên 1,341 63,2±7,7 375,6±26,4 28,2±8,4 75,15±25,3 5,7 Mũi Chụt 0,4872 53,8±6,8 545,6±29,4 43,2±12,4 75,15±25,3 2,1 Sông Lô 8,946 43,8±8,8 467,1±22,4 24,6±7,4 75,8±23,7 29,97 Mũi Nam - Hòn Tre 9,016 84,7±12,3 601,7±63,3 67,6±9,3 80,8±36,4 53,92 Bãi Trũ (Vinpealand) 4,537 72,1±8,3 610,7±63,5 69,9±10,3 85,5±30,6 27,13 Bãi Rạn - Hòn Tre 14,44 74,7±12,4 528,7±43,4 65,7±11,1 81,6±22,6 86,35 Bãi Nghéo - Hòn Tre 17,88 76,3±14,3 555,7±42,2 61,8±15,5 83,3±21,1 106,92 Bãi Bàng - Hòn Tre 14,46 82,5±12,5 578,7±38,2 52,7±14,3 89,8±24,6 86,47 Mũi Đầm Báy 2,778 15,7±2,3 198,7±47,2 12,5±7,3 39,7±18,0 16,61 Bãi Lận 12,7±5,3 238,7±13,2 22,3±8,3 50,8±12,6 7,00 Hòn Một 2,433 7,7±12,3 238,7±63,2 20,4±7,2 39,2±11,6 7,55 Hòn Tầm 1,57 10,2±1,3 248,7±63,2 12,7±6,3 43,8±18,5 9,39 Bãi cạn lớn (Grandbank) 385,5 86,2±8,8 1049,2±52,4 56,2±8,8 261,8±56,2 4043,9 Cộng 546,20 4840,4 Bảng 4. 6. Trữ lượng rong Đỏ khu vực ven biển vịnh Nha Trang tháng 4.2010 Địa danh Diện tích (ha) Độ phủ (%) Sinh lượng (g.khô/m2) Trữ lượng (tấn khô) Hòn Rùa 5,625 118,7±63,2 33,63 Bãi Tiên 6,242 66,2±6,8 122,3±41,2 27,90 Ba Làng, Đường Đệ 16,35 30,5±8,5 210,3±50,3 73,08 Hòn Đỏ 2,107 12,5±6,5 344,3±21,7 9,41 Hòn Chồng 5,728 46,5±15,5 248,3±31,2 25,60 Sông Lô 8,946 Hòn Tre 45.4 11,5±7,4 130,3±31,9 1,21 Sông Bé 1,501 10,5±6,3 260,3±21,5 6,71 Cộng 49,994 231,97 Bảng 4. 7. Trữ lượng rong Lục khu vực ven biển vịnh Nha Trang tháng 4. 2010 Địa danh Diện tích (ha) Độ phủ (%) Sinh lượng (g.khô/m2) Trữ lượng (tấn khô) Ba Làng, Đường Đệ 16,35 30,5±8,5 130,3±50,3 6.50 Hòn Đỏ 2,107 12,5±6,5 345,3±21,7 5.23 Hòn Chồng 5,728 46,5±15,5 180,3±31,2 4.80 Cộng 24,2 16.53 4.3. Sự biến động tỷ lệ cá thể mang cơ quan sinh sản của rong tại Nha Trang Trong chu trình sống của rong biển thì giai đoạn sinh sản là quan trọng để quyết định thời gian thu hoạch rong biển, để có lợi về sản lượng và có khả năng tái phát triển cho mùa sau. Thời kỳ sinh sản của rong biển ở Nha Trang chỉ xảy ra một lần duy nhất trong năm. Thời điểm này là rất khác nhau giữa các vùng nghiên cứu và các loài. 4.3.1. Sự biến động tỷ lệ cá thể sinh sản của rong Đỏ Rong Chủn (Grateloupia asiatica) và rong Cạo (Gymnogongrus flagelliformis) phân bố ở vùng triều giữa bắt đầu sinh sản muộn hơn ở các bãi rong, sinh sản vào tháng 3-4 ở Xóm Cồn. Trong khi đó các loài Hypnea boergesenii Acanhophora spicifera, Gelidiella acerosa, G. bailiniae phân bố ở vùng triều thấp bắt đầu sinh sản vào tháng 4 và đạt đỉnh cao (100%) vào tháng 5 (Bảng 4.8). Riêng các loài Hypnea pannosa, Hydropuntia edulis, H. eucheumatoides phân bố ở vùng dưới triều bắt đầu sinh sản muộn nhất vào tháng 5 và đạt đỉnh cao vào tháng 6, nhưng tỷ lệ các cá thể mang thỏi sinh sản cũng chỉ 45-60% (Bảng 4.8). Có lẽ các loài này bên cạnh hình thức sinh sản hữu tính thì các loài này còn thêm hình thức sinh sản dinh dưỡng bằng các nhánh còn sống sót từ vụ mùa trước. Bảng 4. 8. Biến động tỷ lệ (%) cá thể mang cơ quan sinh sản của rong Đỏ tại Nha Trang năm 2010 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Gracilaria blodgettii 0 0 0 12 88 G. tenuistipitata 0 0 0 33 80 100 G. bailiniae 0 0 23 52 100 Hydropuntia edulis 0 0 0 0 40 60 60 H. eucheumatoides 0 0 0 22 25 45 20 Hypnea pannosa 0 0 0 12 35 55 20 Hypnea valentiae 0 0 45 80 100 Laurencia concreta 0 0 45 80 100 Gellidiella acerosa 0 0 20 64 80 100 A. spicifera 0 0 0 80 100 Prionitis ramossisima 0 12 80 100 100 Ahnfeltiopsis flabelliformis 0 22 80 100 Các loài rong biển ở các vùng nghiên cứu ở các bãi triều ven bờ cũng cho thấy trưởng thành không đồng bộ và lần lược theo thứ tự sau Grateloupia asiatica, Hypnea boergesenii, và cuối cùng là Hypnea pannosa, đều liên quan chặt chẽ đến trình tự phân bố theo độ sâu của chúng. Điều này cũng có thể do ánh sáng đến tầng dưới triều ít hơn và nhiệt độ tăng chậm hơn so với các vùng triều như theo nhận định của Plouguerne et al. (2006). Kết quả củng tương tự với nhận định của Deysher (1984) về vai trò của nhiệt độ nước lên sự phát triển và sinh sản của nhiều quần thể S. muticum, ở môi trường nước ấm hơn sẽ sinh sản sớm hơn những quần thể rong Mơ trong môi trường nước lạnh hơn. Nhận xét về thời điểm về mùa vụ sinh sản rong Đỏ: Tất cả các loài đều có một kiểu sinh trưởng và phát triển. Sinh lượng, khối lượng, chiều dài cá thể đều gia tăng từ cuối mùa Đông cho đến đỉnh cực đại vào các tháng có nhiệt độ nước ấm hơn trong những tháng mùa Hè. Thời kỳ sinh sản của các quần thể Rong Đỏ tại Khánh Hòa có thể chia thành 4 thời điểm về mùa vụ sinh sản theo độ sâu của nền đáy. Ở vùng triều cao, rong Đỏ có giá trị tỷ lệ cá thể trưởng thành về mặt sinh dục cao vào tháng 2. Vùng triều giữa có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 4. Ở vùng triều thấp các loài rong Đỏ có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 4 đến tháng 5. Và ở vùng dưới triều sâu 3-5 mét dưới mực triều rút thấp nhất các loài rong Đỏ có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 5 đến tháng 7. 4.3.2. Sự biến động tỷ lệ cá thể sinh sản của rong Nâu Trong chu trình sống của rong Mơ thì giai đoạn sinh sản là quan trọng để quyết định thời gian thu hoạch rong Mơ, để có lợi về sản lượng và có khả năng tái phát triển cho mùa sau. Thời kỳ sinh sản của rong Mơ ở Nha Trang chỉ xảy ra một lần duy nhất trong năm. Thời điểm này là rất khác nhau giữa các vùng nghiên cứu và các loài. Rong Mơ gai (S. serratum) có thời gian sinh sản sớm nhất ở các vị trí thu mẫu, thường mang thỏi sinh sản trước một tháng so với các loài rong khác của Bãi, Ở Sông Lô và Hòn Chồng rong Mơ gai sinh sản vào tháng 3, ở đảo Bãi Nam thì sinh sản vào tháng 4. Rong Mơ mcclure (S. mcclurei) và rong Mơ nhiều phao (S. polycystum) sinh sản vào tháng 4 ở Hòn Chồng và Sông Lô, nhưng lại sinh sản vào tháng 5 ở Bãi Nam. Rong Mơ binder (S. binderi) sinh sản muộn nhất ở các bãi rong, nó sinh sản vào tháng 5 ở Hòn Chồng và Sông Lô, nhưng lại sinh sản vào tháng 6 tại điểm Bãi Nam. Trong khi đó các loài rong mơ Kuetzing (S. kuetzingii) ở rạn ngầm Grand Bank bắt đầu sinh sản vào tháng 7 và đạt đỉnh cao (100%) vào tháng 8 (Bảng 4.9, Hình 4.9). Bảng 4. 9. Biến động tỷ lệ (%) cá thể mang cơ quan sinh sản của rong Nâu tại Nha Trang năm 2010 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Hòn Chồng S. serratum 30 80 S. polycystum 50 80 S. binderi 100 S. mcclurei 50 100 Sông Lô S. serratum 33 100 S. polycystum 30 85 S. binderi 100 S. mcclurei 60 100 Bãi Nam S. serratum 78 90 S. polycystum 20 80 S. binderi 100 S. mcclurei 10 100 Rạn ngầm S. angustifolium 50 100 Hình 4. 9. So sánh biến động tỷ lệ tản rong mang thỏi sinh sản của 4 loài rong ưu thế S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin), S. kuetzingii (Kuet) tại 4 điểm Hòn Chồng (1), Sông Lô (2), Bãi Nam (3) và rạn ngầm Grand Bank (4) Các quần thể rong Mơ được nghiên cứu cho thấy có khoảng thời gian thành thục trong những tháng có nhiệt độ cao hơn 30oC. Vai trò của nhiệt độ nước lên sự phát triển và sinh sản của nhiều quần thể S. muticum (Deysher 1984). Tác giả nhận xét rằng những quần thể rong Mơ ở môi trường nước ấm hơn sẽ sinh sản sớm hơn những quần thể rong Mơ trong môi trường nước lạnh hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhiệt độ ở Sông Lô và Hòn Chồng cao hơn ở Bãi Nam nên sinh sản các quần thể ở 2 vùng này sớm hơn phù hợp với nhận định của Deysher (1984) và Ang (2006). Tuy nhiên các loài khác nhau trong cùng một địa điểm lại có thời điển sinh sản khác nhau, điều này liên quan đến sự phân bố các tầng nước khác nhau trong vùng triều, mà ở vùng cao có lẽ nhận được ánh sáng nhiều hơn và trưởng thành sớm hơn, phù hợp với Plouguerne et al. (2006), ông giải thích thời điểm sinh sản và tàn lụi của những cá thể loài S. muticum at Westein Brittany (France) trong các độ sâu khác nhau là không đồng bộ chính là sự tương quan chặt chẽ giữa ánh sáng và sinh sản. Các loài rong Mơ ở các vùng nghiên cứu ở các bãi triều ven bờ cũng cho thấy trưởng thành không đồng bộ và lần lược theo thứ tự sau S. serratum, S. polycystum, S. mcclurei và cuối cùng là S. binderi, đều liên quan chặt chẽ đến trình tự phân bố theo độ sâu của chúng. Trong khi đó, ở rạn ngầm rong Mơ S. kuetzingii thường phát triển chậm hơn, cho đến tháng 7 rong mới bắt đầu sinh sản, điều này cũng do nhiệt độ tăng chậm hơn so với các vùng ven bờ như theo nhận định của Plouguerne et al. (2006). Nhận xét về thời điểm về mùa vụ sinh sản: Tất cả các loài đều có một kiểu sinh trưởng và phát triển. Sinh lượng, khối lượng, chiều dài cá thể đều gia tăng từ cuối mùa Đông cho đến đỉnh cực đại vào các tháng có nhiệt độ nước ấm hơn trong những tháng mùa Hè. Thời kỳ sinh sản của các quần thể Rong Mơ tại Khánh Hòa có thể chia thành 3 thời điểm về mùa vụ sinh sản theo độ sâu của nền đáy. Các bãi triều ven bờ với nền đáy cạn dưới 3 mét (đại diện là vùng Hòn Chồng và Sông Lô) có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 5, các các bãi triều ven đảo với nền đáy cạn trên 3 mét (đại diện là vùng Bãi Nam-Hòn Tre) có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6, và các rạn ngầm sâu trên 10 mét có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 7 đến tháng 8. 4.3.3. Sự biến động tỷ lệ cá thể sinh sản của rong Lục Do đặc điểm của rong Lục chưa phân hóa thành các bộ phân chức năng riêng lẽ, tất cả tế bào đều đảm nhiệm nhiệm vụ dinh dưỡng và sinh sản (trừ tế bào bám). Chu trình sống đơn lưỡng tướng sinh-đồng hình: Thể hợp tử (2N) cho ra bào tử động 4 roi (1N) mọc thành tản ở thể giao tử (1N). Thể giao tử (1N) cho ra động bào tử 2 roi (1N). Trên cơ thể cây rong luôn có các tế bào sinh sản, các tế bào già chuyển thành các ổ túi giao tử. Bảng 4. 10. Biến động tỷ lệ (%) cá thể mang cơ quan sinh sản của rong Lục tại Nha Trang năm 2010 TT Loài 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 Ulva reticulata 14 26 32 45 2 Enteromorpha intestinalis 10 20 38 40 2 Ulva papenfussii 12 20 30 35 4.4. Giải pháp khai thác 4.4.1. Rong Đỏ Kết quả nghiên cứu biến động mùa vụ (sinh lượng, hàm lượng Agar/Carrageenan, tỷ lệ số cá thể mang thỏi sinh sản trong quần thể) một số loài rong Đỏ tại các bãi triều tại Nha Trang năm 2010, cho thấy: Sinh lượng của hầu hết các loài có giá trị trung bình cao nhất từ 25-524g khô/m2 trong tháng 2 đến tháng 6 và đồng thời có tỷ lệ cá thể mang thỏi sinh sản cao nhất (45-100%) ở Bảng 3.42 - 43.. Hàm lượng Carbohydrate cũng có một xu thế biến động tăng dần theo thời gian và cho giá trị cao nhất vào trước và trong thời kỳ sinh sản, sau đó giảm dần. Do đó để đảm bảo có nguồn giống cho vụ sau, cần có thời gian cho các bào tử phóng thích ra môi trường, vì vậy việc thu hoạch rong nên tiến hành sau khi sinh sản. Tùy từng loài mà có thời gian thu hoạch từ tháng 2 đến tháng 6. Rong Đông Gai Dày, rong Chủn (Grateloupia) và rong Cạo (Gymnogongrus) thu hoạch vào tháng 4. Rong Câu Chỉ, rong Câu Thắt, rong Câu Cước và rong Câu Rễ Tre thu hoạch vào tháng 5. Rong Câu Chân Vịt và rong Đông Tổ thu hoạch vào tháng 6. Điều này cũng tương tự với nhận định của Buschmann et al. (2005) khi nghiên cứu 2 loài Callophyllis variegata và Chondracanthus chamissoi đã đưa ra thời gian khai thác tự nhiên, mỗi năm hai lần cách nhau 30-45 ngày vào mùa xuân, khi đó cho hàm lượng Carrageenan cao và đảm bảo cho việc phóng bào tử và tái phát triển từ gốc (Buschmann et al., 2005) Alejandro H. Buschmann,1 María C. Hernández-González, Carlos Astudillo, Lucía de la Fuente, Alfonso Gutierrez and Gesica Aroca. 2005. Seaweed cultivation, product development and integrated aquaculture studies in ChileWorld Aquaculture Vol. 36 No. 3: 51-53 . Bảng 4. 11. Thời gian có thể bắt đầu khai thác một số loài rong Đỏ tại Nha Trang Loài rong Tháng 1 2 3 4 5 6 Rong Đông Gai Dày, x Rong Chủn x Rong Cạo x Rong Câu Chỉ x Rong Câu Thắt x Rong Câu Cước x Rong Câu Rễ Tre x Rong Câu Chân Vịt x Rong Đông Tổ x 4.4.2. Rong Lục Do mùa vụ rong Lục rất ngắn, từ tháng 1 đến tháng 6 và tỷ lệ cá thể sinh sản không thau đổi từ tháng 2, cơ quan sinh sản có ở tất cả phần của tản rong và tháng có sinh lượng cao nhất vào tháng 3. Vì thế có thể khai thác rong Lục kể từ tháng 3 đến khi hết mùa rong, mỗi năm 3 đợt từ tháng 3 và cách nhau 30-45 ngày. Bảng 4. 12. Thời gian có thể bắt đầu khai thác một số loài rong Lục tại Nha Trang 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Ulva reticulata x Enteromorpha intestinalis x Ulva papenfussii x 4.4.3. Rong Nâu Để xác định thời gian thu hoạch của các bãi rong Mơ tại các vùng trọng điểm, từ kết quả của các Bảng 3.29, 3.30 và 3.31 có thể như sau: - Vịnh Bến Gỏi có loài ưu thế là S. polycystum chiếm 90% tổng trữ lượng của bãi; ở Nha Phu có loài ưu thế là S. assimiles chiếm 70% và ở Hòn Chồng, Sông Lô, Mũi Cá Sấu, Xóm Bầu có 4 loài ưu thế là S. mcclurei, S. microcystum, S. polycystum, S. serratum chiếm 65% và tất cả loài ưu thế của các vùng này có thời kỳ trưởng thành sinh dục vào đầu tháng 4, đồng thời có tỷ lệ số cây thành thục sinh dục của các vùng này từ 70-90%, và thời gian phóng thích hết giao tử từ 15-25 ngày. Vì thế thời gian thu hoạch tốt nhất để đảm bảo được sản lượng và đảm bảo thời gian phóng giao tử là khoảng 15/4. Vì trường hợp nếu chờ đến tháng 5 để có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgiai phap khai thac hop ly RONG BIEN.doc
Tài liệu liên quan