LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGUỒN VỐN CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG 3
A. Nhu cầu vốn trung và dài hạn với sự phát triển của nền kinh tế. 3
B. Tầm quan trọng của nguồn vốn cho vay trung và dài hạn với hoạt động của Ngân hàng Thương mại. 5
I. Quản lý kinh doanh của Ngân hàng thương mại và nhu cầu về vốn cho vay trung và dài hạn 5
1. Tài sản của Ngân hàng Thương mại : 5
1.1 Khoản mục Ngân hàng 6
1.2. Đầu tư.6
1.3 Tín dụng : 7
2. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại và đặc điểm của mỗi nguồn 9
2.1. Nguồn huy động 9
2.1.1. Tiền gửi : 9
2.1.2. Tiết kiệm 10
2.2. Đi vay : 11
2.3. Vốn của chủ sở hữu : 13
II. Quản lý kết hợp tài sản nguồn tiền và khả năng hoán chuyển các nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn 14
1. Phương pháp phân chia các nguồn tiền 16
2. Phương pháp quản lý khe hở quỹ : 17
3. Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng hoán chuyển các nguồn tiền 21
III. Các hình thức để mở rộng nguồn huy động trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại 22
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới nguồn trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. 23
1.1. Lãi suất: 24
1.2. Uy tín của Ngân hàng: 26
1.3. Các dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng: 26
1.4. Nền kinh tế: 27
2. Các phương pháp mở rộng nguồn trung và dài hạn. 28
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. 31
I. Vài nét về ngan hàng đầu tư và phát triển hà nội. Những thuận lợi và khó khăn. 31
II. Khái quát tình hình huy động vốn cho vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội qua các gia đoạn. 33
1. Giai đoạn trước khi có pháp lệnh Ngân hàng (ban hành 23/5/1990 và chính thức có hiệu lức ngày 01/10/1990). 33
2. Giai đoạn sau khi có pháp lệnh Ngân hàng (23/5/1990) tới ngày Cục đầu tư tách khỏi Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội (01/01/1995). 33
3. Giai đoạn sau khi tách khỏi tổng Cục đầu tư ngày 01/01/1995 tới nay. 34
III. Thực trạng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. 35
PHẦN 1- THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN: 35
1. Biến động nguồn vốn kinh doanh. 35
1.1. Vay Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam. 39
1.2. Nguồn vốn tự huy động: 41
PHẦN 2- TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN CHO VAY TRUNG VÀ NGẮN HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. 44
1.1. Nguồn trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng và phát triển Hà Nội. 45
1.2. Biến động vốn trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. 48
1.3. Sự cân đối về huy động vốn và sử dụng vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. 50
1.4. Tính an toàn và khả năng sinh hồi vốn đầu tư của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 55
2. Vấn đề thứ hai: 60
2.1. Nền kinh tế nước ta thực sự đang cần một nguồn vốn đầu tư phát triển lớn. 60
2.2. Cho vay đầu tư các dự án trung và dài hạn là lợi thế so sánh của các Ngân hàng đầu tư và phát triển. 62
2.3. Để mở rộng các dự án đầu tư phát triển, chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội phải quan tâm tới việc tìm kiếm các nguồn cho vay trung và dài hạn. 63
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG NGUỒN VỐN CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. 65
PHẦN I: CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ VỚI CÔNG TÁC MỞ RỘNG NGUỒN CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. 65
1. Ngân hàng tiếp tục khẳng định vị trí và vai trò của mình để tiến hành phục vụ tốt hơn nhiệm vụ, kế hoạch đầu tư phát triển trên địa bàn thủ đô. 65
2. Công tác tín dụng : 66
3. Biện pháp mở rộng công tác huy động vốn cho vay trung và dài hạn. 67
3.1. Đối với các nguồn ngắn hạn :. 67
3.2 Đối với các nguồn trung hạn trong dân : 68
3.3. Chủ động lập kế hoạch tìm kiếm các nguồn vốn trung và dài hạn từ các tổ chức tài chính kinh tế và đề xuất với trung ương tìm kiếm các nguồn này cho chi nhánh. 68
3.4. Nguồn thu từ nợ 70
3.5. Kết hợp các nguồn ngắn hạn ổn định và nguồn trung hạn được các nguồn cho vay đầu tư phát triển đảm bảo an toàn và tăng lợi nhuận. 71
4. Vấn đề nhân sự và cơ sở vật chất của Ngân hàng. 72
4.1. Nhân sự : 72
4.2. Về cơ sở vật chất: 73
PHẦN II: CÁC KIẾN NGHỊ 74
I. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước. 74
II- Với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 74
KẾT LUẬN 76
85 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng. Thực tế thuận tiện và đơn giản cũng là một trong những yếu tố tạo nên uy tín của Ngân hàng.
Các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp được xem xét từ những điều nhỏ nhất như thủ tục gửi tiền, rút tiền, thủ tục về chiết khấu các chứng từ có giá, tổ chức việc rút tiền bằng máy... tới những lợi ích khác mà Ngân hàng đem tới cho khách hàng như lãi suất thưởng hay như Ngân hàng sẽ tự động chuyển lãi được hưởng của khách hàng vào khoản mục tiết kiệm nếu khách hàng không tới lĩnh... Tất cả các dịch vụ tiện ích đó đảm bảo thuận tiện đơn giản mà vẫn đảm bảo đầy đủ lợi ích cho người gửi tiền sẽ thu hút được các khoản tiền tới Ngân hàng.
1.4. Nền kinh tế:
Sự ổn định của nền kinh tế tạo ra sự ổn định của đồng tiền. Lạm phát là một bộ phận cấu thành lãi suất danh nghĩa không đổi sẽ khiến lãi suất thực tế giảm xuống và lợi ích của người gửi tiền giảm đi. Sự ổn định của nền kinh tế thuộc phạm vi điều hành vĩ mô của nhà nước và bản thân các Ngân hàng cũng không điều chỉnh được yếu tố này trong thời kỳ có lạm phát cao, lãi suất của Ngân hàng có xu hướng tăng nhưng không thể tăng cùng mức với lạm phát và kết quả là người gửi tiền chịu thiệt thòi.
Nếu có một khoản tiền, người ta bao giờ cũng đặt ra những câu hỏi: mua ngoại tệ, mua vàng, đầu tư bất động sản hay gửi tiền vào Ngân hàng. Trong thời kỳ suy thoái, đồng tiền bị mất giá . Lúc này tiền gửi tại Ngân hàng sẽ sụt giảm đáng kể và đặc biệt đúng với các nguồn trung và dài hạn.
Nói tóm lại để tạo cho mình một nguồn vốn lành mạnh và hiệu quả, bản thân sự nỗ lực của Ngân hàng và phụ thuộc rất lớn vào yếu tố khách quan. Vì vậy tại những thời điểm cụ thể ta phải có những giải pháp cụ thể và cực kỳ phù hợp.
2. Các phương pháp mở rộng nguồn trung và dài hạn.
2.1. Tính toán kỳ hạn của các nguồn trung và dài hạn việc xác định kỳ hạn của các nguồn tiền phù hợp từ đó có đưa ra các loại kỳ hạn cho các khoản huy động sẽ nhằm đưa ra các loại kỳ hạn cho các khoản huy động sẽ nhằm vào 2 vấn đề:
Kỳ hạn phải phù hợp với việc sử dụng các nguồn.
Kỳ hạn phải có sức thuyết phục với khách hàng.
Về phía Ngân hàng:
Ngân hàng ít khi huy động các khoản tiền có kỳ hạn danh nghĩa dài để cho vay ngắn. Tất nhiên điều này rất đảm bảo cho an toàn thanh khoản, nhưng đó là một sự đảm bảo không cần thiết mà lại làm giảm doanh lợi của Ngân hàng.
Thời hạn mà Ngân hàng thông báo cho khách là thời hạn danh nghĩa của các nguồn tiền song quan trọng hơn là thời hạn tồn tại thực của các nguồn tiền. Thời hạn tính lãi gắn liền với chi phí của các nguồn tiền và các luồng tiền đi ra khỏi Ngân hàng.
Về phía khách hàng:
Trong những thời kỳ khác nhau, khách hàng sẽ chấp nhận các kỳ hạn khác nhau. Ví dụ trong thời kỳ có sự hiếu động lớn của nền kinh tế, lạm phát có xu hướng tăng lên thì những người gửi tiền không thích những khoản gửi có thời hạn dài cho dù lãi suất có cao. Khách hàng cũng nhằm tới thời hạn thực tế của những khoản tiền gửi, vì chi phí của Ngân hàng tăng lên cũng có nghĩa là người gửi tiền được hưởng lãi suất cao hơn.
Ngân hàng phải cân đối được giữa kỳ hạn mà công chúng có thể chấp nhận được và phù hợp với những tính toán của Ngân hàng để có những nguồn tiền hợp lý.
2.2. Tính toán lãi suất:
Ngân hàng tính toán mức lãi suất để có khả năng thu hút các khoản tiền gửi và khoản tiền tiết kiệm. Việc tính toán lãi phải đảm bảo :
Kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
Lãi suất phải phản ánh được mức lãi suất thị trường
Đảm bảo lãi suất thực dương các khoản gửi
Mức lãi suất phải đảm bảo Ngân hàng kinh doanh có lãi.
Khi trên thực tế lãi suất đã ở mức cao thì lãi suất cạnh tranh rất nhạy cảm. Một sự tăng lên nhỏ của lãi suất cạnh tranh có sức thu hút nguồn tiền gửi từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác. Ngân hàng tiến hành kinh doanh tiền tệ và mục tiêu là lợi nhuận, nên lãi suất đầu ra phải lớn hơn lãi suất đầu vào hay tính trên toàn bộ hoạt động của Ngân hàng lãi suất bình quân đầu ra phải lớn hơn lãi suất bình quân đầu vào để cho Ngân hàng có lãi. Như vậy mức lãi suất mà Ngân hàng có thể chấp nhận cho vay trung và dài hạn là:
Lãi suất chấp nhận = Bình quân lãi suất của các + lợi nhuận
cho vay trung và dài hạn nguồn sử dụng mong muốn
Vì thế nếu Ngân hàng đặt bình quân lãi suất của các nguồn sử dụng cao có nghĩa là nó chấp nhận một mức lợi nhuận cao thì bình quân lãi suất của các nguồn sử dụng sẽ thấp và rất có thể lãi suất bộ phận của mỗi nguồn sẽ thấp, điều đó sẽ không hấp dẫn các khách hàng gửi tiền của Ngân hàng.
Như vậy khi tính toán mức lãi suất bình quân phù hợp Ngân hàng phải cân đối được lợi ích của người gửi tiền và của Ngân hàng. Để thu hút được các nguồn huy động trung và dài hạn thì lãi suất của chúng phải được đặt ở mức cao, tuy nhiên lợi nhuận của Ngân hàng không vì thế mà giảm sút. Vì vậy Ngân hàng cần sử dụng có hiệu quả các nguồn tiền sẵn có để tạo ra mức lãi suất bình quân thấp. Lãi suất phù hợp bao giờ cũng là vấn đề cần phải tính toán kỹ của các Ngân hàng.
2.3. Tính toán RR: các khoản gửi trung và dài hạn có rất nhiều RR như: RR kỳ hạn, RR lãi suất, RR tín dụng do không thanh toán đựơc các khoản nợ (xét bên những khía cạnh khác nhau). Vì thế Ngân hàng phải có những nghiệp vụ để ước lượng được những RR có thể nhằm giảm RR cho khách hàng và cho chính bản thân mình. Chỉ khi Ngân hàng chứng tỏ được rằng RR của các khoản tiền gửi là rất thấp mới có sức thu hút khách hàng tới gửi tiền tại Ngân hàng.
Chương II
Tình hình huy động nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển hà nội.
I. Vài nét về ngân hàng đầu tư và phát triển hà nội. Những thuận lợi và khó khăn.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội được thành lập ngày 27/5/1957 với tên gọi ban đầu là Ngân hàng kiến thiết Hà Nội, nằm trong hệ thống Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính. Trong giai đoạn này nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng là nhận vốn từ ngân sách Nhà nước để tiến hành cấp phát và cho vay vốn trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Năm 1982, Ngân hàng đổi tên thành Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội nằm trong hệ thống Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam.
Trong giai đoạn 1990- 1995, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội vẫn làm nhiệm vụ nhận vốn của Ngân sách để cho vay và cấp phát theo chỉ thị của Nhà nước, nghĩa là nó không làm chức năng như một Ngân hàng thương mại, những cũng không hoàn toàn là cơ quan quản lý vốn thay mặt Nhà nước cấp phát vốn cho những dự án trong những chương trình của Nhà nước.
Từ ngày 01/01/1995, Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội bắt đầu thực hiện mở rộng các nguồn huy động vốn ngắn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và dân cư để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn. Từ năm 1995 đến nay, Ngân hàng hoạt động như một Ngân hàng thương mại với lĩnh vực có bề dày kinh nghiệm là lĩnh vực đầu tư phát triển.
Phòng
tín dụng 3
Mô hình tổ chức Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội có 20 phòng ban và chi nhánh khu vực được thể hiện trong Sơ đồ 01.
Ban giám đốc
(4B LêThánhTông )
Phòng nguồn vốn kinh doanh
Phòng Tổ chức cán bộ
Phòng thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư vấn đầu tư
Phòng
kế toán
tài chính
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng
Thông tin điện toán
Phòng
Ngân quỹ
Văn phòng
Phòng
tín dụng 1
Chi nhánh Đông Anh
( thị trấn Đông Anh )
Phòng
tín dụng 3
Chi nhánh thanh trì
( Km 8 Đường
Giải Phóng)
Phòng
tín dụng 4
Chi nhánh
Từ liêm
( 263 Cầu Giấy)
Phòng KTĐN & Thanh toán quốc tế
Phòng giao dịch số 1
( số 4 yết kiêu )
Phòng
Huy động vốn dân cư
Phòng giao dịch số 2
( Số 2 sônglừ Phương Mai )
Quý số 6
Quỹ số 10
Phòng
tín dụng 2
f
Cơ cấu tổ chức hợp lý và phù hợp đã giúp chi nhánh hoạt động hiệu quả trên lãnh thổ và lĩnh vực của mình
II. Khái quát tình hình huy động vốn cho vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội qua các gia đoạn.
1. Giai đoạn trước khi có pháp lệnh Ngân hàng (ban hành 23/5/1990 và chính thức có hiệu lức ngày 01/10/1990).
Trong thời gian này, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát đầu tư xây dựng cơ bản. Hoạt động huy động vốn chưa phát triển. Nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn Ngân sách cấp, nguồn vốn huy động chiếm một tỷ trọng rất nhỏ và chỉ bao gồm tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
2. Giai đoạn sau khi có pháp lệnh Ngân hàng (23/5/1990) tới ngày Cục đầu tư tách khỏi Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội (01/01/1995).
Theo báo cáo của Ngân hàng năm 1992, một trong những yếu kém cơ bản của Ngân hàng trong giai đoạn này là còn thụ động chờ vốn do ngân sách chuyển về để cấp phát và cho vay đầu tư theo kế hoạch của cấp chủ quan được uỷ ban kế hoạch nhà nước thông báo, chưa thực sự năng động nhạy bén tìm nhiều hình thức và biện pháp thu hút các nguồn vốn trong dân và mạnh dạn sử dụng vốn ngoại tệ để cho vay.
Thực tế trong giai đoạn này, Ngân hàng chưa hoạt động thực thụ như một Ngân hàng thương mại vì thế các dịch vụ Ngân hàng chưa mở rộng. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng đã tập trung công sức thực hiện có kết quả chủ trương làm thí điểm phát hành kỳ phiếu, trái phiếu đảm bảo giá trị theo giá vàng và trái phiếu nhằm huy động vốn nhà rỗi trong dân để bổ sung thêm nguồn cho vay dối với các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển sản xuất nhưng đang thiếu hụt vốn. Đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu này đã tạo được niềm tin với khách hàng, cũng như đặt nền móng để Ngân hàng làm quen với huy động vốn mới. Ngân hàng có chủ trương tiếp tục thực hiện hình thức huy động này nhằm mở rộng hơn khả năng huy động vốn của Ngân hàng, nhưng do những yếu tố như: tâm lý, thị trường còn nhiều bất ổn, cũng như hình thức này còn rất nhiều mới mẻ nên chưa có sức thuyết phục cao.
- Việc huy động được trên hai tỷ đồng bằng trái phiếu, kỳ phiếu cũng tạo đà cho Ngân hàng tiếp tục mở rộng các hình thức huy động. Tổng lượng vốn đã có tác dụng tốt trong việc tạo nguồn theo định hướng “đi vay để cho vay”.
3. Giai đoạn sau khi tách khỏi tổng Cục đầu tư ngày 01/01/1995 tới nay.
Đây là một giai đoạn có thể xem như một chặng đường hoạt động hiệu quả của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội với vai trò là một Ngân hàng thương mại thực thụ.
Trong bối cảnh hoạt động kinh tế cả trong nước và nước ngoài cực kỳ sôi động với cơ chế kinh tế thị trường. Chi nhánh đã biết vận dụng sáng tạo những cái mình có và nỗ lực vượt qua nhiều trở ngại với những khó khăn trước mắt.
Toàn Ngân hàng đã nhận thức sâu sắc rằng huy động vốn cho nền kinh tế phục vụ cho đầu tư và phát triển là nhiệm vụ cơ bản nhất của mình. Với các biện pháp và hình thức huy động thích hợp cuối năm 1997 tổng nguồn là 1335,5 tỉ và đến 12/2001 là 3.984,276 tỉ đồng. Nhìn vào các con số chúng ta sẽ thấy được một phần nào sự nỗ lực to lớn của Ngân hàng.
Niềm tin của khách hàng với Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ngày càng tăng lên, càng tạo điều kiện tốt cho mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng phát triển.
Cùng với công tác huy động, Ngân hàng đã tích cực sử dụng những biện pháp nghiệp vụ như lãi suất, chính sách khách hàng... tăng cường sử dụng vốn có hiệu quả cho vay. Nếu như cho vay trung hạn và dài hạn tăng trưởng đều đặn do đặc tính của khoản mục này thì tại Ngân hàng đầu tư và phát triển, tín dụng ngắn hạn càng tăng trưởng vượt bậc: Năm 1994 là 122 tỷ năm 1995 là 315 tỷ đồng thì đến năm 2000 là 1191,221 tỷ đồng và năm 2001 là 1763,586 tỉ đồng.
Bằng cách này hay cách khác, với những cố gắng của mình Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội xứng đáng là một Ngân hàng Thương Mại hoạt động có hiệu quả và đầy tiềm năng.
III. Thực trạng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
Để xem xét thực trạng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ta phải hiểu biết tổng quan về: Các nguồn vốn của Ngân hàng, đặc điểm, biến động của các nguồn trên cơ sở đó chúng ta mới có thể đánh giá tương đối chính xác về khả năng, thực trạng sử dụng nguồn vốn trung và dài hạn như thế nào:
Phần 1- thực trạng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn:
1. Biến động nguồn vốn kinh doanh.
Sau khi Cục đầu tư tách khỏi Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội cho đến nay, Ngân hàng đã trải qua một thời gian khá dài để thử thách và hoàn thiện chính bản thân mình với tư cách là một ngân hàng đích thực. Để tiện theo dõi và đánh giá về sự biến động của nguồn vốn kinh doanh ta có thể phân thành: Nguồn vốn Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội tự huy động và nguồn vốn đi vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Theo số liệu của Phòng nguồn vốn thì tổng nguồn trong 3 năm gần đây từ 1999 đến nay tổng nguồn vốn tăng liên tục. Nhìn lại một cách tổng quan ta có thể đánh giá được khả năng huy động vốn của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ngày một cải tiến, phù hợp đáp ứng được khả năng phát triển của xu hướng công nghệ hoá ngành Ngân hàng. Để thu hút được nguồn vốn, chắc chắn công tác Maketing, kế hoạch hoạt động kinh doanh của Ngân hàng... ngày càng hoàn thiện và phát triển. Nhìn vào Bảng 01 ta thấy. Tổng nguồn năm 1999 là 2.157.091 triệu đồng , năm 2000 là 2.898.964 triệu đồng và năm 2001 là 3.984.276 triệu đồng. Sự tăng lên đáng kể của tổng nguồn cho chúng ta đánh giá là nguồn vốn của Ngân hàng mỗi năm một dồi dào, bằng những phương pháp, nghiệp vụ và những cố gắng cần thiết Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đang tạo ra cho mình một khả năng cực kỳ thiết yếu của bất kỳ một Ngân hàng Thương mại nào, là có đủ nguồn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng đi vay.
Mặt khác, tiền gửi của khách hàng tăng lên theo thời gian, huy động dân cư cũng tăng lên rõ rệt, huy động khác cũng tăng lên. Trong khi đó vay Ngân hàng đầu tư và phát triển giảm đáng kể. Một lần nữa chúng ta thấy khả năng thu hút khách hàng rất khích lệ.
Xét về giá trị tương đối hay theo tỉ trọng thì hàng năm nguồn vốn huy động từ dân cư vẫn là chiếm tỉ trọng lớn nhất.
Vốn tự huy động chiếm tỉ trọng: Năm 1999 là 80,02%, Năm 2000: 91,42%, Năm 2001: 94,04% tổng nguồn.
Điều này cho thấy tỉ trọng nguồn vốn đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam giảm dần trong các năm.
Biểu đồ cơ cấu huy động vốn:
Những số liệu trong Bảng 01 cho thấy sự cố gắng vượt bậc của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Nguồn vốn chi nhánh tăng lên đáng kể trong các năm không những về con số tuyệt đối mà về giá trị tương đối, cơ cấu của nó cũng biến động theo hướng tích cực.
Vậy để thấy rõ hơn về nó ta đi nghiên cứu xem vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam gồm những khoản mục gì từ đó để đánh giá rõ hơn về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1. Vay Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là Ngân hàng trung ương của chi nhánh, là Ngân hàng mẹ nhằm tạo điều kiện để các Ngân hàng chi nhánh phát triển. Với sự kiểm soát và đốc thúc các chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh, thành phố hoạt động thì việc cho vay đối với các chi nhánh là nhiệm vụ của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chủ yếu là nguồn tài trợ uỷ thác đầu tư. Có thể xem Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam như là vai trò gián tiếp giữa nguồn ODA với việc đầu tư vào các dự án trong nước trên mặt pháp lý và giấy tờ, trong khi đó, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sẽ có vai trò thực hiện nhiệm vụ áp dụng là cung cấp vốn trực tiếp cho các dụ án.
1999
2000
2001
(Biểu đồ biểu diễn đi vay ngân hàng đầu tư phát triển Việt nam)
Có thể chia nguồn đi vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành:
Vay ngắn hạn: Đây là khoản mục tương đối ít khi đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Năm 1999 vay 4980 triệu đồng chiếm 1,17% trong khoản mục đi vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, năm 2000, chi nhánh Ngân hàng đã vay ngắn hạn Ngân hàng Trung ương 31355 triệu đồng, chiếm 12,6% tổng nguồn, đến năm 2001, đi vay 4150 triệu đồng, chiếm 1,86%.
Vì sao Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội lại có tỷ trọng đi vay ngắn hạn Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ít như vậy ?
Chúng ta có thể trả lời rằng do đặc thù kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội là một Ngân hàng thương mại đi vay để cho vay đầu tư. Vì thế mà sự cần thiết tạo ra nguồn trung dài hạn luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu. Nói như vậy không có nghĩa là hoạt động tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội là không phát triển, là không hiệu quả. Mà trái lại đã là một Ngân hàng thương mại hiện đại thì bản thân nó có thể phát triển mọi cách thức.
Vay trung và dài hạn: Vay trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là khoản mục chủ yếu. Tuy nhiên trong những năm gần đây khoản mục này cũng giảm đáng kể: Năm 1999 là 259.712 triệu đồng chiếm 60,82% tổng nguồn vốn vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thì đến năm 2000 chỉ là 71.029 triệu đồng và đến năm 2001 là 101.674 triệu đồng.
Xu hướng đi vay trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội không thể mất đi xong do nguồn vốn huy động được ở các nguồn khác (tự huy động ) tăng đáng kể nên nó càng ngày càng giảm.
Vốn tài trợ uỷ thác: Đây là nguồn cơ bản xong nó luôn cân đối với việc cho vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Đây là nguồn ODA được tài trợ và uỷ thác đầu tư vào các dự án.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sẽ là người nhận vốn đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế. Nguồn này thường được vay bằng USD và từ bảng 02 chúng ta thấy nguồn này giảm trong năm 1999 là 131.343 triệu đồng xong tỷ trọng hay về giá trị tuyệt đối lại có xu hướng tăng trong cơ cấu đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Nhìn lại một cách tổng quan ta thấy nguồn vốn đi vay Ngân hàng trung ương giảm cũng đồng nghĩa nguồn tự huy động tăng vì tổng nguồn tăng. Một phần nào nói lên được khả năng quản lý, tính chủ động và uy tín của chi nhánh ngày càng tăng lên trong công chúng.
1.2. Nguồn vốn tự huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Bằng công tác quản lý và nỗ lực trong kinh doanh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đã tăng nguồn vốn tự huy động của mình lên một cách rõ rệt. Có thể nói, đây là sự phát triển một cách vượt bậc để khẳng định mình trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng trong thời kỳ đổi mới này. Trong những năm gần đây chi nhánh đã thiết lập được mối quan hệ tốt với khách hàng. Đã tạo được niềm tin tuyệt đối. Mặt khác do những chính sách quản lý, kinh doanh phù hợp kể cả về chi phí, về lãi suất ... và đặc biệt là công tác tuyển mộ nhân viên đã tạo ra cho Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội một cơ sở vững chắc để kinh doanh.
Để đánh giá rõ hơn về nguồn tự huy động, chúng ta sẽ đánh giá khoản mục huy động dân cư của chi nhánh để thấy được khả năng thực có và tiềm tàng của chi nhánh và một phần nào đó tự soi tập thể Ngân hàng vào các gương hiểu hiệu nhất đó là: Tính thông dụng và niềm tin trong dân cư.
1999
2000
2001
(Biểu đồ thể hiện huy động vốn trong khoản mục dân cư)
Từ bảng cơ cấu các khoản mục trong huy động dân cư cho chúng ta thấy: Khoản mục này tăng đáng kể về số tuyệt đối trong những năm 1999 – 2001, phản ảnh khả năng huy động vốn từ dân cư của chi nhánh là cực kỳ hiệu quả nguyên nhân chủ yếu là do: Uy tín của chi nhánh Ngân hàng ngày nâng cao, chính sách lãi suất, chính sách khách hàng hấp dẫn được coi là vấn đề cốt yếu và ngày càng hoàn thiện.
Thể hiện nguồn vốn huy động từ dân cư, năm 1999 là 1.045.187 triệu đồng, đến năm 2000 là 1.403.398 triệu đồng và tăng lên trong năm 2001 là 1.824.240 triệu đồng.
Nguyên nhân nguồn huy động từ dân cư tăng lên là do Chi nhánh Hà Nội đã đa dạng hóa hình thức huy động như tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu. Với chính sách lãi suất linh hoạt (trả lãi trước, trả lãi sau); Các kỳ hạn thích hợp và thực hiện chính sách khách hàng hợp lý.
Ngoài ra, trong những năm qua đặc biệt là năm 2000 chi nhánh Ngân hàng đã sử dụng hiểu hiệu công cụ kỳ phiếu, đến cuối năm 2000 dư có kỳ phiếu là 457.324 triệu chiếm 32,59% nguồn huy động dân cư chiếm 15,78% tổng nguồn.
Nói tóm lại: Nguồn vốn huy động từ dân cư là nguồn vốn chủ yếu trong mảng tự huy động của chi nhánh. Một mặt nói lên khả năng tự huy động của chi nhánh Ngân hàng.
Phần 2- tình hình nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
1. Vấn đề thứ nhất: Thực trạng về nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
Chương I chúng ta đã phân tích nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng được tạo ra:
- Các dự án ở trung ương chuyển về
- Huy động mới các nguồn trung và dài hạn có kỳ hạn tương hợp với các khoản cho vay.
- Kết hợp các nguồn ngắn với nguồn trung và dài hạn để được một nguồn trong giới hạn an toàn thanh khoản, rủi ro lãi suất và một số rủi ro khác.
Đây là những cách làm mà Ngân hàng đã có sự lựa chọn. Vì vậy nó phù hợp cho cả lý thuyết và thực tiễn.
Bởi lẽ để có nguồn trung và dài hạn mới thì trước hết và hầu hết nó được tạo bởi nguồn mới cùng tính chất với nó. Thứ hai là được biến đổi về nó thông qua 1 nghiệp vụ không quá phức tạp là chuyển đổi kỳ hạn và sự kết hợp giữa chúng nếu thấy cần thiết. Nói tóm lại để tạo ra nguồn mới để cho vay thì Ngân hàng càng cần phải có những điều kiện phù hợp.
2. Vấn đề thứ hai:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh từ năm 1999 đến nay, chi nhánh nhận thấy chưa bao giờ chi nhánh thiếu vốn cho vay với các dự án xét khả năng về nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, có những dự án không được phép vay vốn hay bị huỷ bỏ là do xét thấy dự án không hiệu quả hoặc không đủ điều kiện để vay vốn. Vì vậy thông qua phần 1 chúng ta chúng ta sẽ nhận định lại xem chi nhánh có cần thiết tìm kiếm một nguồn vốn cho vay trung và dài hạn hay không.
3. Vấn đề thứ ba:
Trên cơ sở để chi nhánh mở rộng nguồn vốn vay trung và dài hạn như thế nào ? làm sao cho có hiệu quả nhất ?
1.1. Nguồn trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng và phát triển Hà Nội.
Trong những năm trước đây do tình hình kinh tế nói chung và tình hình của mỗi một Ngân hàng thương mại nói riêng thì việc tự huy động được nguồn trung và dài hạn bị hạn chế. Trong những năm gần đây việc huy động tuy có chiều hướng khả thi hơn, xong còn gặp rất nhiều khó khăn. việc huy động được nguồn vốn trung và dài hạn trong dân cư là một vấn đề cần bàn. chúng ta phải nhìn vào thực tế, hiện nay tình hình vốn ứ đọng trong dân cư không phải là ít nhưng để huy động được những nguồn đó là những nguồn trung và dài hạn là cực kỳ khó khăn bởi:
- Thanh toán qua Ngân hàng còn chưa phát triển nên người dân còn rất xa lạ với hoạt động của hệ thống Ngân hàng và các Ngân hàng thương mại cũng không tận dụng được nguồn thanh khoản khổng lồ này.
- Các khoản tiền gửi trung và dài hạn phải là những khoản thu nhập bất thường. Thu nhập của người dân còn thấp nên tích luỹ cũng rất thấp.
- Nền kinh tế còn chưa thực sự ổn định nguy cơ khủng hoảng kinh tế hoặc lạm phát … đang còn đe doạ. Vì vậy người dân vẫn chưa thực sự tin tưởng để gửi tiền vào Ngân hàng.
Chính sách vĩ mô nhằm huy động tiền gửi còn chưa linh động. Mặt khác, hành lang pháp lý và công nghệ Ngân hàng còn bị hạn chế. Tuy nhiên cái cơ bản nhất là không có phương pháp hiệu quả hơn để nhằm thu hút, dẫn nhập nguồn vốn trung và dài hạn từ dân cư vào hệ thống Ngân hàng thưong mại.
Không có những chính sách phù hợp để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại trực tiếp huy động.Vì vậy vấn đề giải quyết được nó không phải là một sớm một chiều. Hiện nay, Ngân hàng thương mại cùng với Ngân hàng Nhà nước cũng đang ra sức tìm kiếm một giải pháp tốt nhất để tạo ra một sức lôi cuốn mãnh liệt từ trong dân nhằm có một nguồn vốn trung và dài hạn để tiếp tục công cuộc cho vay đầu tư phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.
Lãi suất của đầu tư vào việc mua trái phiếu là được hưởng lãi suất cao. Cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm cùng kỳ hạn
Lãi suất trái phiếu năm t = lãi suất tiết kiệm 12 tháng năm t + 1%/ năm
Được dùng trái phiếu để cầm cố vay vốn của Ngân hàng. Đây là điều kiện rất thuận lợi của người dân. Bởi lẽ nguồn vốn mà người dân đầu tư vào trái phiếu không chỉ hưởng lãi suất mà nó còn được hưởng lợi ích của một nhà đầu tư. Có thể dùng nó để cầm cố tại Ngân hàng. Và đương nhiên họ có thể có lại một số vốn nhất định trong những khoảng thời gian họ cần dùng.
Được thanh toán các trái phiếu trước thời hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất trái phiếu nghĩa là Ngân hàng sẽ tiến hành mua lại các trái phiếu trước hạn theo thể thức chiết khấu với giá thoả thuận.
Việc huy động trái phiếu được Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội xem như là một công cụ hữu hiệu để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Vì vậy Ngân hàng liên tục có đợt phát hành trái phiếu cả bằng VND và USD. Đây là hình thức đa dạng hoá sản phẩm giúp cho các nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn phù hợp với khẳ năng và sở thích của mình. Vì vậy mà trong những năm qua (1999 – 2001) Ngân hàng đầu tư đã phát hành được rất nhiều đợt trái phiếu làm tăng tổng nguồn một cách đáng kể.
Trong những năm qua trái phiếu kỳ hạn một năm không còn được Ngân hàng phát hành nữa mà thay vào đó phát hành trái phiếu 2 n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0066.doc