MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I:
NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC CHÂU Á 2
I-/ SƠ LƯỢC DIỄN BIẾN, TÌNH HÌNH CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ. 2
II-/ NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 4
II.1. Thâm hụt tài khoản vãng lai nền kinh tế phát triển mất cân đối: 4
II.1.2 Tỷ giá hối đoái dồn nên 1 cách miễn cưỡng: 7
II.2. Những nguyên nhân khách quan: 8
II.2.1Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút: 8
II.2.2 Các hoạt động đầu cơ phá hoại từ bên ngoài. 8
CHƯƠNG II:
TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 10
I-/ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG: 10
I.1 - Sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường hối đoái: 10
I.2 - Ảnh hưởng đến cơ cấu tiền gửi của hệ thống ngân hàng: 10
I.3 - Tác động đến hoạt động giao dịch ngoại tệ: 10
I.4 - Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp: 11
I.5 - Gây sức ép với lãi suất đồng Việt Nam. 11
II-/ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI: 11
III-/ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC ĐẦU TƯ: 13
III.1 Đối với đầu tư trong nước: 13
III.2 Đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài: 14
CHƯƠNG III:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 15
lời Kết 18
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4571 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ khu vực Châu Á và tác động của khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bản, xu hướng chiyển dịch các trung tâm khủng hoảng này sẽ còn tiếp tục mà ngày càng về sau càng phát tán những mầm mống lây nhiễm rộng và đòi hỏi những phối hợp quốc tế rộng lớn và mạnh mẽ hơn, tốn kém hơn với thời gian khắc phục dài hơn.
Đồng Baht mất giá 100% từ 25 baht/USD xuống mức trên 40 baht/USD (mức thấp nhất là 53 baht/USD). Đồng thời, chính phủ Thái Lan yêu cầu sự trợ giúp của qũy tiền tệ quốc tế IMF cũng như các nước phát triển khác với một cảnh báo rằng nguy cơ của Thái Lan có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia đang phát triển nào trong khu vực và đám cháy Thái Lan sẽ bùng lên và lan sang các quốc gia khác nếu như không có sự ứng phó kịp thời. Đáp lại sự cảnh báo trên, IMF đã không ngần ngại rót hàng chục tỷ USD để trợ giúp Thái Lan nhưng dường như là đã quá muộn. Cuộc khủng hoảng kinh tế này bước đầu đã làm Thái Lan thiệt hại khoảng 120 tỷ USD, số người thất nghiệp lên hơn 3 triệu người. Tốc độ tăng trưởng năm 1998 gần như 0% so với mức 7,1% năm 1997.
Những khó khăn do cuộc khủng hoảng đem lại không chỉ riêng mình Thái Lan gánh chịu mà nó đã lan rộng như một dịch bệnh ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế Châu á. Hàn Quốc có một nền kinh tế được xem là bền vững nhất trong các nước đang phát triển lại phải đương đầu liên miên với khủng hoảng chính trị có căn nguyên kinh tế. Sự sụp đổ của tập đoàn kinh tế khổng lồ Hanboo đã mở đầu cho sự khủng hoảng của các Cheabol khác. Các khoản nợ của Cheabol lên tới gần 50 tỷ USD quá hạn và theo dự đoán nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài thì Hàn Quốc sẽ phá sản vào cuối năm 1997. Để giúp đỡ Hàn Quốc IMF đã cho vay tới 57 tỷ USD, điều này cũng chứng tỏ sự khủng hoảng các khoản vay của Hàn Quốc ghê gớm đến mức nào. Đồng Won đã mất giá trị 914,9 won/USD (25/9/97) xuống còn 1.390 won/USD (11/6/1998). Số người thất nghiệp là 1,43 triệu người, chiếm 6,7% lực lượng lao động.
Nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Inđônêsia. Sự suy thoái kinh tế ở nước này trầm trọng đến mức có thể nói là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những cuộc biểu tình của sinh viên và sự từ chức của tổng thống Suharto. Khủng hoảng kinh tế và chính trị đã làm đồng Rupiah mất giá từ mức 2.500 rupiah/USD trước khủng hoảng xuống đến 17.000 rupiah trong thời gian cuối năm 1998. Số người thất nghiệp lên tới 10,27 triệu người, chiếm 10,2% lực lượng lao động, nợ nước ngoài trên 140 tỷ USD.
Nhật Bản là một nước có nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Đồng Yên giảm giá từ 79 yên/USD vài năm trước đây xuống còn 146,55 yên/USD (15/6/1998). Mức tăng trưởng kinh tế của Nhật là - 0,4%. Trong quí IV năm 1997, sang quí I năm 1998 tiếp tục suy giảm. Số người thất nghiệp trong tháng 5 năm 1998 đạt kỷ lục là 2,93 triệu người (4,1%).
Tổn thất của cuộc khủng hoảng là cái giá phải trả cho những gì là yếu kém, sai sót của một nền kinh tế và nó cũng là một bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế mới sau này, đáng để cho những nhà nghiên cứu, quản lý kinh tế lưu tâm.
II-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Tài chính - tiền tệ
II.1. Thâm hụt tài khoản vãng lai nền kinh tế phát triển mất cân đối:
Thâm hụt trong cán cân thanh toán vãng lai là một căn bệnh kinh niên của ASEAN do hậu quả của việc mở rộng đầu tư nhập khẩu nhiều máy móc sản xuất, vay nợ nước ngoài với khối lượng lớn. Vấn đề này diễn ra nghiêm trọng ở Thái Lan và Malaysia.
Thâm hụt trong cán cân thanh toán vãng lai là lý do chính khiến cho đồng baht Thái Lan bị tấn công từ 1996 đến nay, tức là lúc mà khoản dự trữ ngoại tệ của nước này giảm xuống tới mức báo động và sau đó buộc phải thả nổi đồng baht.
Thái Lan và một số nước Đông Nam á nói chung có tốc độ tăng trưởng cao 7,5% đến 8% trong thập kỷ qua đã ngầm báo hiệu sự mất cân đối bên trong dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Sự mất cân đối trên thể hiện là mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng quá nhanh đã tạo lên sức ép với giá cả, do chi phí tiền lương và chi phí đầu vào của sản xuất ngày càng tăng. Trở lại tốc độ tăng trưởng nóng cao có được có thể là do trong thập kỷ qua.
1. Chính phủ của thủ tướng Prem Tinsulanon điều hành đất nước có hiệu quả, giữ được ổn định chính trị và tài chính, được sự tín nhiệm của nước ngoài.
2. Hệ thống chuyển đổi ngoại hối gắn chặt vào đồng USD. Năm 1989, Thái Lan giảm giá đồng baht theo USD, khiến xuất khẩu nước này tăng mạnh do giá hàng hóa rẻ khiến Thái Lan có lợi thế cạnh tranh với các nước khác có đồng tiền mạnh hơn. Ngoài ra đồng baht yếu còn thu hút vốn đầu tư đổ vào Thái Lan với số lượng lớn.
3. Việc tuyên bố chính sách tự do hóa tài chính năm 1990 của Ngân hàng TW Thái Lan khiến cho cơ cấu kinh tế nước này gắn chặt với thị trường thế giới và nguồn vốn đầu tư lớn còn do giá nhân công, đất đai,... đều hạ.
4. Việc qui định lãi suất cho vay ở Thái Lan cao hơn nước ngoài nên khu vực kinh tế tư nhân Thái Lan trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính để vay vốn của nước ngoài.
Việc chỉ số giá cả tiêu dùng tăng nhanh đạt 5,9% năm 1996 so với 3,4% của năm 1993, nên chính phủ phải tăng lương tối thiểu, trung bình 8,5% năm. Trong khi đó năng suất lao động chỉ tăng trung bình 3% năm. Đặc điểm này cũng diễn ra tương tự ở Malaysia, Inđônêsia, Phillipin. Bên cạnh đó, trừ Inđônêsia phần nào còn dựa vào nguồn dầu mỏ xuất khẩu, còn Thái Lan và Malaysia đều rơi vào tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức báo động. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1995 là 8,1% GDP, 1996 là 9,7% GDP. Tương tự như vậy Malaysia năm 1996 là 9,7 GDP. Đây là mức thâm hụt tài khoản vãng lai bằng mức của Mêhicô khi bùng nổ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1994. Trong khi đó mức thâm hụt của Inđônêsia là 4% GDP và Philippin là 3,2% (1996).
Bàn về nguyên nhân của sự thâm hụt tài khoản vãng lai có thể là do:
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của các nước Đông Nam á từ 1945 giảm mạnh. Tính đến năm 1996 xuất khẩu của Thái Lan tăng chưa đầy 4% so với mức tăng trung bình hơn 25% của giai đoạn 1985-1995.
Tương tự xuất khẩu của Malaysia trong 6 tháng đầu năm 1997 chỉ tăng 2% so với 14% và thâm hụt cán cân ngoại thương 2,7 tỷ Ringgit so với mức thâm hụt 687,6 triệu Ringgit cũng vào thời điểm này trong năm 1996. Đối với Inđônêsia người ta ước tính trong năm 1997 thâm hụt tài khoản vãng lai của Inđonesia sẽ là 10,6 tỷ USD, tăng 800 triệu USD so với dự tính ban đầu là 9,8 tỷ USD. Đối với Philippin thâm hụt tài khoản vãng lai vào 3 tháng đầu năm 1997 là 1,12 tỷ USD so với 923 triệu USD cùng thời kỳ này năm ngoái. Lý do giảm mạnh xuất khẩu của các nước này là do tập trung xuất khẩu vào các ngành công nghiệp điện tử, dệt sợi trước một thực trạng bão hòa về các sản phẩm này trên thị trường thế giới.
2. Do thâm hụt cán cân thanh toán và tài khoản vãng lai ngày càng nghiêm trọng đã buộc các nước trong khu vực phải vay nóng từ các khoản vay ngắn hạn của nước ngoài để bù đắp cho các khoản chi tiêu quá mức.
Nói cách khác, tốc độ tăng trưởng nóng của các nước trong khu vực những năm qua dựa vào một phần chủ yếu đồng vốn nước ngoài. Thực trạng này diễn ra ngày càng tăng ở Thái Lan, Inđonesia, Philippin, Malaysia. Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP của Thái Lan liên tục gia tăng từ 40,6% 1993, 44,3% năm 1994, 49,5% năm 1995 và 52,4% GDP năm 1996.
Nếu Mêhicô, trước khi xảy ra khủng hoảng cuối năm 1994, tỷ lệ nợ nước ngoài chiếm 35% GDP thì tỷ lệ trên của Thái Lan lớn hơn nhiều. Theo số liệu của ngân hàng thanh toán quốc tế, tính đến cuối năm 1996 Thái Lan đã vay 70,2 tỷ USD của nhóm G10 và 7 nước Châu Âu khác. Khi Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng baht, giảm giá trên 30% vào thời điểm cuối tháng 8,97, số nợ nước ngoài của Thái Lan đã tăng thêm 20 tỷ USD so với tổng số nợ gần 100 tỷ USD. Nguy hiểm hơn là gần 60% số nợ trên thuộc diện vay nóng và sắp đến kỳ hạn thanh toán. Tương tự như vậy nợ nước ngoài của Inđônêsia năm 1995 là 116,5 tỷ USD, năm 1996 là 118 tỷ USD và dự tính cuối năm 1997 là 120,5 tỷ USD. Trong đó có 34,3 tỷ USD vay ngắn hạn, chiếm 28,5% tổng số nợ. Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP là 40%. Đối với Philippin nợ nước ngoài chiếm 46% GPD, với tổng số nợ hiện nay khoảng 40 tỷ USD. Malaysia được đánh giá là nền kinh tế phát triển tương đối lành mạnh và là nước có số nợ thấp nhất nhưng dự tính 1997 nợ nước ngoài là 41 tỷ USD so với 38,3 tỷ USD năm 1996, chiếm 39% GDP.
Vấn đề ở đây còn là do tính toán sai lầm của các cơ quan ngân hàng tài chính đã sử dụng phần lớn số nợ này đầu tư vào bất động sản và bành chướng quá mức cơ sở hạ tầng dẫn đến tình trạng khê đọng vốn và làm tăng thêm nguy cơ bất ổn định và mất cân đối vốn có của nền kinh tế khu vực. Hiện nay Thái Lan còn mắc kẹt 32 tỷ USD chiếm 14% tổng số vốn lưu động ở thị trường bất động sản. Đối với Malaysia, Philippin, Inđônêsia cũng diễn ra tương tự. Các công trình khổng lồ như tháp sinh đôi Penonas của Malaysia với diện tích 360.000 m2 và tòa nhà chọc trời dài 20 km, cao 187 m ngốn mất 3,6 tỷ USD hay ở Inđônêsia 14% diện tích các khu vực thương mại với 1/5 số nợ ngân hàng đang trôi nổi trên thị trường bất động sản.
II.1.2 Tỷ giá hối đoái dồn nên 1 cách miễn cưỡng:
Nếu vấn đề trên là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng thì chính sách neo giá giữa đồng tiền khu vực với đồng đô la Mỹ đã tạo nên một hệ thống tỷ giá miễn cưỡng, đó là nguyên nhân dẫn đến việc phá giá hàng loạt đồng tiền khu vực vừa qua. Thực tế cho thấy sau những đợt phá giá liên tiếp các đồng tiền khu vực vào đầu thập kỷ 80, từ 1984 đến nay, đồng baht và các đồng Pêsô, Ringgit, Rupi ngày càng cột chặt hơn vào đồng đô la Mỹ và giữ nguyên tỷ giá cố định từ đó đến nay. Theo lý thuyết chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống Brettơn woods có ý nghĩa tích cực trong việc ổn định đồng nội tệ và hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên nếu lạm dụng vào chế độ tỷ giá cố định trong điều kiện đồng nội tệ trên thực sự bị giảm giá so với các đồng tiền mạnh khác thì cũng như cơ cấu kinh tế vĩ mô mất cân đối lớn sẽ dẫn đến những nguy cơ khủng hoảng.
Trong những năm qua các quốc gia trên đã cột chặt đồng tiền quốc gia mình vào đồng USD bởi lẽ Mỹ là thị trường hàng hóa chính của ASEAN. Sự phụ thuộc của đồng tiền các nước vào USD có tác dụng tốt trong những năm qua nhất là thời kỳ 1990-1994 khi đồng USD giảm giá gần 50% so với đồng Yên Nhật và Mác Đức nhờ đó sức cạnh tranh của ASEAN trên thị trường thế giới mạnh lên, xuất khẩu liên tục tăng cao trong nhiều năm. Điều này làm cho sự ảo tưởng xuất hiện ở các nhà doanh nghiệp, các ngân hàng trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài đều tin vào sự ổn định của tỷ giá hối đoái cố định theo USD. Thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối hay sai lầm rõ rệt là Thái Lan trong 13 năm qua đã bằng nhiều biện pháp đã cố gắng duy trì tỷ giá 25 baht/USD.
Nhưng khi có sự thỏa thuận giữa Mỹ, Nhật về việc nâng giá đồng USD so với đồng Yên thì đồng baht cũng như các đồng tiền khác cũng lên giá so với đồng Yên khiến cho hàng xuất khẩu của Đông Nam á đắt lên ở Nhật và Châu Âu dẫn đến lợi thế cạnh tranh của khu vực giảm mạnh, cộng với nguyên nhân vốn có là sự tăng trưởng cao, lạm phát thấp, cơ sở kinh tế khá vững chắc trong những năm qua khiến cho đồng tiền ASEAN tăng giá trị thực tế dẫn đến xuất khẩu của ASEAN năm 1996 giảm mạnh chưa từng có trong những năm qua.
Cụ thể: 1996 xuất khẩu của ASEAN chỉ tăng 8% so với mức tăng 20% trong hai năm 1994, 1995. Xuất khẩu tăng chậm đã làm cho các nhà đầu tư tà chính quốc tế cho rằng các nước Đông Nam á khi có thể duy trì chính sách lãi suất cao để ổn định tỷ giá. Sáu tháng đầu năm 1997 họ đã bắt đầu rút vốn ra khỏi Đông Nam á hoặc tăng bán các đồng tiền khu vực này ra khỏi thị trường kỳ hạn và kết cục là cuộc khủng hoảng đã nổ ra.
II.2. Những nguyên nhân khách quan:
II.2.1 Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút:
Từ 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát triển giảm sút dẫn đến cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước này là những bạn hàng chủ yếu là đối tác kích thích quá trình tăng trưởng nóng hướng về xuất khẩu của các nước Đông Nam á. Những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Đông Nam á (điện tử, sợi, dệt) đang đứng trước nguy cơ bão hòa của thị trường thế giới.
Năm 1996 thị trường bán dẫn quốc tế suy thoái mạnh, giá vi mạch giảm hơn 80%. Trong khi đó các sản phẩm dân dụng của Nhật, các nước NIC Đông Nam á giảm lượng bán hơn 40% ở thị trường thế giới. Mặt khác sức hấp dẫn của thị trường Đông Nam á trước các đối tác Mỹ và Tây Âu đã giảm sút so với những khu năng động và hấp dẫn hơn ở thị trường Trung Quốc, Đông Âu và thị trường Mỹ La Tinh. Thậm chí ngay cả đối với Nhật, bạn hàng chí cốt của Đông Nam á cũng đang lúng túng về đồng vốn cho vay quá lớn trước những diễn biến xấu của thị trường tài chính tiền tệ khu vực. Theo báo cáo của ngân hàng Dentsch Morgan Giren Tell, hơn một nửa số nợ 70 tỷ USD của Thái Lan là các khoản vay của Nhật và chủ yếu là vay nóng. Do vậy nếu lãi suất của Nhật tăng thì không chỉ chi phí vay nợ của Thái Lan tăng mà đồng vốn vào Thái Lan sẽ giảm đi hoặc đổi chiều. Do đó sẽ dẫn đến khủng hoảng về thanh toán của Thái Lan và sẽ gây áp lực đối với đồng Pêsô và Rupi.
II.2.2 Các hoạt động đầu cơ phá hoại từ bên ngoài.
Theo những nguyên nhân kể trên, chính vì lãi suất trong nước cao hơn bên ngoài nên lượng vốn đổ vào ngày càng nhiều định lượng sai lầm hay sự yếu kém trong các hoạt động tài chính ở Thái Lan đã cho phép vay vốn đầu tư quá mức vào thị trường bất động sản đây cũng chính là hình thức đầu cơ vào đất đai. Ngoài ra theo các nguồn tin nước ngoài có rất nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300 quĩ tín dụng tư nhân ở Mỹ với số tài sản tổng cộng 100 tỷ USD đã nhảy vào đầu cơ tiền tệ ở khu vực này trong 2 tháng. Ngoài các qũy do Soros-nhà tỷ phú đầu cơ Mỹ - kiểm soát còn có các qũy tín dụng lớn khác như Tiger, Orbies, Pumar Pantler và Jaguar. Họ mua đồng baht sau đó lần lượt mua các đồng Renggit, Pesô, Rupi kể cả SGD. Theo ước tính các qũy nói trên đã bán ra một lượng đồng bạc Đông Nam á trị giá từ 10 - 15 tỷ USD và mức độ ảnh hưởng của nó thì còn lớn hơn nhiều.
Các nhà phân tích cho rằng với thực lực hùng hầu như vậy, các qũy tín dụng này hoàn toàn có khả năng tiến hành các nỗ lực phối hợp thúc đẩy hoặc làm trầm trọng thêm các vấn đề kinh tế của các nước Đông Nam á.
Chương II
Tác động của khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam
I-/ Đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng:
I.1 Sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường hối đoái:
Cuộc khủng hoảng ngay lập tực đã gây sức ép giảm giá đồng Việt Nam do thị trường dự đoán khả năng khủng hoảng của đồng Việt Nam, dẫn đến tình trạng giam giữ, đầu cơ ngoại tệ. Tâm lý đầu cơ của thị trường đã đẩy tỷ giá trên thị trường tự do tăng mạnh (có thời điểm tỷ giá VND/USD lên đến mức 14.600 tạo chênh lệch lớn so với tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại). Bên cạnh đó, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại cũng luôn ở mức trên giao dịch cho phép, gây sức ép giảm giá đồng Việt Nam.
I.2 - ảnh hưởng đến cơ cấu tiền gửi của hệ thống ngân hàng:
Cuộc khủng hoảng đã gián tiếp tác động tới cơ cấu tiền gửi giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng. Tiền gửi bằng đồng Việt Nam có xu hướng tăng chậm, trong khi đó tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cả tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân chúng và tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp (tính đến 30/11/1997 tiền gửi ngoại tệ là 526 triệu USD, tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp là 1.720 triệu USD). Nhiều doanh nghiệp giữ ngoại tệ trong tài khoản mà không bán cho ngân hàng để tránh khả năng giảm giá đồng Việt Nam. Tình hình này đã gây nên sự mất cân đối giữa cung, cầu ngoại tệ tại mỗi thời điểm tạo sức ép không nhỏ tới tỷ giá đồng Việt Nam và gây những xáo trộn bất ổn nhất định trên thị trường ngoại hối nước ta.
I.3 - Tác động đến hoạt động giao dịch ngoại tệ:
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế nửa cuối năm 1997, nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ, hoạt động của thị trường có lúc bị ngưng trệ và nhu cầu mua bán chỉ nhằm mục đích phục vụ cho khách hàng chính của mình, không mang tính chất kinh doanh. Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD, giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997.
I.4 - Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp:
Khủng hoảng tiền tệ khu vực tác động tăng tỷ giá hối đoái đã gián tiếp làm tăng thêm các khoản nợ nước ngoài. Đặc biệt là các khoản nợ đến hạn thanh toán. Nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ hoặc phải mua với giá cao đã chịu lỗ rất lớn. Tỷ giá tăng đột biến cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong khi giá hàng hóa trong nước tăng không nhiều.
I.5 - Gây sức ép với lãi suất đồng Việt Nam.
Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn đồng Việt Nam do lãi suất thấp hơn và cũng chịu rủi ro về tỷ giá. Nhu cầu vay vốn VND tăng đã gây mất cân đối cung cầu về tiền trên thị trường, tạo sức ép tăng lãi suất đồng nội tệ và sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chính sách lãi suất nhằm khuyến khích đầu tư kinh doanh sản xuất đối với nền kinh tế.
Tất cả các mức độ ảnh hưởng trên tới lĩnh vực tài chính đã đe dọa sự mất ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thể hiện là sự khó khăn của các Ngân hàng Thương mại về huy động vốn, khả năng thanh toán trong nước và quốc tế.
II-/ Đối với lĩnh vực thương mại:
Để thực hiện những nhiệm vụ do đại hội VIII đề ra trong giai đoạn 1996-2000: “Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 28%, nâng mức xuất khẩu bình quân đầu người năm 2000 lên trên 200 USD. Kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 24%” là không đơn giản, đặc biệt là trong điều kiện diễn biến thị trường quốc tế rất phức tạp, hàng xuất khẩu của Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, thị trường tiêu thụ không ổn định và nói chung quy mô nhỏ, hơn nữa lại phụ thuộc mạnh vào những tác động bên ngoài. Thêm vào đó đa số nhận định là cuộc khủng hoả Tài chính - Tiền tệ các nước Asean đặc biệt Thái Lan chủ yếu ảnh hưởng tới ngoại thương Việt Nam những tháng cuối năm 1997.
Hạn chế cơ bản trong quan hệ ngoại thương Việt Nam Asean là cơ cấu hàng xuất khẩu tương tự nhau, chủ yếu dựa vào nguyên liệu thô, hàng nông sản và hàng dệt may, giày dép. So với các nước trong khu vực Việt Nam tuy có ưu thế về giá nhân công rẻ, vị trí địa lý và ưu đãi thuế quan trong nội bộ Asean. Việc giảm kinh ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong ngoại thương đối với các nước này (có thể dẫn đến thu ngân sách giảm) nhưng không nhiều trong xuất nhập khẩu chính ngạch, nguy cơ chủ yếu là nạn buôn lậu qua biên giới có khả năng gia tăng mạnh.
Xuất nhập khẩu với Asean 1997
Xuất khẩu (triệu USD)
Nhập khẩu (triệu USD)
Tổng kim ngạch
Singapore
Philippines
Thái Lan
Malaysia
Campuchia
Inđônêsia
Tổng cộng
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch
9100-9200
1475
250
195
157
96
40
2213
24,3%
11500-11800
1960
30
420
175
20
150
2755
23,9%
Nguồn Bộ Thương mại
Như vậy, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Nam á chỉ chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1997.
Trong dài hạn, một mặt tuy sản phẩm xuất khẩu của ta gần tương tự như của các nước khác trong khu vực nhưng thị trường tiêu thụ của ta tương đối hẹp và cố định nên ít có khả năng phải đối đầu cạnh tranh trực tiếp với lợi thế xuất khẩu nhờ phá giá nội tệ của các nước này. Hơn nữa phần lớn hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường này là để tái sản xuất. Mặt khác những mặt hàng nhập khẩu của ta từ các nước Đông Nam á chủ yếu là hàng tiêu dùng trong khi tỷ trọng hàng tiêu dùng trong kim ngạch nhập khẩu của ta đang giảm mạnh và được kiểm soát gắt gao. Thêm vào đó chiến lược xuất khẩu của Việt Nam định hướng giảm tỷ trọng của các nước trong khu vực và tăng tỷ trọng của EU cũng như Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu thời gian tới. Vì vậy có thể nói rằng khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ ảnh hướng rất ít tới Việt Nam trong lĩnh vực ngoại thương.
III-/ Đối với lĩnh vực đầu tư:
Nếu đặt yếu tố hàng nhập lậu ra một bên thì đầu tư của Việt Nam có thể chịu những tác động của cuộc khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ như sau:
III.1 Đối với đầu tư trong nước:
Nếu sản xuất hàng tiêu thụ trong nước mà không phải nhập nguyên liệu từ bên ngoài thì không chịu ảnh hưởng gì. Trong trường hợp đầu tư để sản xuất hàng xuất khẩu mà không phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài thì đương nhiên các nhà đầu tư sẽ được hưởng lợi nhuận từ việc VND bị mất giá so với USD. Do đó ngân sách nhà nước cũng sẽ được lợi. Đây là cái lợi lớn nhất trong đầu tư dưới tác động của cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, đồng tiền của các quốc gia này lại bị mất giá mạnh dẫn đến sản phẩm xuất khẩu của họ có giá rẻ hơn ta. Do vậy, cùng điều kiện cạnh tranh như nhau thì sản phẩm xuất khẩu của ta ở thế bất lợi hơn.
III.2 Đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài:
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ ảnh hưởng tới lĩnh vực này thể hiện:
- Sự giảm sút đầu tư trực tiếp vào Việt Nam từ các nước Đông Nam á - các nước đang chịu tác động trực tiếp hoặc có liên quan đến cuộc khủng hoảng. Bởi đồng tiền của họ bị mất giá, sẽ không có lợi thế nếu chuyển đổi ra USD để đầu tư ra nước ngoài.
Đối với các nước khác trên thế giới, về cơ bản lâu dài các nhà đầu tư sẽ nhìn nhận Đông Nam á trong đó có Việt Nam như một khu vực phát triển không ổn định. Do đó, môi trường kinh tế vĩ mô không đủ sức để lôi kéo họ đầu tư vốn, công nghệ và kỹ thuật quản lý vào. Đặc biệt là Việt Nam hiện đang bị phàn nàn là môi trường đầu tư còn chưa được thông thoáng.
Như vậy đầu tư trong nước ít bị tác động của khủng hoảng, song đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị ảnh hưởng do môi trường đầu tư chung của khu vực bị xấu đi.
Chương III
Bài học kinh nghiệm cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á, với những tổn thất to lớn mà nó gây ra cho các nước ảnh hưởng trực tiếp, cũng như những khó khăn mà nền kinh tế Châu á phải chịu là một bài học thực tế cần thiết để cho một nền kinh tế non trẻ như Việt Nam soi mình và rút kinh nghiệm. Với mất mát to lớn của Thái Lan, Indonesia, Phillippine, Hàn Quốc... và những khó khăn nhất định mà chính Việt Nam phải gánh chịu khiến cho các nhà nghiên cứu đúc rút những bài học sương máu cho sự phát triển kinh tế nước nhà:
1. Với những thành quả kinh tế đạt được chúng ta cần phải chú ý phát hiện sớm những vấn đề tiềm ẩn mất cân đối trong nền kinh tế, trong các chính sách đang thực hiện để có các giải pháp kịp thời. Bài học của Thái Lan cho thấy rõ: Các nhà hoạch định chính sách đã không nhìn thấy được dấu hiệu của sự khủng hoảng sắp xảy ra. Họ vẫn giữ quan điểm lạc quan cho rằng, sự tốt đẹp của nền kinh tế vẫn tiếp tục phát triển, họ quên mất thực tế là những điều kiện kinh tế đã thay đổi theo hướng bất lợi. Trong chiến lược phát triển cũng như điều hành vĩ mô cần duy trì một thế cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, lãi suất, ngân sách, cán cân thương mại, cán cân thanh toán. Các chính sách kinh tế vĩ mô cần được điều hành một cách linh hoạt, đồng bộ và phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau.
2. Trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hòa nhập thị trường tài chính quốc tế, việc mở rộng thị trường vốn của mỗi nước là thiết yếu song việc mở rộng cánh cửa thị trường vốn không có nghĩa là hoàn toàn buông lỏng. Mỗi một quốc gia phải duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa:
- Quan hệ tỷ lệ giữa vốn trong nước và vốn vay nước ngoài.
- Quan hệ tỷ lệ giữa vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong khi gọi vốn từ nước ngoài. Nếu tỷ lệ vốn ngắn hạn lớn không ổn định và mong manh sẽ là một vấn đề có tác động rất nhạy cảm khi thị trường tiền tệ trong nước có diễn biến xấu. Sự rút vốn đồng loạt và ồ ạt sẽ là yếu tố gây rối loạn thị trường vốn trong nước.
3. Sự thâm hụt ngân sách, sự thâm hụt cán cân vãng lai là một vấn đề cần được quan tâm thường xuyên và có biện pháp điều chỉnh thích hợp. Kinh nghiệm của các nước Malaysia, Indonesia cho thấy, mặc dù tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai so với GDP thấp hơn của Thái Lan. Mặc dù có dự trữ ngoại tệ tương đối lớn song cũng không ngăn cản được phản ứng dây chuyền của khủng hoảng tài chính ở Thái Lan.
Như đã phân tích ở phần nguyên nhân, tức là chi tiêu quá mức và nâng cao tiền lương so với năng suất lao động... Chính phủ Thái đã vay nóng bằng những món vay ngắn hạn ở Nhật để bù đắp cho thâm hụt ngân sách và đã huy động nhiều mặt để bù đắp. Bài học cho Việt Nam là tuyệt đối chấm dứt cho vay trực tiếp từ ngân hàng trung ương đối với ngân sách Nhà nước. Điều này thể hiện rõ trong chiến lược tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000 và còn thể hiện: Thiếu hụt ngân sách nhà nước cần được hạn chế trong giới hạn lạm phát nhất định và phải giảm dần dẫn đến cân bằng thu chi ngân sách. Phương thức xử lý nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách phải theo phương hướng vay trên thị trường vốn hoặc thị trường tiền tệ thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc.
4. Khủng hoảng tài chính của Mêhicô và Thái Lan cho thấy bài học kinh nghiệm sâu sắc và đắt giá nhất cho việc xác định chính sách và nghệ thuật điều hành tỷ giá. Thái Lan áp dụng chính sách tỷ giá ổn định một cách cứng nhắc và kéo dài đã chỉ đạt hiệu quả trong thời gian đầu, nhưng sau đó đã trở thành lực cản cho việc thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72422.DOC