Ổn định tỷ giá luôn là một tiền đề quan trọng để cho các nhà đầu tư an tâm, ít lo ngại rủi ro hối đoái. Nhưng ổn định không có nghĩa là neo chặt tỷ giá hối đoái ở một mức cố định kéo dài quá lâu, không còn phù hợp với các thông số khác của nền kinh tế. Chúng ta phải thường xuyên xử lý mối quan hệ giữa 3 thông số cơ bản: tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Điều này có thể được thực hiện thông qua một loạt các thông số khác như: khả năng dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, chênh lệch về lạm phát giữa các nước, chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái tự do và chính thức.
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nhằm hỗ trợ cho chính sách tỷ giá hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngoài ra, tỷ giá hối đoái cố định có thể cung cấp một mỏ neo hữu dụng cho việc ổn định giá cả bởi việc nối một quốc gia nhỏp với nền kinh tế thế giới (đặc biệt là với một quốc gia lớn và giá cả tương đối ổn định như Mỹ và Đức).
Tuy nhiên, nếu chính phủ không có khả năng giữ tỷ giá hối đoái ở mức bền vững thì các luồng vốn tư nhân có thể đổ vào như rút ra rất nhanh gây ra áp lực phá giá lớn. Một cuộc bảo vệ thành công tỷ giá hối đoái có thể phải trả giá rất đắt, đòi hỏi quốc gia phải nâng cao lãi suất và như vậy làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thế giới hiện đại với những luồng vốn tư nhân khổng lồ, các nhà kinh tế ngày càng đi đến quan điểm thống nhất là các quốc gia chỉ có thể được hưởng lợi từ chế độ tỷ giá cố định bằng hai cách: Kiểm soát hối đoái ngặt nghèo để trực tiếp giới hạn tác hại của đầu tư tư nhân, hoặc đưa ra những cam kết đáng tin cậy để làm thị trường tin rằng nó vẫn sẽ đứng vững dù có các cuộc tiến công đầu cơ dai dẳng và mạnh mẽ.
Cho đến nay, những gì đã xảy ra với nền kinh tế các nước cho thấy rằng hệ thống tài chính quốc tế lại đang nằm trong môi trường của một thế giới với cơ chế tỷ giá thả nổi lai có quá nhiều biến động và một cơ chế tỷ giá ấn định lại quá dễ dàng bị tổn thương bởi sức ép đầu cơ.
Trong điều kiện phát triển một nền kinh tế mở cửa, thì chính sách tỷ giá tiền tệ luôn là một trong những vấn đề trung tâm và nhạy cảm của đời sống kinh tế xã hội. Chính sách điều tiết tỷ giá theo kiểu chết cứng, ổn định hay thả nổi hoàn toàn đều có tác động tích cực và tiêu cực. (Trong đó tiêu cực nhiều hơn đến mục tiêu mà nó muốn hướng tới nói riêng và đến sự ổn định của nền kinh tế nói chung. Điều quan trọng là phải đặt chính sách tỷ giá trong sự thống nhất đồng bộ với các chính sách và định hướng phát triển chung của nền kinh tế, cũng như cần được điều chỉnh linh hoạt, kịp thời theo những biến động thị trường dựa vào các quan hệ cung cầu ở trong và ngoài nước sao cho các cân bằng vĩ mô (xuất - nhập khẩu, tỷ giá - lãi suất - thuế quan; tỷ giá - giá cả nội địa...) luôn được hài hoà và duy trì theo hướng tích cực. Có lẽ đã đến lúc cái chung chính sách tỷ giá bản tệ của một nước được "séo cố định vào đồng tiền của một nứoc khác dù là mạnh nhất, vì nó biến chính phủ của nước đó thành tù binh của chính mình, cũng tựa như khi áp dụng chính sách thả nổi hoàn toàn tỷ giá - tức là áp dụng công cụ của một nền kinh tế thị trường phát triển hoàn hảo, vào một nền kinh tế chưa thực sự hoàn thiện.
Vậy đâu là một giải pháp "an toàn nhưng hiệu quả" cho Việt Nam, điều này phải xuất phát từ chính thực tiễn và định hướng phát triển của nền kinh tế. Cho dù còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, sự bất đồng trong quan điểm trong chính sách tỷ giá hối đoái thì chúng ta cũng không thể phủ nhận một điều rằng: Tỷ giá hối đoái là một công cụ quan trọng - thậm chí là một vũ khí lơi hai trong thương mại và vận hành nền kinh tế. Trên thế giới chúng ta đã được thấy vai trò của tỷ giá trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt giữa Mỹ - Nhật - Tây Âu. Vẫn biết tỷ giá hối đoái là một vấn đề nhạy cảm. Nhưng cụ thể ra thì sự nhạy cảm đó được biểu hiện khi nào. Câu trả lời ở đây là: Không phải lúc nào chúng ta cũng có được tất cả những điều kiện thuận lợi cho việc thực thi một chính sách tỷ giá mà ngày hôm nay được coi là hoàn toàn hợp lý. Một sự lên giá đồng tiền đột phá trong quan hệ thương mại, hay một sự mất giá đồng loạt của những đồng tiền trong khu vực, hay những xáo trộn trong bản thân nền kinh tế của mỗi nước... đều đỏi hỏi phải có được những phản ứng tích cực trong chính sách về tỷ giá. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng bỏng và được nhiều người quan tâm. Chính sách tỷ giá đã được nhà nước ta sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Trong thực tế cho thấy tại những thời điểm khác nhau, nếu không có quyết sách về tỷ giá kịp thời, phù hợp sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm quá trình đầu tư trong nước, làm thâm hụt cán cân thương mại và khó có thể thực hiện thành công những mục tiêu và nhiệm vụ cuả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công những mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và khi đã đặt mình vào hoàn cảnh "Sự đã rồi" thì mọi giải pháp đưa ra chỉ còn mang tính chất tình thế hay buông trôi để rồi hứng chịu tất cả. Trong phạm vi bài viết này, chúng em xin được đề cập đến một khía cạnh của vấn đề: Phá giá đồng nội tệ, cái được hay cái mất.
Chương III. ảnh hưởng phá giá nội tệ và kinh nghiệm của một số quốc gia
I. Nguyên nhân dẫn đến phá giá đồng tiền.
Đó là khi một đồng tiền được đánh giá quá cao hay quá thấp so với đồng tiền khác. Nếu đồng nội tệ được định giá quá cao làm cho nhập khẩu trở lên rẻ hơn giả tạo đối với người tiêu dùng và xuất khẩu trở nên đắt hơn đối với người sản xuất, từ đó làm giảm sản xuất nội địa, tăng thâm hụt ngân sách và tăng thất nghiệp. Đặc biệt, nếu việc định giá quá cao cố định và kéo dài sẽ là nguyên nhân quan trọng gây ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ do làm giảm sức cạnh tranh xuất khẩu, làm tăng mạnh dòng vốn vay bất chấp khả năng rủi ro thanh toán, kích thích nhập khẩu và tiêu dùng quá mức, nền kinh tế phát triển quá nóng và thiếu một loạt hệ quả tiêu cực làm theo.
Ngược lại, nếu nội tệ được định giá quá thấp sẽ làm tăng lạm phát, tăng chi phí dịch vụ nợ, tăng giá hàng nhập khẩu, làm tăng nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp, tăng nạn thấp nghiệp, kéo theo sự mất ổn định lan truyền toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Việc nhấn mạnh một chiều các lợi ích do giá trị nội tệ quá cao hoặc quá thấp đem lại là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn và chứa đựng trong nó tất cả những hiểm hoạ bùng nổ trong tương lai, khiến toàn bộ nền kinh tế phải trả giá đắt hơn những lợi ích thu được. Khi tỷ giá giữ ở mức hợp lý sẽ tạo ra quan hệ bình đẳng trong cạnh tranh, phân phối và thu nhập, sẽ khuyến khích phát triển sản xuất ... do vậy, trên thực tế chính phủ các nước đã phải thực hiện điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa cho phù hợp tỷ giá hối đoái thực tế. Có nhiều phương pháp điều chỉnh tỷ giá, trong đó phá giá tiền tệ là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa (theo hướng làm giảm giá nội tệ so với đồng ngoại tệ, đã tạo được khẳng định về mặt lý thuyết và đã được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên quyết định phá giá tiền tệ phải được cân nhắc thận trọng có tính đến tác động tích cực và tác động tích cực của nó để có những đối sách thích hợp.
II. Những tác động tích cực của việc phá giá đồng bản tệ.
Trước hết, phá giá sẽ giảm giá tương đối hàng xuất khẩu, do đó về lâu dài sẽ thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại từ đó tăng khối lượng dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Phá giá sẽ làm tăng giá đồng USD, do vậy hạn chế việc đầu đồng USD, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Vào những năm 70 - 80, cứ chu kỳ 3 - 5 năm vào thời điểm biến động kinh tế thế giới (tăng, giảm giá dầu quốc tế, tăng lãi suất quốc tế) một số nước đang phát triển đã tiến hành phá giá từng đợt. Tuy nhiên kết quả của những đợt phá giá này rất khác nhau. Một số quốc gia khá thành công trong việc thực hiện phá giá chẳng hạn như: Năm 1979, trong tình trạng thâm hụt thương mại, chính phủ Braxin đã tăng tỷ giá hối đoái lên 30% và cán cân thương mại bắt đầu có thặng dư trong năm 1981 - 1982. Đến tháng 2/1983, chính phủ lại tăng tỷ giá tiền 30%. Kết quả thật khả quan năm 1984, cán cân thương mại dư thừa 11 tỷ USD và cán cân thanh toán quốc tế đạt mức cân bằng lên đầu tiên trong nhiều năm.
III. Những tác động tiêu cực của việc phá giá đồng bản tệ.
Việc phá giá có thể mang lại những kết quả tiêu cực, song nó cũng có thể gây ra những hiệu quả ghê gớm không lường.
Một là, phá giá sẽ làm tăng thêm lạm phát vì nó làm tăng giá các vật tư và thiết bị nhập, thu hẹp lãi của các doanh nghiệp sản xuất, sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu tài chính dẫn đến bội chi ngân sách và làm cho lạm phát sẽ khó kiểm soát hơn. Đồng thời khi lạm phát tăng sẽ làm tăng tỷ giá. Càng phá giá càng không kiểm soát nổi tiền tệ và đất nước sẽ lâm vào vòng xoáy của mô hình: phá giá - tăng lạm phát - tăng bội chi ngân sách - tăng lạm phát - phá giá. Về vòng xoáy sau lớn hơn vòng xoáy trước.
Hai là: Phá giá dẫn đến tăng giá hàng nhập, hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Phá giá làm cho giá cả hàng nhập trở lên đắt hơn. Trong khi đó, ở hầu hết các nước kém phát triển, tỷ lệ "nhập đầu vào" của sản xuất rất cao do họ muốn rút ngắn quá trình phát triển và tận dụng lợi thế của người đi sau. Như vậy khi phá giá vô hình dung đã làm cho giá thành sản xuất tăng, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Mặt khác, khi nội tệ giảm giá mạnh sẽ khiến cho nhiều chủ đầu tư chuyển dịch tài sản từ nội tệ sang đồng ngoại tệ mạnh (USD) lúc này cầu về ngoại tệ cũng có nghĩa là góc nội tệ càng giảm. Để cân bằng lại và kiềm chế lạm phát do phá giá thì chính phủ phải tăng lãi suất tiền gửi nội tệ, tức là lãi suất tín dụng cho sản xuất tăng. Hậu quả là chi phí sản xuất sẽ tăng, hạn chế tốc độ tăng trưởng, thất nghiệp tăng. Tất cả tình hình trên tác động xấu đến xuất khẩu.
Mêxicô là một ví dụ về thất bại trong việc thực hiện phá giá: Năm 1976, tỷ giá tăng từ 12,5 Peso/1USD tới 22 Peso/1 USD, song do tỷ lệ lạm phát khá cao (1977: 17%; 1981: 28%) nên nhập khẩu gia tăng đáng kể , làm cho tỷ giá thực giảm, do vậy cán cân thương mại vẫn bị thâm hụt. Đến năm 1982, Mêxicô gặp khó khăn trong thanh toán nợ, thâm hụt tài chính 5% GDP, lạm phát lên tới 59%. Khi chính phủ lại quyết định phá giá một lần nữa, nhưng kết quả là tỷ giá hối đoái thực giảm xuống, cán cân thương mại xấu đi. Gần đây nhất việc phá giá đồng bản tệ (từ 3283 peso/1USD lên 7200 peso/1USD) đã làm cho tính chất của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính trầm trọng (hàng chục tỷ USD chạy ra nước ngoài, gánh nặng nợ nước ngoài tăng 57%, Chính phủ phải vay 20 tỷ USD để hỗ trợ kinh tế theo điều kiện bất lợi...) Nguyên nhân là việc phá giá diễn ra trong lúc lạm phát đang ở mức rất cao (thời kỳ 1987 - 1994 mức lạm phát trung bình là 53,7%), thâm hụt cán cân thương mại rất lớn (năm 1994 thâm hụt gần 30 tỷ USD) và nguồn vốn nước ngoài giảm mạnh.
IV. Lời giải cho sự thành công trong phá giá đồng tiền.
Trong quá trình diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, những nước thuộc thị trường mới nơi đã phải trải qua nhiều sức ép nặng nề đối với đồng bản tệ. Trong nhiều trường hợp đáng chú ý nhất, tất nhiên, chính tại Châu á - điều này đã dẫn tới việc bãi bỏ các tỷ giá cố định và dẫn tới những biến động lớn, tỷ giá nhiều đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng vượt ra khỏi những dự đoán được xem là hợp lý trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng. Nhưng trong những trường hợp khác, các nhà điều hành đã duy trì thành công các tỷ giá hối đoái cố định (Argentina và Hồng Kông) hoặc có những điều chỉnh với một mức độ linh hoạt nhất định (Braxin) hoặc có những sự sụt giá với những mức độ điều chỉnh linh hoạt hơn (Mexico trong giai đoạn sau này) hoặc thiết l ập lại sự ổn định tỷ giá hối đoái tương đối nhanh chóng ngay sau lần sụt giá ban đầu - (cộng hoà séc).
Vậy, điều gì đã làm nên những thành quả đó. Không khác hơn đó chính là do có sự phối hợp đồng bộ trên phạm vi vĩ mô những chính sách và có những quyết định đúng đắn, tích cực trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Một sự nâng đỡ không đúng cách sẽ dẫn đến những đổ vỡ không đáng có, mà ở đây chính là việc quá bất cập trong thay đổi tỷ giá mà không xét đến tình hình tài chính - tiền tệ trong nước, một kết cục đi ngược lại những gì mà những nhà hoạch định mong muốn. Những mâu thuẫn bên trong, cũng như những vết thương chưa được tẩy rửa lại càng đã đem băng bó lại, sẽ càng làm tăng thêm tính trầm trọng và nguy hiểm của nó. Để giải quyết mâu thuẫn này, chúng ta hãy đặt chính sách tỷ giá như là một thành tố của chính sách tiền tệ, giải quyết điều chỉnh những mối quan hệ trong đó, đặc biệt là mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái. Chúng ta sẽ xem xét xem hai "bánh xe" công cụ này khi có được sự đồng bộ, cân đối lẫn nhau sẽ tác động tới sự vận hành và định hướng của "cỗ xe" kinh tế như thế nào.
Chương IV. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
Thật ra, việc xem xét tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với chính sách tiền tệ là cần thiết đối với tất cả mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, nhằm bảo vệ và đảm bảo lợi ích cho riêng mình. Việt Nam quan tâm đến mối quan hệ trên cũng không nằm ngoài hai mục đích này. Vấn đề chúng ta cần tìm hiểu ở đây là đối với một nền kinh tế nhỏ bé và non yếu như của Việt Nam trong xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, những đe doạ tiềm ẩn có thể đến từ đâu cũng như những mục tiêu, quên lợi gì Việt Nam cần phải đảm bảo trong chiến lược phát triển kinh tế của mình? Một cách tốt nhất để xem xét vấn đề này là xuất phát từ chính thực tiễn những gì đã xảy ra đối với nền kinh tế các nước trong khu vực - những nước có những nét tương đồng Việt Nam trong định hướng phát triển kinh tế ổn định, bền vững hướng vào xuất khẩu.
I. Trong điều kiện khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Đầu tiên chúng ta sẽ xem xét đến việc bảo vệ một đồng tiền đang phải chịu sức ép nặng nề. Trong trường hợp này việc thắt chặt chính sách tiền tệ nói chung là cần thiết. Đối với các nhà đầu tư, mức lãi suất cao hơn sẽ làm tăng lợi nhuận danh nghĩa từ các tài sản được tính bằng giá trị đồng tiền này, và làm cho việc đầu tư trở lên tốn kém hơn do việc tăng chi phí khi đi vay tiền. Một chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn có thể sẽ hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái bằng cách giảm bớt những dự báo về lạm phát trong tương lai, và nhờ thế cũng giảm bớt những dự báo về sự mất giá của đồng tiền. Một sự đối phó mạnh mẽ đối với sức ép tiền tệ cũng làm giảm bớt rủi ro vỡ nợ cho dân chúng trong nước khi đi vay bằng ngoại tệ. Nhưng như thế không có nghĩa là việc thắt chặt chính sách tiền tệ được coi như sự đối phó với sức ep lên đồng tiền. Chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm tăng gánh nợ của những người đi vay bằng đồng nội tệ, điều này có thể gây áp lực lên tỷ giá hối đoái khi các nhà đầu tư phải chịu rủi ro tín dụng cao hơn và vì thế, dẫn đến một mức bù đến rủi ro cũng cao hơn cho chính đồng tiền đó. Như vậy khi một chính sách tiền tệ được thắt chặt hơn, sẽ có những ảnh hưởng xấu hơn trong trường hợp những nền kinh tế có khối lượng nợ bằng đồng nội tệ tương đối lớn, hoặc khi do có những vấn đề về mức độ tín nhiệm, những mức lãi suất cao buộc phải duy trì trong một thời gian dài. Hơn nữa những mức tăng lãi suất dường như không đủ để tạo ra một sự hỗ trợ lâu dài cho tỷ giá hối đoái, khi có thể có những mâu thuẫn lớn giữa tỷ giá hối đoái về các nguyên tắc kinh tế cơ bản, hoặc trong bối cảnh những nền kinh tế mà các mức lãi suất cao không bền vững, dù trong bất kỳ thời điểm nào.
Điểm qua một số nước, ta thấy những nước thi hành chủ trương tăng quá cao lãi suất trong lúc đồng tiền mất giá mạnh (như Thái Lan, Hàn Quốc) đã gặp khó khăn nhiều hơn so với những nước chủ trương phối hợp chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất (Trung Quốc, Malaixia). Việc Trung Quốc liên tục hạ lãi suất đã giúp nước này duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện không phá giá đồng nhân dân tệ. Một trong những lý do khiến Thái Lan gặp khó khăn là do đồng tiền được định giá quá cao và cân phải có sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên sự xiết chặt chính sách tiền tệ phải đi kèm với những điều chỉnh hợp lý về tỷ giá hối đoái.
II. Trong định hướng phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu.
ổn định tỷ giá luôn là một tiền đề quan trọng để cho các nhà đầu tư an tâm, ít lo ngại rủi ro hối đoái. Nhưng ổn định không có nghĩa là neo chặt tỷ giá hối đoái ở một mức cố định kéo dài quá lâu, không còn phù hợp với các thông số khác của nền kinh tế. Chúng ta phải thường xuyên xử lý mối quan hệ giữa 3 thông số cơ bản: tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Điều này có thể được thực hiện thông qua một loạt các thông số khác như: khả năng dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, chênh lệch về lạm phát giữa các nước, chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái tự do và chính thức... Thi hành chính sách tỷ giá sao cho vừa thúc đẩy xuất khẩu với tư cách là động lực mạnh nhất của tăng trưởng kinh tế, vừa không phá vỡ các mục tiêu mà chính sách lãi suất thị trường đang hướng tới (đảm bảo tính lành mạnh của môi trường kinh doanh thị trường, tạo khả năng huy động tiết kiệm nội địa lớn, xác lập nguyên tắc khách quan để nguồn vốn được phân phối chủ yếu cho các dự án đầu tư hiệu quả cao - tiết kiệm vốn và tận dụng thế mạnh lao động, tạo vòng tuyến vững chắc ngăn chặn gia tăng lạm phát. Trong khi vốn duy trì được mức đầu tư cao. Thực ra theo nguyên lý thông thường của kinh tế học, hai mục tiêu này của chính sách tỷ giá là đối nghịch nhau. Song trên thực tế không phải là có cách để xử lý thành công tính đối nghịch này. Cụ thể, Đối với các nền kinh tế Đông á trong giai đoạn 1960 - 1990 đều theo đuổi chính sách tỷ giá không đánh giá cao đồng tiền tệ. Định hướng chính sách đó nhằm đảm bảo cho tỷ giá giữ được vai trò thúc đẩy xuất khẩu. Nhưng để không gây ra tình trạng bất ổn định trong hệ thống tiền tệ, việc điều chỉnh tỷ giá theo hướng "mềm hoá" không diễn ra thường xuyên, không thuần tuý do thị trường quyết định. Nhà nước chủ động can thiệp vào quá trình chính sách này là đặc điểm nổi bật của cách điều hành và sử dụng công cụ tỷ giá nhằm mục tiêu phát triển. Một số nước chủ trương tiến hành phá giá sau từng quãng thời gian dù dài (Đài Loan) một số nước lại lựa chọn hướng ổn định tỷ giá lâu dài trên cơ sở thiết lập mức tỷ giá "xuất phát" đủ mềm, tức là có khả năng thúc đẩy xuất khẩu trong nhiều năm (Thái Lan). Dù là khác nhau song hướng tiếp cập ở đây là thống nhất: tỷ giá phải thoả mãn một số yêu cầu như tính thị trường, duy trì sức cạnh tranh xuất khẩu của tỷ giá, đảm bảo cân bằng giữa sức mua đối nội (đo qua lãi suất) và sức mua đối ngoại (đo trực tiếp qua tỷ giá) của đồng nội tệ.
Như vậy vấn đề cốt lõi ở đây là làm sao cân bằng được xu hướng tác động ngược chiều giữa chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá hối đoái một cách tích cực. Việc kết hợp chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá - hai thành tố chủ yếu nhất của chính sách tiền tệ - theo hướng tao nên trục cốt lõi đảm bảo phối hợp các chính sách vĩ mô để cùng hướng đến mục tiêu chung: Phát triển bền vững hướng mạnh đến xuất khẩu.
Trên đây, chúng ta đã xem xét tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Rõ ràng, xem xét mối quan hệ này là cực kỳ quan trọng. Nó sẽ hướng cho chúng ta một cách tiếp cận logic và có khoa học trong việc thực hiện những mục tiêu kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, thế vốn chưa đủ để có thể đạt được thành công. Việc nhận thức này lại phải xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế của Việt Nam. Với một nền kinh tế dễ bị tổn thương với một đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi, hệ thống ngân hàng yếu kém và các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, một cơ cấu sản xuất và một cơ cấu hàng xuất khẩu luôn gây ra những áp lực lớn đối với việc phá gía đồng Việt Nam, thì việc có những điều chỉnh linh hoạt kịp thời trong tỷ giá là một điều vô cùng quan trọng. Theo dõi sự giao động của tỷ giá trong những năm qua có thể dễ dàng thấy rằng bằng cách phá giá từng bước đồng Việt nam, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đang tạo ra những biện pháp khuyến khích cho dịch chuyển cơ cấu sản xuất hướng đến xuất khẩu, đồng thời tạo nên những điều kiện thuận lợi thực hiện từng bước quá trình tự do hoá tài khoản vãng lai tiến tới hội nhập.
Chúng ta sẽ điểm lại toàn bộ quá trình diễn biến của tỷ giá hối đoái trong vòng 10 năm qua để thâý rằng đó đã là những bước đi vô cùng cần thiết tạo động lực phát triển kinh tế, đồng thời chúng ta sẽ có được một định hướng về tỷ giá hối đoái cho tương lai.
Chương V. sự phát triển của Tỷ giá hối đoái Việt Nam
I. Nhìn lại sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam.
Giai đoạn 1955 - 1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi về thả nổi có quản lý, nhưng các nước trong hệ thống XHCN (trong đó có Việt Nam) với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh tế, lại là chế độ tỷ giá cố định. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là: tỷ giá phi mậu dịch về tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy chế độ tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thông tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá trở thành vấn đề cấp bách, sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tỷ giá hối đoái cũng có những cách đặc biệt:
Tháng 3/1989: Nhà nước công bố chính thức xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức được NHNN công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất. CCTT tham khảo diễn biến tỷ giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các NHTM xây dựng một tỷ giá riêng cho mình trong giao dịch hàng ngày có biên độ giao động cho phép. Nhìn chung, những giải pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Tuy nhiên tỷ giá trên thị trường vẫn biến động mạnh, mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào cuối năm 1991. (1USD = 13.000đ) nguyên nhân chính làm cho USD tăng giá là do ảnh hưởng của tình hình CCTT quốc tế, sự thâm hụt tài chính của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam.
Nhằm thúc đẩy thị trường giao dịch ngoại tệ chính thức, NHNN đã hình thành một sàn giao dịch ngoại tệ tại Thành phố Hồ Chí Minh vào cuối tháng 8/1991 tại Hà Nội vào tháng 11/1991. NHNN đã qui định biên độ giao dịch tối đa so với tỷ giá chính thức và được NHNN công bố là 10,5%. Tuy nhiên do sự không hiệu quả của hai sàn giao dịch này, nên ngày 14 - 10 - 1994. NHNN đã ra quyết định số 204/QĐ - NHNN hình thành một thị trường liên ngân hàng cho các giao dịch ngoại hối thay cho 2 sàn giao dịch cũ. NHNN vẫn tiếp tục qui định biên độ giao dịch tỷ giá mua và bán là 10,5%, kết quả của những biện pháp cải cách này là hết sức khả quan, hầu hết các NHTM lớn đều tham gia vào thị trường liên ngân hàng cùng với lượng giao dịch trung bình một ngày khoảng 3 triệu USD.
Năm 1996, mức thâm hụt cán cân thương mại ở nước ta lên đến 4 tỷ USD, mức thâm hụt cán cân thương mại ở nước ta đến 4 tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu so với GDP lên đến 16%, cao gần rưỡi so với các nước có mức độ nhập siêu cao nhất thế giới, nhu cầu USD tăng tạo sức ép giảm giá VND. Do vậy, NHNN đã mở rộng biên độ giao động của tỷ giá từ 0,5% trước đây lên 4% và vào tháng 2/1997 biên độ này là 5% bên canh đó tỷ giá chính thức cũng được nâng dần lên. Nhìn chung, từ đầu năm 1997 tỷ giá USD/NVD liên tục tăng lên, không còn ổn định như thời gian từ 1993 - 1996. Ngày 2/7/1997, ngòi nổ của cuộc khủng hoảng tiền Châu á bắt đầu phát ra từ Thái Lan, là một nước trong cùng khu vực, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng đến tình hình buôn bán, thanh toán và kể cả về tâm lý. Ngày 13/10/1997, NHNN quyết định nới rộng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức. Cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu như khu vực mua bán ngoại tệ của các NHTM thường xuyên bán sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy nhưng giá trên thị trường tự do còn cao hơn nhiều (có lúc lên đến 14000 đ/1USD).
Đứng trước tình hình này, những tháng đầu năm 1998, NHNN đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm ổn định thị trường, đặc biệt là hai lần chủ động điều chỉnh tỷ giá: lần 1, ngày 16/12/1998 nâng tỷ giá từ 11.175đ/1USD lên 11.800đ/1USD làm tỷ giá giao dịch của NHTM xấp xỉ với tỉ giá trên thị trường tự do lên 2, ngày 07/8/1998 tỷ giá chính thức được nâng từ 11.888đ/1USD lên 12.998đ/USD tăng 16,3%. Bên cạnh đó biên độ giao dịch ngoại tệ cũng được thu hẹp lại còn 7% chứ không phải là 10% như trước đây nữa. Việc làm này đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM.
Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trường này thường xuyên xấp xỉ nhau. Và gần đây nhất vào đầu năm 1999, NHNN để đưa ra những biện pháp cải cách chính sách điều hành tỷ giá mạnh mẽ do những áp lực giảm sút sức cạnh tranh trong thương mại quốc tế, mà nguyên nhân chính là từ cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực đem lại. Do những áp lực tạo ra từ việc định giá tỷ giá quá cao, NHNN lần này đã đưa ra những cải cách có tính chất mạnh mẽ hơn: xoá bỏ tỷ giá chính thức được công bố bởi NHNN hàng ngày, thay vào đó NHNN đã tôn trọng qui luật hoạt động của thị trường hơn, thông qua việc qui định các NHTM chỉ được phép giao dịch ngoại tệ trên biên độ 10,1% so với tỷ giá đóng cửa của thị trường liên ngân hàng của ngày giao dịch cần thiết. Quyết định này được công bố bằng hai quyết định số 64,65/1999/QĐ - NHNH vào ngày 25/2/199
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33677.doc