Phần mở đầu
I. Lý do lựa chọn đề tài
II. Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài
III. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
1.Phương pháp nghiên cứu
2.Đối tượng nghiên cứu
NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm
2. Mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa du lịch và văn hóa
2.1. Sự tác động của văn hóa đối với du lịch
2.2. Sự tác động của du lịch đối với văn hóa
3. Điều kiện để phát triển du lịch lễ hội làng nghề
3.1 Điều kiện chung
3.2. Các điều kiện đặc trưng
4. Mối quan hệ của phát triển du lịch lễ hội làng nghề với bảo tồn và phát triển các làng nghề
Chương II. Cơ sở thực tiễn
I.Các điều kiện để phát triển du lịch ở Bắc Ninh
1.Giới thiệu vè Bắc Ninh
Về hành chính
Về điều kiện tự nhiên
Về tài nguyên, khoáng sản
Về dân số
Về thành phần dân số
Về kinh tế
Về giao thông
2. Điều kiện phát triển du lịch lễ hội làng nghề ở Bắc Ninh.
2.1.Làng nghề truyền thống
2.2. Một số lễ hội tiêu biểu ở Bắc Ninh
2.3.di tích di sản văn hóa
3.Thực trạng, và nguy cơ mai một của các làng nghề ở Bắc Ninh, và cuộc sống của người dân nơi đây.
4. Thực trạng du lịch lễ hội làng nghề ở Bắc Ninh
5. Đánh giá thực trạng hoạt động Du lịch tỉnh Bắc Ninh
5.1. Thực trạng hoạt động Du lịch
5.1.1. Về khách Du lịch:
5.1.2. Về doanh thu Du lịch:
5.1.3. Lao động trong ngành Du lịch:
5.2. Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ Du lịch
5.2.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật Du lịch:
5.2.2. Cơ sở hạ tầng:
5.3. Thực trạng đầu tư trong du lịch.
5.4. Hiện trạng tổ chức và quản lý các hoạt động kinh doanh Du lịch
III.Một số đề xuất để phát triển du lịch ở Bắc Ninh
Tài lệu tham khảo
46 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những lễ hội, làng nghề ở Bắc Ninh và những điều kiện để phát triển du lịch lễ hội làng nghề ở Bắc Ninh. Thực trạng và một số đề xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam tức Thái sư Lê Văn Thịnh và Doãn Công.
Lễ hội Đồng Kỵ.
Lễ hội Chùa Dâu.
(Theo âm lịch)
Tháng giêng:
* Mùng 4:
Hội rước pháo, thi pháo, tế bánh dầy, diễn trò ôm cột, dô Ông Đám, múa hoa làng Đồng Kỵ ở xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn.
Hội xem hoa mẫu đơn, diễn trò "Từ Thức gặp tiên" ở chùa Phật Tích (Phật Tích Tiên Du).
Hội thi kéo co giữa nam và nữ làng Hữu Chấp ở xã Phong Khê, huyện Yên Phong.
Hội rước lợn ỷ và đuổi cuốc làng Trà Xuyên ở xã Khúc Xuyên, huyện Yên Phong.
Hội hát Quan họ làng Ó (Hội Ó) ở xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh. Tối họp chợ âm phủ và bán gà đen.
Hội làng Vó (tức Quảng Bố) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài có tục đánh cá làm gỏi để tế thần Đông Hải Đại Vương.
Mùng 4-5: Hội đuổi cuốc ở làng Xuân Đài (Vạn Linh, Gia Bình).
*Mùng 5:
Hội Nguyện Cầu (Tam Giang, Yên Phong) có tục ném pháo vào cai đám.
*Mùng 6:
Hội hát quan họ các làng Ném (Khắc Niệm) ở xã Khắc Niệm, huyện Tiên Du và làng Khả Lễ ở xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh.
Hội rước chạ Khả Lễ, Bái Uyên ở xã Liên Bão, huyện Tiên Du.
Mùng 6-7: Hội thi mã Đông Hồ ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành.
*Mùng 7:
Hội hát Quan họ làng Đống Cao, xã Phong Khê, huyện Yên Phong.
Mùng 5-7: Hội "Bách nghệ" làng Như Nguyệt ở xã Tam Giang huyện Yên Phong. Biểu diễn các nghề của tứ dân "Sĩ, nông, công, thương".
Mùng 6-15: Hội "chen" làng Nga Hoàng (Yên Giả Quế Võ) có diễn trò trai gái, già trẻ chen nhau.
*Mùng 8-10:
Hội Phú Mẫn ở thị trấn Chờ, huyện Yên Phong.
Hội hát Quan họ làng Bò Sơn (Võ Cường, Thành phố Bắc Ninh) có diễn trò đập nồi niêu.
*Mùng 9:
Hội làng Tam Sơn ở xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn.
Hội thi nấu cơm làng Tư Thế ở xã Trí Quảng, huyện Thuận Thành.
Hội làng Trần ở xã Hạp Lĩnh, huyện Tiên Du.
*Ngày 11-12: Hội thi đọc mục lục làng Phù Khê ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn.
*Ngày 12-13: Hội Lim ở thị trấn Lim, huyện Tiên Du.
*Ngày 10-15:
Hội làng Vân Đoàn (Đức Long, Quế Võ) có tục rước lợn đen (ông ỷ).
Hội làng Đình Cả, Lộ Bao (Nội Duệ, Tiên Du) có tục "cướp chiếu", "tế trâu thui".
*Ngày 13-15:
Hội làng Thau (Kim Thao) ở xã Lâm Thao, huyện Lương Tài. Nổi tiếng về thi đấu vật.
*Ngày 14-15: Hội đền Bà Chúa Kho, làng Cô Mễ ở xã Vũ Ninh, thị xã Bắc Ninh.
*Ngày 18-21: Hội chùa Tổ ở xã Thái Bảo, huyện Gia Bình.
Tháng 2:
*Mùng 6:
Hội đình Keo ở Phù Chẩn, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh.
*Mùng 6-12:
Hội trình nghề ở Phương La Đông, Phương La Đoài (Tam Giang Yên Phong).
*Mùng 7:
Hội đền Đức Vua Bà (Thuỷ tổ Quan họ) làng Viêm Xá (Diềm) ở xã Hoà Long, huyện Yên Phong.
Hội "Thập Đình" làng Bảo Tháp ở xã Đông Cứu, huyện Gia Bình.
Hội Viềng (Vĩnh Kiều) ở xã Đông Nguyên, huyện Từ Sơn.
Hội làng Dương Lôi (Đình Sấm) ở xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn để kỷ niệm ngày mất của bà Phạm Thị thân mẫu Lý Công Uẩn.\
Hội Chùa Đài hay còn gọi là chùa Kim Đài, Đình Bảng, Từ Sơn
Hội làng Tam Tảo ở Phú Lâm, huyện Tiên Du.
*Mùng 7-15:
Hội tranh cây mộc tất làng Long Khám ở xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du.
*Mùng 8:
Hội làng Nguyễn Thụ ở xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn.
Hội làng Yên Lã ở xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn.
Hội chùa Tiêu ở xã Tương Giang, huyện Từ Sơn.
*Mùng 8-10:
Hội làng Cẩm Giang ở xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn.
*Mùng 10 - 12:
Hội Làng Yên Mẫn - phường Kinh Bắc - Thành phố BN
*Ngày 14:
Hội chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ.
*Ngày 14-15:
Hội chùa làng Nghiêm Xá ở xã Việt Hùng, huyện Quế Võ.
*Ngày 12-16:
Hội đình Đình Bảng (Đình Bảng Từ Sơn) có đón chạ Cẩm Giang và thi đấu vật.
*Ngày 26:
Hội làng Tiến Sĩ Kim Bôi ở xã Kim Chân, huyện Quế Võ.
*Ngày 28: Hội chiến thắng Như Nguyệt ở xã Tam Giang, huyện Yên Phong.
Tháng 3:
*Mùng 8:
Hội làng Trang Liệt ở xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn.
Hội làng Phù Lưu ở xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn.
*Mùng 10:
Hội đền Than ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
Hội làng Tiểu Than (Vạn Linh Gia Bình) có diễn trò đua thuyền, bơi chải.
Hội "Thất thôn giao kiệt" làng Phú Mẫn ở thị trấn Chờ, huyện Yên Phong.
Hội làng Đông Phù (Phú Lâm Tiên Du) có trò rồng rắn đuổi bệt.
*Ngày 15-17:
Hội đền Lý Bát Đế ở xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn.
*Ngày 18-20:
Hội Đậu (Mộ Đạo Quế Võ) có thi thả diều, bơi chải.
*Ngày 24: Hội chùa Bút Tháp ở xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành.
Tháng 4:
*Mùng 7:
Hội Khám (Hội chùa Linh Ứng), làng Ngọc Khám ở xã Gia Đông, huyện Thuận Thành.
*Mùng 8:
Hội Dâu (Chùa Dâu) ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành.
*Mùng 9:
Hội làng Vó (Quảng Bố) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài.
*Mùng 10:
Hội làng Bưởi (Đại Bái) ở xã Đại Bái, huyện Gia Bình.
Hội đền Thánh Tổ (Bồ Tát) ở Đại Phúc, thị xã Bắc Ninh.
*Ngày 15:
Hội đền Xà ở xã Tam Giang, huyện Yên Phong.
*Ngày 20:
Hội đền Vân Mẫu ở xã Vân Dương, huyện Quế Võ.
Tháng 8:
*Mùng 5:
Hội làng Đông Xá ở xã Đông Phong, huyện Yên Phong.
*Mùng 7:
Hội rước nước làng Thị Cầu ở phường Thị Cầu, thị xã Bắc Ninh.
*Ngày 15:
Hội rước nước đền Phả Lại ở xã đức Phong, huyện Quế Võ.
*Ngày 15-16:
Hội đền Chi Long ở xã Long Châu, huyện Yên Phong.
Tháng 9:
*Mùng 8-9:
Hội chùa Dạm ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ.
*Mùng 10-18:
Hội thi nói khoác làng Đông Yên ở xã Đông Phong, huyện Yên Phong.
Tháng 10:
*Ngày 15:
Hội thi giã bánh dầy làng Đạo Chân ở xã Kim Chân, huyện Quế Võ
2.3.di tích di sản văn hóa
Chùa Bút Tháp
Chùa Tiêu - Trung tâm Phật giáo xưa của Việt Nam
Chùa Tổ - Huyền tích của một vùng Tứ Pháp
Đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua triều Lý
Chùa Dạm
Chùa Dâu
Chùa Phật Tích
Đền Bà Chúa Kho
Giếng Ngọc và đôi cá chép 100 tuổi
Đình làng Đình Bảng
Đền Phụ Quốc
Đình Chùa Làng Yên Mẫn
3.Thực trạng, và nguy cơ mai một của các làng nghề ở Bắc Ninh, và cuộc sống của người dân nơi đây.
Du lịch văn hóa (đặc biệt là du lịch lễ hội làng nghề)là một loại hình khá mớ mẻ ở nước ta nói chung và ở Bắc Ninh nói riêng. Ngành du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp nó phụ thuộc rất nhiều vào các ngành nghề kinh tế khác. Đặc biệt là ngành văn hóa,tuy nhiên thực trạng lại co thấy giữa du lịch và văn hóa nói riêng và với các ngành kinh tế khác nói chung còn chưa có sự kết hợp hợp lý. Sự quản lý chồng chéo, dẫn tới tình trạng cha trung không ai khóc, trách nhiệm của các bên là không rõ ràng, tình trạng lấn chiếm không gian của đình chùa, và khi các lễ hội diễn ra không có một chủ thể quản lý rõ ràng lên có tình trạng lộn xộn, chuộc lợi. Các trò chơi chương trình tại các lễ hội không được quản lý,các trò chơi dân gian dần dần không còn thấy nữa thay vào đó là những trò như sóc đĩa,cờ bạc ăn tiền…điều đó làm cho các lễ hội mai một dần và mất dần bản sắc và ý nghĩa của nó. Đánh mất đi sự hấp dẫn của mình. Thử hỏi như vậy thì du lịch lễ hội làm sao có thể phát triển.
Bắc Ninh có nhưng điều kiện khá thuận lợi để phát triển du lịch đặc biệt là du lịch “lễ hội, làng nghề”( chỉ chiếm khoảng 0.3%-> 0.4% tổng doanh thud u lịch).Tuy nhiên nhưng thực tế cho thấy du lịch ở Bắc Ninh lại không hề phát triển. Bởi tính chất nhỏ lẻ của các tài nguyên du lịch, đăc biệt bản thân người dân nơi đây cũng không hề có khái niệm về du lịch chỉ đơn giản là những cuộc đi chơi hoặc du xuân mang tính chất “truyền thống”.(Bắc Ninh hàng năm có tới 300 lễ hội nhưng đa số là những lễ hội nhỏ người ta chỉ biết một vài lễ hội điển hình như hội đền bà chúa kho, hội đền đô, hội lim…).
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ nhưng lại có rất nhiều các làng nghề lổi tiếng. Tuy nhiên cũng giống như các lễ hội các làng nghề ở đây đang đứng trước nguy cơ mai một và thực tế là đã có rất nhiều các làng nghề tưởng chừng đã mai một. Nói tới nguyên nhân, đúng là cũng chẳng thể trách ai, nền kinh tế bung ra, nền sản xuất tiến tiến áp dụng khoa học kỹ thuật tỏ ra ưu việt hơn rất nhiêu kiều phương thức sản xuất thủ công, và dần dần các sản phẩm thủ công dần dần không thể cạnh tranh nổi, và mất dần. Một số làng nghề tỏ ra nhạy bén với thị trường vẫn thích nghi được, nhưng ở tình trạng ngày nào hay ngày ấy không có gì là đảm bảo bởi một kế hoạch lâu dài. Đã có nhiều dự án để quy hoạch phát triển các làng nghề(xây dựng các khu công nghiệp..). Cùng với sự giúp đỡ của nhà nước:
“ Thứ nhất: Xây dựng và quản lý các cụm công nghiệp làng nghề. Bắc Ninh coi việc quy hoạch tạo mặt bằng cho sản xuất ở các làng nghề là một khâu đột phá quan trọng trong phát triển làng nghề. Hình thành các khu, cụm công nghiệp làng nghề, thực chất là chuyển một phần diện tích đất canh tác nông nghiệp của chính làng nghề sang đất chuyên dùng cho sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và tạo điều kiện cho các hộ sản xuất trong các làng nghề di dời ra khu sản xuất tập trung, tách sản xuất ra khỏi khu dân cư. Theo quan điểm của tỉnh Bắc Ninh, việc làm này cần phù hợp với đặc điểm riêng của từng làng, từng nghề. Vì vậy, tỉnh Bắc Ninh có chủ trương chỉ thực hiện việc di rời đối với những khâu sản xuất đồng bộ, những công đoạn lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm. Đối với hoạt động sản xuất những chi tiết nhỏ lẻ, không ảnh hưởng đến môi trường, sức khoẻ của cộng đồng thì vẫn được sản xuất, kinh doanh ở từng hộ gia đình nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện và tập quán lao động của người dân trong làng nghề.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, các ngành chức năng của tỉnh phối hợp với các địa phương đã tiến hành xây dựng được 21 khu công nghiệp làng nghề với tổng diện tích đất qui hoạch là 460,87 ha. Trong đó điển hình là khu công nghiệp làng nghề Châu Khê, Từ Sơn có diện tích 13,5 ha, đã thu hút 159 cơ sở sản xuất thép trong làng thực hiện di dời ra khu công nghiệp; khu công nghiệp gỗ mỹ nghệ Đồng Quang có diện tích 12,7ha, thu hút 71 công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn di chuyển vào khu công nghiệp; khu công nghiệp giấy Phong Khê diện tích 12,7ha cũng đã được cấp phép xây dựng cho 22 công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty tư nhân.
Để các khu, cụm công nghiệp làng nghề được hình thành và hoạt động có hiệu quả, Bắc Ninh đã thành lập ra ban quản lý các khu công nghiệp làng nghề. Ban quản lý các khu công nghiệp làng nghề có nhiệm vụ giúp các cấp, các ngành, trước hết là Uỷ ban nhân dân cấp xã, huyện thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp làng nghề. Ban quản lý này là một đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, được sử dụng con dấu và mở tài khoản theo quy định hiện hành của Nhà nước. Ban quản lý các khu công nghiệp làng nghề là cơ quan trực tiếp quản lý các khu công nghiệp làng nghề, đồng thời là đầu mối phối hợp với các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, các tổ chức kinh tế - xã hội và Uỷ ban nhân dân các xã có khu công nghiệp làng nghề để giải quyết những vấn đề phát sinh trong việc quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp làng nghề. Ban quản lý các khu công nghiệp làng nghề chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã dưới sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của các ngành chức năng thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Cơ quan này là đầu mối triển khai, thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan, trực tiếp xây dựng điều lệ quản lý các khu công nghiệp làng nghề, trực tiếp triển khai qui hoạch chi tiết, được Uỷ ban nhân dân huyện uỷ quyền quản lý trước, trong và sau khi đầu tư đối với các khu công nghiệp làng nghề.
Thứ hai, vấn đề vốn cho sản xuất kinh doanh. Để giải quyết vấn đề khó khăn về vốn cho sản xuất kinh doanh của các làng nghề, Bắc Ninh đã chú trọng đến hệ thống ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Với 7 chi nhánh cấp huyện, thị của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và nhiều chi nhánh liên xã hầu hết nằm ở khu vực kinh tế phát triển (bán kính bình quân 7 km có một chi nhánh). Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh thực hiện chủ trương tất cả các dự án khả thi của các hộ sản xuất đều được Ngân hàng cho vay 70% giá trị mua sắm tài sản cố định bằng nguồn vốn vay trung hạn và hỗ trợ cho vay từ 30-50% vốn lưu động. Nhiều làng nghề được Ngân hàng cho vay đã nhanh chóng nâng cao được năng lực sản xuất, kinh doanh, có doanh thu hàng trăm tỷ đồng/năm, như làng mộc mỹ nghệ Đồng Kỵ, sắt Đa Hội… Đặc biệt, sự đầu tư của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã góp phần khôi phục làng nghề dâu tằm tơ truyền thống Vọng Nguyệt xã Tam Giang huyện Yên Phong. Nhờ được khôi phục, làng nghề này đã thu hút trên 1.000 lao động, gồm 120 xưởng sản xuất và làm ra gần 40 tấn kén/năm.”( Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam.htm)
Tuy vậy đó mới chỉ là mặt “ phải “ mà chúng ta nhìn thấy về thực trạng các làng nghề ở Bắc Ninh. Sự phát triển thậm chí quá ồ ạt của các làng nghề đôi khi đã lằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền nơi đây :bên cạnh những khu công nghiệp được xây dựng thành công thì cũng có không ít các khu công nghiệp “thất bại” ví dụ như:cụm công nghiệp làng nghề “Quảng Bố_Đại Bái”đã tốn không ít tiền của và bây giờ đó chỉ còn là bãi đất chống và mấy ngôi nhà siêu vẹo. Cái mất ở đây không chỉ là tiền của mà còn cả lòng tin của nhân dân nơi đây kéo theo đó là hàng loạt các hậu quả về chính quyền nơi đây…đó là những cụm công nghiệp thất bại còn đối với những cụm công nghiệp đã dược gọi là thành công thí sao?. Tình trạng ô nhiễm môi trường không thể kiểm sóat mà đã xó không ít những bài báo đã đề cập tới. Nhưng hình như chưa bao giờ được để ý tới thực sự. Người ta vẫn nói những vùng nông thôn là những vùng có khí hậu tuyệt vời nhất. từ trước tới nay khi nhắc tới vấn đề môi trường thì chỉ có môi trường đô thị. Nhưng nay “ môi trường nông thôn” cũng là một vấn đề lớn ở các làng nghề. “Đường đến làng nghề giấy Phong Khê (huyện Yên Phong) đầy những ổ gà, ổ voi do hàng trăm chuyến ô tô chở giấy phế liệu qua lại mỗi ngày. Trong làng, những đống giấy phế liệu chất cao ngút. Khắp làng nồng nặc mùi hóa chất, tạp chất thải ra trong quá trình sản xuất giấy. Bụi giấy và khói than ở khắp nơi.
Toàn xã•hiện có trên 100 hộ sản xuất giấy bằng công nghệ kiềm lạnh trên dây chuyền bán công nghiệp lạc hậu, thiết bị tự tạo, chắp vá không đồng bộ và với nguồn nguyên liệu chính từ giấy thải thu mua ở khắp nơi chuyển về.
Công nghệ sản xuất lạc hậu cộng với ý thức bảo vệ môi trường của dân làng chưa cao đã biến Phong Khê thành một bãi rác lớn với đủ loại chất thải rắn thải ra từ quá trình sản xuất giấy. Chưa hết. Sau quy trình làm giấy, các loại hóa chất như phèn, nhựa thông, sút... hòa tan trong nước chưa qua bất cứ khâu xử lý nước thải nào cũng được đổ ra đất. Nước thải ô nhiễm này đã biến những con mương trong mát của làng thành màu đen và nồng nặc mùi hôi.
Tệ hơn, dòng nước đen ngòm ấy lại đổ thẳng ra sông Ngũ Huyện Khê- một sông lớn trong vùng. Trong khi đó, 100% các làng nghề không có chương trình cấp nước sạch. Cư dân làng nghề chủ yếu dùng nước giếng khoan cho sản xuất và cả cho sinh hoạt mà các chỉ số về độ ô nhiễm nước tại hầu hết các làng nghề đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 3 đến 5 lần.
Các nhà bảo vệ môi trường nghĩ sao khi trung bình mỗi ngày, làng giấy Phong Khê thải ra gần 1.000 m3 nước thải cùng hàng nghìn mét khối bụi giấy, khói than? Đến Phong Khê bây giờ, ngoài mùi hôi khó ngửi, đi đâu cũng có thể thấy xỉ than, ny lông, đinh ghim, bìa - gáy của các loại sách tập cũ vương vãi khắp nơi.
Theo thống kê sơ bộ của trạm y tế xã Phong Khê, tỷ lệ người mắc bệnh tai mũi họng toàn xã chiếm gần 40%, các bệnh da liễu trên 30%. Những năm gần đây, tỉ lệ mắc các bệnh này tại xã tăng lên nhanh chóng.
Không chỉ ở làng nghề giấy Phong Khê, các làng nghề khác ở Bắc Ninh như làng sản xuất sắt thép Đa Hội, làng đúc nhôm chì Văn Môn, làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ… tất cả đều chung tình trạng ô nhiễm tương tự mà chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu.
Phòng Quản lý môi trường Sở Tài nguyên – Môi trường tỉnh Bắc Ninh cho biết cả phòng hiện chỉ có 8 cán bộ mà phải “quản” trên 3.000 doanh nghiệp sản xuất lớn nhỏ trong toàn tỉnh. Do vậy, chỉ với việc tham mưu cho các cấp biện pháp quản lý môi trường thôi cũng đã không kham nổi, nói gì đến việc cán bộ quản lý môi trường đi vận động hay kiểm tra vệ sinh môi trường thường xuyên.
Ngoài ra, cũng theo các cán bộ phòng quản lý môi trường này, tình trạng ô nhiễm càng thêm khó hạn chế khi có không ít lãnh đạo các địa phương chưa nghiêm túc trong việc chỉ đạo thực hiện các quy định cũng như xử lý các vi phạm về quản lý môi trường trên địa bàn mình quản lý.
Thời gian qua tỉnh Bắc Ninh đã có chủ trương tách việc sản xuất ra khỏi các khu vực sinh sống của các làng nghề. Thế nhưng trong quá trình thực hiện, nhiều xã đã không kiên quyết trong việc di dời các hộ sản xuất hoặc không dành đủ quỹ đất để cấp cho các hộ sản xuất, dẫn đến việc chia tách khu vực sản xuất với khu vực dân cư không thành công.
Tại xã Phong Khê, khi cụm công nghiệp 13,5 ha bố trí cho 80 doanh nghiệp, hộ sản xuất được quy hoạch xong cũng đành bỏ không vì địa phương không kiên quyết di dời. Nhiều hộ sản xuất đăng ký vào sản xuất trong cụm công nghiệp nhưng rồi thấy địa phương ậm ờ nên tiếp tục duy trì việc sản xuất tại gia đình.
Còn tại làng nghề gỗ Đồng Quang - Đồng Kỵ, quy hoạch cụm công nghiệp quá nhỏ, số hộ đăng ký sản xuất nhiều, dẫn đến khi giao đất mỗi hộ sản xuất chỉ còn 150m2 đến 200m2, không đủ đất để tổ chức sản xuất. Kết quả là đất công nghiệp biến thành đất ở, cụm công nghiệp trở thành cụm dân cư.
Đáng buồn hơn, xảy ra cả trường hợp một đơn vị liên doanh sản xuất vật liệu xây dựng đặt tại tỉnh, trong hồ sơ thiết kế đã tính toán đầu tư trạm xử lý khí thải trên 10 triệu USD (khoảng 10% tổng vốn đầu tư của nhà máy) song để “thu hút đầu tư”, tỉnh cho nhà máy được phép hoàn thành phần xử lý khí thải sau khi hoàn thành đầu tư xây dựng nhà máy nên bây giờ, nhà máy đã đi vào hoạt động nhưng hệ thống xử lý khí thải chưa vận hành và ngày ngày đang thải khí ô nhiễm vào môi trường.
Gần đây, đề án “Kế hoạch bảo vệ môi trường tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2010” đã được UBND tỉnh thông qua, theo đó, Bắc Ninh sẽ ưu tiên đầu tư xử lý tổng thể tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Hy vọng lần này, đề án sẽ thành hiện thực.”( - O nhiem lang nghe Bac Ninh - Bắc Ninh Portal - www_bacninh_gov_vn.htm).
“Bắc Ninh là một trong những tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống đứng đầu Việt Nam, với những sản phẩm nổi tiếng như sắt thép (Đa Hội, Châu Khê, Từ Sơn), giấy (Phong Khê, Phú Lâm), nấu rượu (Đại Lâm, Tam Đa), đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ... Song song với sự giàu lên nhanh chóng của các làng nghề thì cũng kéo theo sự ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vậy đâu là lời giải để làng nghề truyền thống phát triển bền vững?
... Biết nguy hiểm nhưng vẫn làm
Bước chân vào đầu làng Mẫn Xá, xã Văn Môn chúng tôi đã cảm thấy nghẹt thở bởi... cái mùi đặc trưng của một làng tái chế nhôm. Những bãi sắt thép phế liệu bị ô xi hoá, hoen rỉ chất cao hàng chục mét đang chờ xử lý; các loại nilon to nhỏ vắt vẻo trên những hàng cây, bay là là dưới đất; mặt đường phủ một lớp bụi đen chỉ chực bốc lên mù mịt mỗi khi có xe cộ qua lại... Nguy hiểm nhất là những chất thải rắn độc hại như các bình chứa thuốc sâu cũ hoặc các bình hoá chất vứt bừa bãi ra đường làng ngõ xóm. Nguyên liệu chủ yếu để sản xuất là các loại phế liệu nhôm từ vỏ lon, khung nhôm, xoong nồi, các chi tiết và bộ phận máy, thậm chí là cả những bình hoá chất độc hại như bình thuốc sâu hoặc bình khí độc hại của quân đội thải ra... Mỗi năm, Văn Môn thu gom tới 8000 tấn phế liệu đủ các loại từ Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Thanh Hoá, Quảng Trị... để tái chế các loại phế liệu này thành nhôm thỏi, 1 tạ nhôm thành phẩm phải cần tới 80 - 100 kg than. Mỗi năm để cho ra thị trường từ 4.500 đến 5000 tấn nhôm luyện và nhôm đúc, người sản xuất cần tới 1.200 đến 1.500 tấn than.
Còn tại các cơ sở sản xuất, công nhân chủ yếu là người vùng khác đến làm thuê, phương tiện bảo hộ lao động của họ chỉ đơn thuần là những chiếc khẩu trang thông thường, không quần áo chuyên dụng, rất ít người đeo kính bảo vệ mắt. Các xưởng sản xuất đều rất thấp, mái lợp tôn xi măng lại không có ống khói thoát khí nên hơi nóng toả ra từ lò nung phế thải, bụi than, bụi nhôm, cộng thêm các loại khí thải như CO, CO2, SO2, NO... ứ đọng, không thoát nhanh được đã tạo nên bầu không khí ô nhiễm nghiêm trọng. Nhiều người lần đầu tiên bước chân vào xưởng đều thấy ngột ngạt, khó thở, chảy nước mắt dàn dụa, người sức yếu có thể ngất...
... Vẫn là bình mới rượu cũ
Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bắc Ninh cho biết: "Sức khoẻ của người dân không được đảm bảo, số người dân bị nhiễm các bệnh về đường hô hấp như bệnh phổi, viêm phế quản; bệnh về mắt, bệnh da liễu... ngày càng tăng". Đáng lo ngại nhất là nồng độ khí SO2 và CO2 đo được tại cổng trường tiểu học của xã Vân Môn cao hơn tiêu chuẩn cho phép là 1,1 lần đối với CO2 và 1,1 - 5,6 lần đối với SO2 khiến trẻ em thường bị mắc bệnh còi xương. Tại làng giấy Phong Khê, không chỉ có môi trường nước mà đất cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nước thải cùng với rác thải chất đống tại các thửa ruộng đã làm mất khả năng canh tác, lúa non ở nhiều thửa ruộng gần các cơ sở sản xuất bị chết hàng loạt. Nguy cơ ô nhiễm nguồn nước ngầm ở các làng nghề ảnh hưởng, nhất là ở Phong Khê tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bình thường của trẻ em. Nhằm bảo vệ sức khoẻ cho người dân sống trong làng nghề, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh đã có giải pháp tách các hộ sản xuất ra khỏi khu dân cư, tập trung thành một cụm công nghiệp riêng rẽ. Tuy nhiên, giải pháp này cho đến nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Bắc Ninh có tới 61 làng nghề truyền thống nhưng mới chỉ tập trung được một số ít làng vào cụm công nghiệp như cụm công nghiệp Châu Khê, Đình Bảng, Tân Hồng, Tiên Sơn, Phong Khê, Đồng Quang...
Tại các cụm công nghiệp tập trung các cơ sở sản xuất được đầu tư đầy đủ về cơ sở vật chất, hệ thống đường nước thải và xử lý rác thải, chất thải rắn. Tuy nhiên, sự tập trung các cơ sở sản xuất vào cụm công nghiệp này mới chỉ dừng lại ở mức độ di chuyển sự ô nhiễm từ địa điểm này sang một địa điểm khác, chứ chưa thực sự làm thay đổi hay bớt đi chất gây ô nhiễm. Bởi một trong các nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đó là công nghệ sản xuất lạc hậu, chắp vá. Hiện nay, vì lợi nhuận mà những cơ sở này khi di chuyển sang cụm công nghiệp tập trung vẫn vận hành công nghệ cũ lạc hậu. Bên cạnh đó, tại nhà riêng của họ vẫn duy trì dây chuyền sản xuất cũ. Hai dây chuyền sản xuất lạc hậu, chắp vá này cùng song song tồn tại cho nên giải pháp của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bắc Ninh chỉ là nửa vời, khác nào "bình mới rượu cũ".
Để tìm ra biện pháp hợp lý vừa phát triển kinh tế làng nghề truyền thống vừa bảo vệ được môi trường, đảm bảo sức khoẻ cho người dân nhất là thế hệ tương lai, thiết nghĩ cần phải có giải pháp đồng bộ từ phía người dân và cả chính quyền địa phương. Về phần chính quyền địa phương có thể hỗ trợ về vốn, để người dân thay đổi công nghệ lạc hậu, chuyển giao công nghệ, khuyến khích người dân áp dụng sản xuất sạch hơn, chính sách ưu tiên ưu đãi đối với những cơ sở sản xuất có đầu tư cho môi trường, tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về những tác hại do ô nhiễm làng nghề gây ra để làm thay đổi nhận thức của người dân... Đối với người dân cần sớm nhìn nhận thấy cái lợi lâu dài bỏ qua cái lợi trước mắt, để cùng với cộng đồng giữ gìn môi trường của làng quê, trong đó có gia đình mình.”
Phương Anh - Thanh Giang (Khoa học và đời sống, số 81, ngày 10/10/2005, tr.5)
Đấy là những ô nhiễm về môi trường tự nhiên, đã may mắn mà chúng ta còn nhìn thấy được,còn những ô nhiễm về môi trường văn hóa mà ta không nhìn thấy được, đó mới là những ô nhiễm bức thiết hơn và để giả quyết nó không phải chỉ đơn thuần là những biện pháp cơ học . Khi cuộc sông vật chất của người dân được nâng cao và kéo theo đó là sự du nhập của các luồng văn hóa mới tạm gọi đó là “văn hóa thành phố “. Nếu chỉ có như vậy thì đâu có gì để nói nhưng vấn đề là ở chỗ khi tới vùng nông thôn và áp dụng cho nhưng ngươi dân “mà mới hôm qua còn là dân cày” thì nó đã bị biến dạng, đó là tình trạng ăn chơi quá mức dẫn tới nạn cờ bạc, nghiện hút, rồi chộm cắp…thậm chí là giết người cứơp của, một điều đáng buồn hơn là những tệ nạn này lại phổ biến ở lớp thanh niên “ thế hệ tương lai”. Vậy nguyên nhân là do đâu? Khi đời sống vật chất nâng cao, song song với nó là sự phát triển của đời sống tinh thần. Tuy nhiên trong kế hoạch phát triển hình như đã chỉ chú ý đến sự phát triển và tăng vọt của “sản lượng_doanh thu_việc làm” chưa hề lường hết được vấn đề này. Vậy phải chăng đó là quá khập khiễng. Hay trong kế hoạch phát triển bền vững của các làng nghề thực chất vẫn chưa phủ hết nghĩa “phát triển bền vững” của nó
4. Thực trạng du lịch lễ hội làng nghề ở Bắc Ninh
Bắc Ninh có tiềm năng du lịch rất lớn. Là một tỉnh có bề dày lịch sử, có một nền văn hoá nhân văn đặc sắc với 204 di tích lịch sử - văn hoá đã được Nhà nước công nhận như: Văn Miếu, Đền Đô…, một vùng quê văn hiến Bắc Ninh – Kinh Bắc có nhiều di tích lịch sử văn hoá, lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống…là những điểm hấp dẫn thu hút khách, tạo cho du lịch Bắc Ninh những tiềm năng hết sức phong phú. Tuy nhiên thực tế lại thật đáng buồn. Có khi chính những người dân nơi đây lại không nhận thấy “cơ hội lớn “ mà mình đang có được. Tỉnh Bắc Ninh có “sở thương mại và du lịch” tuy nhiên vai trò của nó rất mờ nhạt. Thậm chí để tìm thấy một website của sỏ thương mại và du lịch còn khó huống chi là tìm những
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- H0035.doc