Đề tài Những nét văn hóa về người Nùng

MỤC LỤC

 

LỜI CẢM ƠN 1

DẪN NHẬP 2

PHẦN I 2

NHỮNG NÉT CHUNG VỀ NGƯỜI NÙNG 2

I. Giới thiệu khái quát về xã Phúc Sen 3

1. Về xã hội 4

2. Về an ninh 4

II. Mục đích nghiên cứu 4

III. Phương pháp nghiên cứu 4

IV. Khái quát các thuật ngữ liên quan 4

V. Những vấn đề liên quan đến báo cáo 4

1. Khái niệm 4

1.1. “Văn hóa = way (S) of life” 4

1.2. Văn hóa là sự lựa chọn 5

1.3. “Con người là cái có sau tự nhiên. Văn hóa là cái có sau rốt” 5

2. Định nghĩa: (Nguyễn Từ Tri) 5

PHẦN NỘI DUNG 6

I. Nhà ở 6

II. Thức ăn, uống, hút 10

III. Chế biến thực phẩm 14

IV. Lễ hội 18

V. Trang phục 18

VI. Quan hệ gia đình 19

VII. Tín ngưỡng 20

VIII. Chữ viết 20

IX. Nhận xét chung 20

PHẦN II 21

NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ TRANG PHỤC NGƯỜI NÙNG AN 21

I. Đôi nét về xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên , tỉnh Cao Bằng 21

1. Truyền thuyết về người Nùng An 21

2. Xã Phúc Sen ngày nay 22

II. Trang phục người Nùng An 23

1. Những nhận định chung 23

2. Phương thức dệt 24

3. Cảm nhận của người viết 26

PHẦN III 27

ĐẶC TRƯNG VỀ LỄ HỘI 27

1. Lễ hội pháo hoa 28

2. Hội thanh minh 33

3. Kết luận 34

KẾT LUẬN 35

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4681 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nét văn hóa về người Nùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sau buổi đi làm việc nói lên một nề nếp làm ăn, một sự siêng năng trong công việc của người lao động chính trong gia đình. Còn tiếng chày vang lên trong lúc mọi người đi làm ngoài đồng, chứng tỏ việc nhà bỏ bê, con cháu lười biếng . Còn giã gạo bằng cối nước, thì lúc đi làm, đồng bào mang thóc về để vào cối nước, buổi hết, lấy gạo giã về nhà . Chế biến lương thực chính là gạo tẻ,được dùng hằng ngày, quanh năm. Nói thiếu ăn là thiếu gạo tẻ. Từ gạo tẻ chế biến thành các thứ sau đây: Gạo tẻ nấu thành cơm trong các bữa chính là bữa trưa, và bữa chiều, gạo tẻ nấu thành cháo ăn trong các bữa sáng. Gạo tẻ nấu thành cháo loãng húp thay nước khi mùa hè đi làm về mệt , nóng lực. Gạo tẻ xay bột làm bánh tẻ, gạo tẻ làm bún, làm bánh cuốn. Gạo nếp được dùng ít hơn và thường phải có trong các dịp lễ tết, cúng bái, cưới xin, ma chay, sinh nhật, sinh trẻ nhỏ. Hằng ngày, thỉnh thoảng đồng bào dùng gạo nếp, tháng đôi ba lần, ăn cho vui, nhưng đôi khi cũng ăn trừ bữa thay cơm tẻ. Từ nếp, đồng bào chế biến thành nhiều món ăn khác nhau : Chế biến đơn giản nhất là đồ xôi hoặc nấu cơm nếp. Đồng bào hay nhuộm xôi thành các màu, tím, xanh, vàng, trắng trong dịp tết Thanh minh và lễ hội bắn Pháo hoa cũng có làm . Bánh chưng: Đồng bào Nùng cũng làm bánh chưng bằng lá dong, lá chuối và gói thành các loại bánh dài hay vuông. Trong bánh chưng cũng có thể làm nhân các loại sau đây: Thịt lợn, hành, đỗ xanh, nhân hành đỗ xanh, nhân hạt lạc giã nhỏ, nhân đường phên... Cũng có trường hợp gói bánh chưng không nhân để thờ cúng hoặc để ăn. Trong dịp lễ tết đồng bào Nùng còn làm bánh dày, món bánh này là đặc trưng của họ Nông. Người ta kể lại rằng, người phụ nữ Nông khi đang trông nồi bánh chưng, địu con trên người, chẳng may rơi vào nồi bánh. Từ đó, người họ Nông còn có tục làm bánh dày vào ngày tết . Bánh dày thường có hai dạng to,nhỏ khác nhau. Bánh dày to hình tròn, có đường kính khoảng gần hai gang tay, dày độ 3cm, thường dùng để biếu nhân ngày sinh... Bánh dày nhỏ hình tròn, đường kính trung bình bằng miệng bát con, để ăn, để cúng... Khi có nhu cầu ăn cho vui, đồng bào chỉ làm bánh dày nhỏ, có loại bánh dày có nhân, cũng có loại không nhân, mà có món chấm để riêng. Nhân bánh dày có thể là đỗ xanh phi hành mỡ, có thể là nhân muối lạc hoặc vừng, đường. Ngày cuối tháng giêng (âm lịch ) đồng bào hay làm bánh dày lá ngải nhân vừng, đường. Có lúc bánh dày nhuộm phẩm đỏ bên ngoài, hoặc bánh dày được vẽ các loại hoa văn hình học bằng phẩm đỏ hoặc tím không độc hại. Những đường nét hình học chủ yếu là hình tròn viền răng cưa, các hình vuông, lồng vào nhau, hình ngôi sao năm cánh. Bố cục các hình tam giác liền nhau như hàng răng cưa của đồng bào . Bánh gai là loại bánh được làm vào dịp tết 14/7. Ngoài ra, họ còn làm bánh chuối vào dịp 14/7. Bánh rợm làm khi thích ăn và khi có thì giờ . Bánh tro làm để cúng vào dịp 5/5, là bánh không nhân, khi ăn chấm mật mía . Bánh trôi làm phổ biến vào dịp đông chí. Ngoài ra, có thể tuỳ ý thích làm để ăn vào các dịp khác tuỳ thích. Gạo nếp, ngâm qua đêm, xay nước, cho vào túi vải, treo lên cho chảy bớt nước. Bột đang nhão mềm, vo thành viên tròn thả vào nước mật loãng đang sôi trên bếp, mới thả vào, viên bánh chìm xuống dưới nước. Bếp vẫn tiếp tục đỏ lửa, nước mật tiếp tục sôi. Khi nào thấy viên bánh nổi lên, là bánh đã chín, vớt ra ăn được. Bánh trôi thường ăn với gia vị gừng. Gừng dập nát, bỏ một chút vào bát nóng rồi ăn ngay, có mùi thơm, ấm, dễ chịu. Đồng bào làm hai loại bánh trôi: Bánh trôi không nhân và bánh trôi có nhân. Bánh trôi không nhân phổ biến hơn. Bánh trôi có nhân ít khi làm. Nhân bánh là đỗ xanh, xay vỡ đôi, ngâm đãi sạch vỏ, đồ nấu chín, trộn đường. Nhân được cho vào giữa khi vo viên làm bánh. Nếp được đồ chín như xôi, sau đó phơi thật khô giòn, khâu này chuẩn bị hơi lâu, nên phải làm trước. Khi cần làm, lấy nếp đồ chín phơi khô này rang lên cho hạt nếp nở to và tròn. Nấu mật ở chảo, cho đến khi mật không tan trong nước lã là được . Chảo nước mật vẫn để trên bếp đỏ lửa, đổ nếp rang nở vào đảo đều, nhanh tay. Sau đó đổ cả ra mâm đồng (hoặc mâm nhôm ), gạt cho bằng, hơi nén xuống cho chặt. Lấy dao cắt thành từng miếng, hay làm vào dịp tết nguyên đán . Bánh khảo, gạo nếp phơi khô, rang giòn, xay bột mịn. Trộn bột đó với nước đường đặc (hoặc mật) đến độ nhất định có thể đủ ngọt và đủ ấm để đóng được thành bánh trong khuôn. Bánh khảo được làm vào dịp tết nguyên đán, dịp cưới xin hoặc có thể làm vào dịp tết khác. Nếp có thể đem nấu chè. Người Nùng hay nấu chè vào mùa đông và khi ăn thì bỏ chút gừng vào làm gia vị. Chất đường nóng, gừng cũng nóng, nên chè ăn vào mùa đông rất thích hợp . Đồng bào cũng làm cốm bằng nếp non. Cốm là món ăn được đồng bào ưa thích, nên hàng năm, gia đình nào cũng làm cốm đôi ba lần. Mỗi lần làm cốm là dịp chị em hàng xóm giúp nhau giã và cùng ăn cho vui bầu bạn . III. Chế biến thực phẩm Nguồn thực phẩm rất đa dạng, song nhìn chung có mấy cách chế biến chính thể hiện đặc điểm dân tộc . Trước hết là chế biến rau xanh: Rau mùa hè, rau mùa đông, rau rừng . Rau mùa hè có rau muống, rau dền, rau đay, rau mùng tơi, các loại bầu bí, các loại đậu,các loại dưa. .. Rau mùa đông có củ cải, su hào, bắp cải, cải làn, susu... Rau rừng có măng, nấm, rau xauxau ... Rau các loại, mùa nào thức ấy, đem xào mỡ lợn là thức ăn hàng ngày của dân tộc. Mỡ lợn đun già trên chảo gang, rau rửa sạch, thái nhỏ vừa phải, lúc mỡ đang nóng già lửa đang cháy đỏ, đổ rau vào, bỏ muối và đảo nhanh, thúc lửa cháy đều, đậy vung lại, rau vừa chín tới là được. Đồng bào không có thói quen dùng rau xanh luộc chấm nước mắm. Cần nước chấm họ dùng xì dầu. Gia đình nào ăn rau mà không xào mỡ là biểu hiện của sự khó khăn về kinh tế. Rau muối: Đồng bào Nùng có kỹ thuật muối các loại rau xanh khá tốt . Có hai cách muối là muối ngâm nước và muối phơi khô. Muối ngâm nước thường áp dụng muối rau cải, muối măng (tre, nứa, vầu) và muối quả trám đen. Thông thường vào mùa đông, đồng bào muối rau cải để tiện ăn dần. Muối cả cây để lâu ngày, muối rau cải thái là để ăn ngay, mùa xuân hè, đồng bào muối măng chua, măng chua ngâm trong nước để được rất lâu. Mùa thu, đồng bào muối trám đen. Một vại trám có thể để dành ăn quanh năm . Muối phơi khô cũng được áp dụng cho quả trám đen, măng tre (nứa, vầu...).ngoài ra đồng bào còn áp dụng để muối su hào, cải củ…ủ trám đen, om chín,cắt đôi, nhét muối hạt vào trong, bóp ngậm lại, rồi đem phơi vài nắng cho khô. Trám đen muối phơi khô, bảo quản được lâu, không bị mất mùi, khi ăn đem xào mỡ, hoặc hấp cơm. Măng tre thái ra đem phơi nắng cho đến khô kỹ. Nhiều trường hợp đồng bào ướp khô cả củ măng. Hầu hết các gia đình đều phơi măng để ăn trong dịp tết, lễ. Măng khô thường được dùng để ninh với xương lợn, ninh với chân giò lợn, họăc làm món phục vụ cho “khau nhục”. Cải củ rửa sạch, thái lát mỏng, phơi khô. Hai thứ này để dành ăn khi cần. Cách ăn, thường là xào với thịt lợn. Su hào và cải củ khô đem ngâm nước nóng độ một tiếng, sau đó xào ăn rất giòn. Các món ăn nộm. Các món ăn nộm được chế biến từ đu đủ, khế, gừng. Món đu đủ: Đu đủ già, sắp ương, gọt vỏ, rửa sạch, nạo nhỏ, trộn muối vừa. Độ nửa tiếng sau,vắt nước muối, trộn thêm hành hoa, rau húng, dấm và lạc rang bóc vỏ giã vỡ đôi, sẽ thành món ăn ngon lành . Món nộm khế, gừng. Khế và củ gừng rửa sạch, thái lát mỏng trộn với nhau và trộn thêm lạc rang bóc vỏ giã vỡ đôi, món ăn này rất độc đáo, nó vừa có vị chua của khế, vừa có vị cay của gừng, vừa có mùi thơm bùi của lạc rang, rất dễ chế biến, dễ ăn, hợp với mùa đông . Món ăn giá nộm. Giá đỗ xanh, rắc muối vắt chanh vào, trộn hành hoa và rau húng, ăn ngay, rất mát ,hợp với mùa hè. Người Nùng ăn sống rau các loại như dưa chuột, xà lách, rau húng, tía tô, hành hoa, tỏi lá, lá xau xau ... Các món ăn canh rau. Người Nùng hay nấu canh măng chua với đỗ xanh, canh cải cúc, canh rau ngót rừng, canh rau xắng, canh khoai sọ. Những món rau khác, sau khi xào chín, nếu cần ăn canh, đổ thêm nước vào là thành canh. Chế biến món ăn thịt : Đồng bào Nùng thích ăn các loại thịt lợn, gà, vịt. Họ không ăn thịt trâu, bò, chó, cho rằng các loại thịt đó rất bẩn. Đồng bào kiêng mang các loại thịt đó vào trong nhà . Thịt lợn mông sấn, thái mỏng, mỡ nóng già, đổ thịt vào chảo đảo nhanh cho đều, đậy vung lại, thúc lửa cháy đều, thịt vừa chín, lá tỏi cắt sẵn, đổ vào đảo nhanh, trộn đều với thịt là được. Thịt lợn xào lá tỏi ăn chín, bốc mùi tỏi thơm. Món thịt xào mộc nhĩ, nấm hương, thịt mông sấn, ướp thịt xào được đồng bào rất quý . Món chân giò. Chân giò thui lửa, cháy xém vàng, cạo sạch, rửa sạch, chặt miếng khô, ninh nhừ với măng và mọc nhĩ, bỏ miếng vỏ quýt vào lấy mùi. Chân giò có thể luộc cả chiếc, luộc chín kỹ, cắt chấm ăn xì dầu . Món thịt lợn tái, thịt nạc thái mỏng,càng mỏng càng tốt, vắt chanh vào, lượng nước chanh khá nhiều, đủ cho tất cả lượng thịt đã thái. Thịt lợn tái hay dùng làm thức nhắm rượu, nên thỉnh thoảng gia đình mới làm món này . Món khau nhục. Đây là món chế biến rất công phu và là món độc đáo của dân tộc Nùng. Thịt chế biến khau nhục là nách của thịt lợn to, béo. Món phụ cho thịt có măng khô, mộc nhĩ, lạc. Gia vị được chế biến từ đậu tương nguyên hạt, nhưng đã chín nhừ, có màu đen. Chỉ có một số gia đình chuyên chế biến, xì dầu, vỏ quýt khô, húng lìu. Thịt ba chỉ rửa sạch, để miếng to, đem luộc chín tới. Thịt luộc chín, vớt ra, để nguội, xoa vào bì thịt một ít húng lìu trộn xì dầu. Do được ngâm nên húng lìu ngấm vào bì. Sau ướp độ hai tiếng. Chảo nhiều mỡ thật nóng già, cho thịt ba chỉ lên chảo. Thúc lửa cháy đều đủ sức nóng cho miếng ba chỉ phồng lên như thịt quay và toàn miếng thịt đóng cạnh vàng. Vớt miếng thịt trong chảo ra, để nguội, cắt miếng to cỡ bằng bàn tay. Cứ bốn miếng lại đặt vào bát cơm, lật bì xuống dưới, trên miếng thịt có măng mộc nhĩ. Làm như vậy, khi hấp, gia vị ngấm tất vào miếng thịt. Do việc chế biến khau nhục rất công phu, nên thông thường người ta chỉ làm vào các dịp cưới xin hoặc năm mới . Một đám cưới người ta thường bàn về các món ăn thường là chỉ tiều đánh giá các quy mô và chất lượng đám cưới. Thịt lợn quay: Lợn mỡ, độ 40 kg hơi, chọc tiết làm lông như bình thường. Khi mổ bụng, cố gắng hạn chế mở rộng chỗ mở, chỉ mở vừa đủ moi lòng ra. Một cây gỗ dùng để quay dài 4m, xuyên từ mõm ra hậu môn con lợn, nhồi chiếc lá móc mật vào bụng con lợn cho căng, khâu kín lại, rồi đem quay trên bếp lửa hồng. Thịt lợn quay kiểu này thơm mùi lá móc mật, ngon giòn hơn quay lò. Món thịt nướng: Thịt lợn nạ, thái quân cờ, ướp muối, xì dầu, húng lìu, xiên que nướng trên than củi hồng . Món chả lá lốt. Xương sống lợn, có pha chút thịt, băm nhỏ, gói lá lốt , rán kỹ thành chả lá lốt . Bảo quản thịt lợn: Theo tập quán, thịt lợn nhiều, ăn không hết ngay, thường được bảo quản để ăn lâu dài. Có nhiều cách bảo quản khác nhau . - Ướp muối xông khói treo gác bếp. - Ướp muối, phơi khô. - Rán chín kỹ, ngâm trong mỡ nước . - Làm lạp xường. Những cách bảo quản này có thể dùng làm thức ăn từ mùa này sang mùa khác, đủ để ăn quanh năm . Đồng bào Nùng còn có cách bảo quản khác để ăn trong dăm ba ngày, nếu để lâu không đảm bảo chất lượng. Đó là chân giò, thủ lợn ướp muối mặn, đem thui trên lửa, cháy thành một lớp đen ở phần bì, còn phần thịt thì cháy cạnh. Thui xong không rửa, cứ để nguyên vậy, treo chỗ thoáng.Tiết trời mùa đông, loại chân giò, thủ lợn thui này được bảo quản được một tuần, vẫn đảm bảo chất lượng. Khi ăn, đem rửa nước nóng, lấy dao, sơ mướp cạo sạch chỗ bị cháy, luộc lên, hoặc ninh với măng, mộc nhĩ . Thịt gà , vịt ngỗng : Đồng bào Nùng có tập tục ăn thịt gà trống thiến vào dịp tết Nguyên đán. Tết là phải có gà trống thiến. Gà càng to, càng béo, càng tốt. Thịt gà ăn luộc là chính . Gà giò chặt nhỏ từng miếng đem xào. IV. Lễ hội Hàng năm, người Nùng tổ chức nhiều lễ hội khác nhau. Các lễ hội chủ yếu là hội “Lùng tùng”, hội Pháo hoa (huyện Quảng Uyên, Cao Bằng), hội Thanh Minh (xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên),…Các lễ hội được tổ chức với ý nghĩa cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, đồng thời tạo không khí vui tươi, sôi nổi, là nơi gặp gỡ giao duyên của các nam thanh nữ tú trong vùng. V. Trang phục Trang phục của người Nùng là những bộ quần áo dài, rộng được nhuộm màu xanh chàm. Không mặc váy như nhiều phụ nữ dân tộc khác, phụ nữ Nùng mặc quần áo như nam giới. Các chi tiết, hoa văn trên trang phục được trang trí khá đơn giản, không cầu kì và rực rỡ sắc màu như phụ nữ H’Mông, Mường,…khi đi làm, họ thường đeo thêm tạp dề trước bụng, khi gồng gánh còn mang thêm nệm trên vai. Điểm khác nhau giữa các nhóm dân tộc Nùng là cách chít khăn trên đầu và các loại khăn, mũ có một vài điểm khác biệt. Nhà cửa: Người Nùng thường ở nhà sàn và nhà nửa sàn nửa đất. Trong đó nhà sàn là kiểu nhà truyền thống và được ưa thích của họ. Nhà thường khá to, rộng, có ba gian,có phòng riêng, tường nhà có thể làm bằng gỗ hay từ bùn non trộn với rạ mà thành. Đối với đồng bào Nùng cũng như nhiều dân tộc ít người khác, bếp được đặt ở phần trong nhà để tiện cho việc nấu nướng, phía sau nhà thường có cầu thang phụ. Ở đây có máng nước để tắn rửa, phần ngoài nhà là nơi đặt bàn thờ tổ tiên và nơi tiếp khách hay sinh hoạt chung của các thành viên trong gia đình, phần dưới sàn nhà là chuồng ngựa, trâu và nuôi lợn, gà,… Nhà của người Nùng (và cả người Tày) có những đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. Bộ khung nhà được hình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo ba cột. Điều đó có nghĩa là để mở rộng lòng nhà người ta thêm một hoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hay bảy cột. Tuy nhiên, không có vì kèo nào vượt quá bảy cột. Mọi sinh hoạt của nhà Tày- Nùng trên cơ bản là giống nhau: Mặt sàn chia làm hai phần, một dành cho sinh hoạt của nam, một là nơi sinh hoạt của nữ. Các phòng và nơi ngủ của mọi thành viên đều giáp vách tiền và hậu. Đối với gia đình nào mới có đám cưới, trước cửa nhà thường được dán các hàng câu đối viết bằng chữ Hán trên nền giấy đỏ. VI. Quan hệ gia đình Trong gia đình, quan hệ giữa bố chồng, anh chồng với nàng dâu có sự cách biệt nghiêm ngặt và phân biệt rạch ròi. Theo như lời những người già kể lại thì xưa kia trong một gia đình, bố chồng, anh chồng và nàng dâu hầu như không nói chuyện với nhau (nếu như không thật sự cần thiết). Khi ngồi ăn cơm, họ luôn ngồi về hai phía đối lập nhau. Ngày nay, tuy mối quan hệ này được nhìn thoáng hơn nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ nhất định. Việc dựng vợ, gả chồng của con cái do bố mẹ quyết định trên cơ sở môn đăng hộ đối giữa hai gia đình, sự ưng thuận của con cái và lá sớ của đôi nam nữ. Người Nùng có tục lệ, sau ngày cưới, cô dâu chưa ở hẳn nhà chồng mà vẫn ở nhà bố mẹ đẻ, chỉ khi nào bên nhà chồng có công việc bận rộn, lễ tết thì cho người sang đón nàng dâu về giúp việc gia đình. Đến khi người phụ nữ chuẩn bị có con thì mới về ở hẳn nhà chồng và xem như hoàn toàn phụ thuộc vào nhà chồng. Nếu ly dị, đi lấy người khác thì phải trả tiền cưới, để lại của hồi môn và con cái cho gia đình chồng. Đồng bào Nùng có phong tục là con anh, con em, con chị, ai nhiều tuổi hơn đều được gọi là anh chị. Họ ít khi gọi thẳng tên người chồng, người bố mà thường gọi theo tên đứa cháu đầu, con đầu của dòng họ. Khi đặt tên con phải tuân theo hệ thống tên đệm của dòng họ (như Lương Văn…,hay Nông Văn,…) chứ không được tự ý đặt riêng. VII. Tín ngưỡng Trên bàn thờ của người Nùng, bài vị của tổ tiên và lư hương được đặt vào nơi trang trọng nhất. Mỗi nhà còn thờ Mẹ Hoa (Thần bảo hộ trẻ em), Mẹ Cửa (Thần coi nhà). Vào những ngày đầu tháng, ngày rằm đồng bào thường thắp hương. Riêng ngày lễ, tết có cúng chè, rượu và các món ăn. Những gia đình cùng một dòng họ thì cúng chung một miếu thờ thổ công, thổ địa. Trong những đám tang, các thầy táo, thầy mõ có một vai trò quan trọng vì người ta cho rằng họ có khả năng tiếp xúc với ma thần, xua đuổi tà ma, cầu sự an lành cho nhân dân. Vì vậy, họ đựoc mọi người trong làng xã kính nể. VIII. Chữ viết Để ghi chép thơ ca và truyện cổ dân gian, người Nùng dùng chữ Hán hay chữ Nôm Nùng để lưu giữ. Hiện nay, phần lớn người Nùng đều không biết viết chữ của dân tộc mình mà chỉ nói được tiếng Nùng. Đối với đồng bào Nùng cũng như nhiều dân tộc ít người khác, việc học tiếng Việt trở thành điều tất yếu để tham gia phát triển kinh tết, văn hoá, giáo dục, xã hội của chính dân tộc mình. IX. Nhận xét chung Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống trên một dải đất hình cong chữ S.Mỗi dân tộc là một bông hoa đua sắc, cùng tô điểm cho vườn hoa chung của đất nước. Đồng bào Nùng với những nét đặc trưng về văn hoá đã tạo thành bản sắc vốn có của dân tộc, hoà mình trong tổng thể nền văn hoá Việt Nam. Từ những nét khái quát trên đây, chúng ta có thể đi sâu vào nghiên cứu một trong những mảng quan trọng, cấu thành nên yếu tố văn hoá dân tộc Nùng. PHẦN II NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ TRANG PHỤC NGƯỜI NÙNG AN I. Đôi nét về xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên , tỉnh Cao Bằng 1. Truyền thuyết về người Nùng An Mỗi dân tộc khi hình thành và phát triển đều gắn với chặng đường lịch sử và câu chuyện truyền thuyết về tộc người mình. Theo các nhà nghiên cứu thì người Nùng An đến cư trú ở bản Phya Chang (thuộc xã Phúc Sen) vào khoảng thế kỷ XVIII. Chuyện kể lại rằng, tổ tiên của dân tộc này ở Việt Nam lúc đầu chỉ có ba gia đình thuộc ba dòng họ khác nhau là họ Hoàng, họ Nông ,họ Lương chạy loạn từ phương Bắc. Về sau này, khi tên gọi Nùng An chính thức được định danh thì đây vẫn là ba dòng họ lớn nhất ở xã Phúc Sen. Vào một đêm, họ vào một cái hang thuộc khu rừng của bản Phya Chang để nghỉ đêm, sáng hôm sau khi thức dậy, thấy phong cảnh nên thơ, hữu tình, đất đai rộng lớn, cả đàn người bàn nhau ở lại, cùng nhau khai phá đất đai làm ruộng trồng lúa. Ở nơi nào cao thì làm nương rẫy trồn ngô khoai hay các loại cây hoa màu khác. Từ đó hình thành nên các bản làng khác nhau. Làng Phya Chang ở xã Phúc Sen được chia thành hai bản: Phya Chang trên và Phya Chang dưới (Phya Chang có nghĩa tiếng Việt là xóm ở trong núi). Tên gọi này xuất phát từ ý nghĩa: Phúc Sen là xã đựơc bao bọc bởi núi đá, rừng cây. Xung quanh các làng bản đâu đâu cũng là những dãy núi đá cao. Người ta ví chúng như những chàng hiệp sĩ khổng lồ, bảo vệ cho buôn làng thoát khỏi mọi nguy hiểm, thú dữ, thiên tai. Thời gian đầu, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi: Địa hình chủ yếu là núi đá, đất canh tác ít, phụ thuộc vào thiên nhiên nên tình hình kinh tế khó khăn. Vì vậy, ngoài sản xuất nông nghiệp, người dân nơi đây còn làm thêm nhiều nghề thủ công để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thường ngày, đồng thời để tăng thêm thu nhập. Đó là các nghề trồng bông kéo sợi, dệt vải, nhuộm chàm, nghề mộc, nghề rèn, đan lát. Cho đến bây giờ ở xã Phúc Sen nghề thủ công còn được nhiều nhà gìn giữ nhất là nghề rèn, làm nên một trong những nét đặc sắc về văn hoá của người Nùng An ngày nay. 2. Xã Phúc Sen ngày nay Phúc Sen là xã ở giữa vùng núi đá của huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Xã chỉ có một dân tộc cư trú là Nùng An, sống phân tán thành 10 bản, với 401 hộ, 2.062 nhân khẩu. Số người trong độ tuổi lao động chiếm 37% dân số, trình độ văn hoá của người dân thấp, ít được học tập. Đây là xã đi đầu trong toàn tỉnh về công tác bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hoá truyền thống. Người Nùng An có nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, được thể hiện qua nhiều mặt của đời sống:văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và qua các mối quan hệ xã hội,… Xã Phúc Sen nằm trên trục đường chính dẫn đến thác Bản Giốc- là khu du lịch nổi tiếng của tỉnh Cao Bằng. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, đây là một trong những xã đầu tiên của tỉnh thành lập Trung tâm học tập cộng đồng. Ban đầu cơ sở vật chất chưa có, trung tâm được Ủy ban cho sử dụng Hội trường Ủy ban xã làm nơi hoạt động chính, lấy nhà họp của các bản làm nơi tổ chức học tập cho dân.Tính đến nay, Phúc Sen đã xây dựng được trường tiểu học, trung học cơ sở, trạm y tế xã,…với những trang thiết bị mới tương đối hoàn thiện. Đến nay, toàn xã có 100% con em trong độ tuổi đến trường được đi học. Chất lượng giáo dụng ngày càng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhờ có sự mở rộng của các phương tiện truyền thông đại chúng, đời sống dân trí dần dần được nâng cao. Không giống như nhiều hộ gia đình thuộc các dân tộc thiểu số khác, ở xã Phúc Sen, hầu như giai đình nào cũng đã sắm được các thiết bị sinh hoạt tối thiểu. Nhờ có những kiến thức nhất định trong hoạt động sản xuất, mức thu nhập kinh tế của người Nùng An cũng ngày một tăng. II. Trang phục người Nùng An 1. Những nhận định chung Có thể nói trang phục các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bức tranh đa dạng về màu sắc. Nếu như những chàng trai cô gái người Mông, Dao nổi bật trong các trang phục rực rỡ về màu sắc, cầu kì về chi tiết thì trang phục của người Nùng An lại hết sức giản dị và chân phương. Trong truyền thống văn hoá vật chất của người Nùng An ở Phúc Sen, điều đáng lưu ý là sự giữ gìn, bảo lưu bộ trang phục dân tộc truyền thống. Giống như trang phục của người Tày, trang phục của người Nùng An rất giản dị, được cắt may từ loại vải chàm do tự tay họ làm nên. Điều đáng nói là hiện nay người dân Phya Chang không thường xuyên mặc những bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình. Họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong những ngày lễ, tết hay khi đi làm. Những ngày đi học hay lên chợ huyện, mọi người thường mặc trang phục giống người Kinh. Khi nhóm chúng tôi có dịp tiếp xúc với người dân trong bản thì được nghe mọi người kể lại rằng: Hiện nay, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà hầu như nhiều người Nùng không còn thường xuyên mặc những bộ trang phục truyền thống như trước kia nữa. Đặc biệt là những thanh niên, học sinh hay những trẻ nhỏ. Chỉ có những người già là còn lưu lại nét bản sắc của dân tộc mình về trang phục. Trang phục truyền thống của người Nùng An có sự phân biệt theo lứa tuổi và giới tính, rất phong phú về chủng loại. Trang phục nam gồm có áo, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, túi vải thêu, đồ trang sức bằng bạc… Quần áo trẻ em cũng có sự khác biệt so với các nhóm Nùng khác. Nét khác biệt đó thể hiện ở áo, quần, mũ độ đầu. Trong đó chiếc mũ được trang trí khá cầu kì với những hoa văn, họa tiết sặc sỡ, đẹp mắt…Khi đứa trẻ mới lọt lòng, người ta quấn nó bằng quấn áo cũ củ bố mẹ. Điều này được giải thích là, theo quan niệm của người Nùng An, trẻ con mới sinh ra không nên cho mặc đồ mới, lớn lên chúng sẽ đua đòi, và quần áo cũ thì vải đã mềm, thoáng, rất tốt cho trẻ nhỏ. Khi đứa trẻ được một, hai tuổi người ta cắt quần áo đơn giản theo một kiểu chung không phân biệt nam hay nữ. Đến lúc chúng lên 9-10 tuổi, người mẹ bắt đầu cắt may quần áo nhằm phân biệt nam nữ cho con. Độ tuổi này các bé gái bắt đầu mặc quần áo và quấn đầu đội khăn như người lớn. Một nét không thể thiếu trong trang phục người Nùng An là đồ trang sức. Trang sức của người Nùng An chủ yếu bằng bạc trắng, Nam giới thường đeo vòng tay bằng bạc, nhẫn bạc, phụ nữ đeo khuyên tai, kiềng cổ, vòng tay, nhẫn và đeo bộ xà tích ở ngang lưng. Theo quan niệm của họ thì bạc trắng không chỉ tôn thêm vẻ đẹp của con người, kết hợp với việc phô trương sự giàu có mà còn có ý nghĩa bảo vệ sức khỏe cho họ. Bởi lẽ khi nhìn đồ trang sức bằng bạc, người ta có thể đoán biết được sức khỏe của người đeo nó: Nếu là người khỏe mạnh thì đồ trang sức luôn sáng, trắng, ngược lại nếu đang yếu, mệt hay có bệnh thì bạc sẽ bị thâm lại, màu xỉn, không sáng trắng như lúc đầu nữa. Chính vì thế mà khi người nào bị ốm hay cảm thì người ta vẫn thường dùng đồng bạc trắng để đánh gió. Quan niệm này không chỉ có ở người Nùng mà còn ở hầu hết các dân tộc khác, trong đó không thể không nhắc đến là dân tộc Kinh. 2. Phương thức dệt Ban đầu, người ta trồng bông làm nguyên liệu để dệt vải. Sau đó sợi bông được đem vào khung dệt, qua đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ chúng trở thành những tấm vải bền và chắc. Quy trình dệt diễn ra hết sức cẩn thận bởi nếu không chú ý thì có thể làm đứt sợi, khi đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng vải. Trung bình một ngày người phụ nữ có thể dệt được từ 8-10 tấm vải, tùy theo mức độ công việc lúc nông nhàn là nhiều hay ít. Nếu gia đình nào chỉ dệt vải để mặc thì có thể dệt với số lượng ít hơn, vì họ chỉ dệt khi nào thực sự rảnh rỗi. Sau khi vải được dệt xong, công đoạn tiếp theo cũng không kém phần quan trọng là nhuộm vải. Người Nùng có truyền thống nhuộm vải bằng lá chàm. Để vải có màu xanh chàm (xanh thẫm), người nhuộm phải hết sức chú ý để làm sao cho màu lá luôn đều màu, không quá đậm mà cũng không quá nhạt. Những người già ở đây cho biết, sở dĩ người Nùng chọn màu chàm làm màu áo cho trang phục truyền thống dân tộc mình vì như thế khi đi làm sẽ thuận tiện hơn rất nhiều, không bị bẩn. Khi phơi vải, không nên để vào lúc nắng quá to, vì như thế dễ làm cho màu vải bị phai. Cuối cùng, họ tự may thành những bộ quần áo sao cho vừa vặn với người mặc. Toàn bộ những công đoạn này đều do người phụ nữ thực hiện, bởi đây là công việc đòi hỏi sự khéo léo, chuyên tâm và cẩn thận của đôi bàn tay người phụ nữ. Như đã nói ở trên, trang phục truyền thống của người Nùng An rất đơn giản và dễ nhận biết. Hầu như giữa nam và nữ không có sự khác biệt là mấy, đều mặc một l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHOA (39).doc
Tài liệu liên quan