MỤC LỤC
báo cáo khoa học 0
LỜI NÓI ĐẦU 2
Chương I : 4
Những nét chính trong quan hệ Việt - Trung trước Bình thường hoá. 4
1.1. Giai đoạn từ 1949 - 1972 4
1.2. Giai đoạn 1972 - 1986. 5
1.3. Giai đoạn 1986 - 1991 5
Chương II 8
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN VÀ KHÁCH QUAN DẪN ĐẾN VIỆC BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ VIỆT - TRUNG. 8
2.1. Những nguyên nhân khách quan 8
2.1.1. Xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển. 9
2.1.2. Xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá 10
2.1.3. Tình hình khu vực Châu á - Thái Bình Dương 10
2.2. Những nguyên nhân chủ quan. 13
2.2.1. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 13
2.2.2. Đường lối đối ngoại và cải cách mở cửa của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. 17
Chương III 23
Thực trạng và triển vọng quan hệ 23
Việt Nam Trung quốc 23
3.1. Thuận lợi 23
3.2. Tồn tại . 25
3.3. Triển vọng 26
KẾT LUẬN 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2403 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nguyên nhân dẫn đến bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp tác là nhu cầu khách quan, đem lại cơ hội cho các quốc gia phát triển kinh tế được ưu tiên hàng đầu có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia trên trường quốc tế. Đồng thời, không ngừng tạo sự ổn định chính trị và điều kiện mở rộng hợp tác quốc tế, chính sách dối ngoại mỗi nước nhằm phục vụ đường lối, chính sách phát triển kinh tế nước mình, mở rộng quan hệ chính trị đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển đất nước. Hội nhập và phát triển, khai thác điểm đồng, hạn chế điểm bất đồng, tập hợp lực lượng để tạo ra thế và lực cho nhu cầu phát triển. Bên cạnh đó không ngừng nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự cường và đấu tranh chống sự can thiệp và áp đặt của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và văn hoá dân tộc, phát triển kinh tế xã hội. Khi yếu tố kinh tế trở thành nhân tố quyết định quyền lực của mỗi quốc gia, lợi ích phát triển, hợp tác và cạnh tranh phát triển đang là vấn đề nổi bật trong quan hệ quốc tế hiện đại. Các quốc gia có chế độ chính trị xã hội khác nhau nhưng trung hợp về nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích vì hoà bình ổn định và phát triển vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. Trung Quốc và Việt Nam đang thực hiện cải cách và mở cửa rất cần đến hoà bình, ổn định, hợp tác để phát triển ở trong nước cũng như khu vực và quốc tế.
2.1.2. Xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá
Gắn liền với xu thế nêu trên, xu thế quốc tế, khu vực hoá trong lĩnh vực kinh tế đang ngày càng phát triển. Mỗi quốc gia không thể tồn tại biệt lập mà phải hoạch định chính sách liên kết khu vực, hợp tác quốc tế cùng phát triển vì lợi ích căn bản của mỗi bên. Thế giới ngày này là một tổng thể thống nhất, tuỳ thuộc lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh và kiềm chế ảnh hưởng của nhau. Hội nhập quốc tế là sự lựa chọn tất yếu, đưa đến một thế giới phụ thuộc lẫn nhau ngày một sâu sắc. Nhờ có quá trình tự do hoá kinh tế, các quốc gia đi sau có khả năng tiếp cận các nguồn vốn và công nghệ quốc tế, rút ngắn quá trình. Đồng thời phát huy tối đa thế mạnh của đất nước và tận dụng cơ hội do quá trình quốc tế háo đang mở ra.
Bên cạnh quá trình hội nhập quốc tế, liên kết khu vực và tiểu khu vực, song phương và đa phương ngày càng gia tăng mạnh mẽ, dựa trên cơ sở tương đồng về địa lý, văn hoá truyền thống, tạo nên sức mạnh tập thể hình thành nên thị trường thống nhất, nhân công lao động quốc tế phát triển. Các quốc gia chậm phát triển có cơ hội hội nhập và phát triển kinh tế, từng bước nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới. Liên kết kinh tế song và đa phương dưới nhiều hình thức tam giác, tứ giác xuất hiện phát triển ngày càng bền vững. Do đó, vấn đề ngoại giao kinh tế cạnh tranh lợi ích kinh tế, lợi dụng tiềm năng quốc tế để phát triển trở thành nội dung quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại.
Những đặc điểm và xu thế trên đây đã quy định tính đa phương, đa dạng hoá quan hệ quốc tế và đường lối chính sách đối ngoại của các quốc gia nói chung của Việt Nam và Trung Quốc nói riêng. Để thực hiện chương trình cải cách kinh tế, Việt Nam và Trung Quốc phải duy trì môi trường hoà bình và quan hệ với các nước láng giềng. Trong bối cảnh đó, quan hệ Việt trung đã được bình thường hoá và ngày càng phát triển.
2.1.3. Tình hình khu vực Châu á - Thái Bình Dương
Châu á - Thái Bình Dương (CA-TBD) là một khu vực rộng lớn, tập trung nhiều nước lớn có nền kinh tế phát triển vào bậc nhất thế giới, có vị trí địa lý chiến lược cũng như tiềm năng tiềm lực phát triển cao, là khu vực ngày càng thu hút sự chú ý của thế giới.
Cuộc cách mạng KHCN hiện đại tạo ra thời cơ và thuận lợi cho các nước trong khu vực, ứng dụng công nghệ vào sản xuất và cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh nhân công lao động quốc tế đã và đang tăng trưởng liên tục trong nhiều thập kỷ qua. Đây là khu vực được coi là có nền kinh tế tăng trưởng năng động nhất thế giới. Xuất hiện nhiều trung tâm ứng dụng công nghệ hiện đại như : Nhật Bản, Trung quốc, ấn Độ… đang tạo ra thế cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia. Đây cũng là khu vực diễn ra quá trình liên kết, tự do hoá thương mại mạnh mẽ tiêu biểu là APEC, hội nghị hợp tác á - Âu (ASEM). Những biến đổi mạnh mẽ trong nền kinh tế đất nước Châu á đã khẳng định vai trò ngày càng tăng của khu vực này đối với thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, các quốc gia trong khu vực đã và đang điều chỉnh chính sách đối ngoại và chiến lược phát triển của mình. Các nước lớn, các trung tâm kinh tế chính trị hàng đầu thế giới cũng đang điều chỉnh chiến lược hướng mạnh vào Châu á. Điều đó tạo thời cơ thuận lợi cho kinh tế các nước khu vực phát triển. Thế và lực của Châuá “khi vị thế và vai trò của Nhà nước XHCN Trung Quốc trong nước ngày càng lên trong khu vực, khiến Mĩ và một vài nước lớn khác lo ngại. Nổi bật nhất trong khu vực CA-TBD là quan hệ tam giác Mĩ - Trung - Nhật, trong đó các cặp quan hệ song phương luôn được tính toán, vừa hợp tác vừa đấu tranh gay gắt, không đảy mối quan hệ đến chố đối đầu căng thẳng, các bên đều tìm giải pháp hoà hoãn để kiềm chế ảnh hưởng của nhau, tác động sâu sắc đến tình hình khu vực nói chung. Các quốc gia vừa và nhỏ cãng đang trong quá trình điều chỉnh chính sách hướng về Châu á - Thái Bình Dương, tham gia hợp tác khu vực và tiểu khu vực, tiếp tục duy trì ổn định chính trị, giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng và dựa trên luật pháp quốc tế. Ngày nay các quốc gia Châu á - TBD đang đứng trước cơ hội phát triển lớn, ưu tiên phát triển kinh tế được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Đặc biệt các nước XHCN còn lại đang trong quá trình cải cách, mở cửa (ở Trung quốc và đổi mới ở Việt Nam) đạt được nhiều thành tựu trong bước đi ban đầu, nhằm xây dựng một nền kinh tế hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển phần thịnh của Châu lục.
Nằm trong khu vực CA-TBD, Đông Nam á được coi là chiếc cầu nối giữa Phương Đông và phương Tây, là khu vực có nguồn tài nguyên và nhân lực phong phú, Đông Nam á có ưu thế về tiềm năng và triển vọng về tốc độ phát triển kinh tế, có vị trí địa lý chiến lược quan trọng đối với thế giới. Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung để từ đó Việt Nam trở thành cái cầu nối lý tưởng của Trung Quốc đối với Đông Nam á .
Sau chiến tranh lạnh, sự đối đầu giữ hai cực không còn, dưới tác động của xu thế hoà bình, ổn định và phát triển trên thế giới, các nước Đông Nam á chuyển sang giai đoan quan hệ mới : hợp tác và phát triển. Là khu vực có nhiều thế chế xã hội khác nhau, nhưng các quốc gia Đông Nam á đều mong muốn có hoà bình, ổn định ở khu vực. Nguyện vọng này trở thành xu thế không thể đảo ngược trong những thập kỷ trước mắt. Vừa giải quyết hoàn toàn vấn đề Cămphuchia, sự đối đầu giữa Việt Nam - Mĩ, Việt Nam - Trung Quốc không còn nữa, quan hệ giữa các nước này đã bước sang thời kỳ mới , đối đầu chuyển sang đối thoại cùng hợp tác cùng phát triển. Dưới tác động của cuộc cách mạng KHKT hiện đại, sưu liên kết kinh tế vùng, tiểu vùng giữa các quốc gia có nhiều điểm tương đồng (lịch sử, văn hoá, lợi ích..l.) không những hỗ trợ nhau mà còn cạnh tranh với các thế lực bê ngoài.
Ngày nay, Đông Nam á là một thể thống nhất, với thế và lực ngày càng tăng lên dựa vào sức mạnh tổng hợp mà nòng cốt là tổ chức ASEAN, các nước này đang phấn đấu xây dựng một khu vực hoà bình hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đông Nam á ngày càng thu hút sự chú ý của các nước trong khu vực và thế giới. Đặc biệt là các nước lớn, trước hết là Mĩ - Nhật - Trung thường xuyên củng cố và duy trì ảnh hưởng của mình đối với các khu vực này. Do đó, khi quan sát cục diện Đông Nam á, người ta thấy rõ mối quan hệ tam giác nói trên, đang hình thành thế cân bằng mới. So với các nước lớn cùng khu vực (Mĩ, Nhật, ấn Độ…) Trung Quốc có vị trí địa lý thuận lợi hơn cả Châu á nói chung và Đông Nam á nói riêng. Song sự thu hút sự chú ý của các nước trong khu vực và ngược lại. Sự phát triển nhanh chóng cả về kinh tế và quân sự của Trung Quốc, không ngừng mở rộng ảnh hưởng đối với các nước Đông Nam á.
Mặt khác, quan hệ chính trị, kinh tế Trung Quốc - ASEAN từ sau năm 1990 ngày càng phát triển, Trung Quốc không ngừng tăng cường hợp tác với ASEAN và ngược lại. Tạo cơ hội cho Việt Nam và các nước trong khu vực hợp tác để phát triển. Những thành tưu trong công cuộc cải cách mở cửa Trung Quốc sẽ là kinh nghiệm quý báu đối với các nước ASEAN nhất là đối với Việt Nam. Hơn nữa, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các nước ASEAN về vấn đề biển Đông vẫn chưa có biện pháp giải quyết. Đây là vấn đề nhạy cảm khó giải quyết dứt điểm và có nguy cơ tiềm năng gây mất ổn định, và có thể dẫn đến bùng nổ xung đột nếu các bên liên quan (Trung Quốc, Việt Nam và một số nước ASEAN khác) không bình tĩnh ra phương pháp giải quyết thoả đáng.
Tóm lại, bối cảnh quốc tế và tình hình khu vực thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã tạo ra thời cơ và thuận lợi cho các quốc gia dân tộc nói chung và Việt Nam, Trung Quốc nói riêng, củng cố và phát triển quan hệ, tạo môi trường quốc tế thuận lợi phục vụ công cuộc đổi mới ở Việt Nam, cải cách mở cửa ở Trung Quốc góp phần củng cố hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
2.2. Những nguyên nhân chủ quan.
Chính sách đối ngoại là sự tiếp nối đường lối của chính sách đổi mới, phục vụ chính sách đối nội. Là bộ phận của đường lối chính trị, đường lối cách mạng của từng nước bao gồm những quan điểm, biện pháp, hình thức đối ngoại nhằm mục tiêu cách mạng trong nước, phù hợp với xu thế, quy luật vận động của thế giới.
2.2.1. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Chính sách đối ngoại Việt Nam là sự kế tục tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt Nam: độc lập, tự chủ với nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, khai thác hiệu quả sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc tế, tăng cường hợp tác để tạo lập và khai thác môi trường quốc tế thuận lợi, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện mục tiêu có tính chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng thành công CNXH.
Để đạt đến mục tiêu trên, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta được dựa trên cơ sở phân tích những biến động của tình hình thế giới, xu thế vận động của thời đại cũng như đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong nước qua từng thời kỳ nhất định.
Vào thời điểm trước khi Liên Xô tan rã, tình hình thế giới có những bước chuyển biến mạnh mẽ, với những xu hướng vận động đan xen, phức tạp đã tác động sâu sắc đến đời sống xã hội Việt Nam. Hơn nữa, công cuộc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước (từ 1975) do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, đến đầu những năm 80 cuộc khủng khoảng kinh tế - xã hội diễn ra trầm trọng. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta quyết định thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Đại hội này đánh dấu rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Đổi mới và đoàn kết quốc tế của Đảng và Nhà nước ta nhằm giữ vững hoà bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trên cơ sở kiên định những nguyên tắc và định hướng đối ngoại được vạch ra từ Đại hội VI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đã xác định mục tiêu tổng quát là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng khoảng. Căn cứ vào tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh, Nghị quyết Đaị hội Đảng lần thứ VII đề ra nhiệm vụ đối ngoại bao chùm là :
“Giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991, tr 146.
.
Đảng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình bằng lời khẳng định : “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991, tr 147.
.
Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trước đây, đặc biệt là kinh nghiệm trong việc giải quyết những vấn đề đối ngoại những năm cuối thập kỷ 80. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã đề ra tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong tình hình mới : Giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải hết sức mềm dẻo về sách lược, sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực.
Nhằm cụ thể hoá đường lối đối ngoại mà Đại hội VII của Đảng đã đề ra, tháng 6/1992, Hội nghị TW lần thứ 3 (khoá VII) đã khẳng định lại nhiệm vụ đối ngoại bao trùm do Đại hội VII vạch ra, đồng thời đưa ra 4 phương châm cần nắm vững trong quá trình xử lý các vấn đề quốc tế.
1. Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuân nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tê.
2. Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại.
3. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
4. Tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Hội nghị TW lần thứ 3 (khoá VII) đã đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đổi mới. Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực trở thành một định hướng ưu tiên trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Trên cơ sở đó, Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ với Trung quốc, chủ động hội nhập ASEAN.
Những định hướng cơ bản chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong nghị quyết đại hội lần thứ VII được tiếp tục bổ sung và phát triển một cách sáng tạo ở hội nghị Trung ương lần thứ 3, khoá VII và đại hội VIII. Nhờ đó các hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ đầu thập niên 90 cho đến này vừa đáp ứng yêu cầu cách mạng trong nước, vừa phù hợp với sự thay đổi của tình hình thế gới. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996) tiếp tục khẳng định “Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc”(6) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia 1996, tr63.
. Nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn tới là “củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(7) Sđd tr 120.
. Đồng thời phải giữ vững độc lập chủ quyền hợp tác song phương và đa phương phải dựa trên nguyên tắc .
“Tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau,bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề cùng tồn tại và tranh chấp thương lượng”(8) Sđd tr.120
.
Thực hiện chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới, vị thế và vai trò của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế, với tinh thần “mjốn là bạn của các nước trong cộng đồng quốc tế…”. Việt Nam đã và đang được biết đến như một biểu tượng của hoà bình. Đến nay, “Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ đối ngoại với 190 Đảng, 150 tổ chức phi chính phủ, quan hệ kinh tế tương mại với hơn 150 nước và vùng lãnh thổ, thu hút 36 tỉ USD đầu tư FĐI từ gần một trăm đối tác, hơn 13 tỉ USD viện trợ ODA của 45 nước”(9) Thông tin nghiên cứu Trung Quốc số 1(3)/2001, tr4.
. Những kết quả đạt được trong hợp tác quốc tế những năm qua đã góp phần tạo dựng môi trường quốc tế hào bình ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để không chỉ tranh thủ được vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ, những tinh hoa về văn hoá, những kinh nghiệm trong quản lý kinh tế, quản lý đất nước. Chính vì vậy thành tựu về đối ngoại được đánh giá là một trong những thành tựu cơ bản của sự nghiệp đổi mới góp phần quan trọng tạo ra thế và lực mới cho đất nước bước vào thế kỷ 21. Chưa bao giờ Việt Nam có được vị thế quốc tế mạnh như hiện nay. Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động của thời đại toàn cầu hoá hiện nay, trên cơ sở những thành tựu đạt được cả về lý luận và thực tiễn. Đảng và Nhà nước đã vạch ra đường lối đối ngoại cho những năm của thế kỷ mới trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX. Dự thảo báo cáo chính trị khẳng định “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”(10) Dự thảo báo cáo Chính trị BCH TW Đảng khoá VIII. Tạp chí cộng sản 5/2000, tr 23.
, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vững bước trong thế kỷ 21.
Việt Nam và Trung Quốc là 2 nước láng giềng gần gũi, nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị lâu đời đã từng kề vai sát cánh giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng củng cố và phát triển tình hữu nghị Việt - Trung ngay cả khi quan hệ hai nước gặp khó khăn, kiên trì và làm hết sức mình cùng các nhà lãnh đạo Trung Quốc khai thông và làm cho quan hệ Việt - Trung phát triển lành mạnh, phù hợp với mong muốn và lợi ích căn bản của hai nước.
Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Chính phủ và nhân dân Việt Nam trước sau như một quí trọng và làm hết sức mình khôi phục tình hữu nghị nhằm sớm bình thường hoá quan hệ hai nước”(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc ĐCSVN lần thứ VI, Nxb Sự thật tr107.
. Đại hội của Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991) tiếp tục khẳng định chính sách của Đảng ta đối với Trung Quốc là : “Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung giải quyết các vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng”(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc ĐCSVN lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia 1996 tr89
. Như vậy chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với Trung Quốc là nhất quan, một điều hiển nhiên là Bác Hồ cùng các nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở các thế hệ luôn chăm lo vun đắp cho công cuộc củng cố và tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Trung. Chúng ta có cơ sở tin tưởng quan hệ Việt - Trung ngày càng được củng cố và phát triển.
2.2.2. Đường lối đối ngoại và cải cách mở cửa của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.
Cũng như Việt Nam, công cuộc cải cách mở cửa và hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc diễn ra trong điều kiện phức tạp, nhiều biến động gắn với xu thế phát triển của thời đại, đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc hoạch định chính sách đối ngoại phù hợp với nguyên tắc cơ bản về quan hệ đối ngoại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Một thời gian dài Trung Quốc đã thực hiện đường lối đối ngoại có phần xa lạ đối với chủ nghĩa Quốc tế chân chính và những nguyên tắc cần tồn tại hoà bình. Trung quốc đã nhiều năm coi Liên Xô là kẻ thù số 1 và đẩy nhanh quan hệ với Mĩ trên nhiều lĩnh vực sử dụng con bài Mĩ để đối trọi với Liên Xô. Thêm vào đó, do nhiều nguyên nhân khác nhau tình hình bất ổn định trong nước : (Ví dụ như sự kiện Thiên An Môn, tình hình Tây Tạng, vấn đề Đài Loan…) đẩy Trung Quốc đến chỗ bị bao vây cô lập trên trường quốc tế. Rõ ràng, môi trường Quốc tế bất lợi đó đã gây khó khăn thêm cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Trung quốc.
Hội nghị Trung ương 3 khoá XI 1978 đã quyết định không áp dụng đường lối cơ bản lấy đấu tranh giai cấp làm then chốt nữa mà chuyển sang xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, lấy 4 hiện đại hoá làm cơ sở (hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và KHKT) trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi với khả năng nhận định đón bắt tình hình Đặng Tiểu Bình đã khẳng định “Hoà bình này phát triển là chủ đề chính của thời đại ngày nay”(13) Sự phát triển của Trung Quốc không thể tách khỏi thế giới : STK, NxbChính trị quốc gia 1997, tr 54
. Coi hoà bình là điểm xuất phát để vạch ra chiến lược đối ngoại.
Với ý nghĩa đó hoà bình là điểm chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, đáp ứng yêu cầu : “Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và đặt nền móng xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc CNXH không ngừng phát triển lực lượng sản xuất xã hội là CNXH chủ trương hoà bình”(14) Chu Thương Văn, Trần Bình Hỷ, Sđd tr119
, chính sách đối ngoại của Trung Quốc, phải tạo môi trường Quốc tế có lợi cho quá trình xây dựng 4 hiện đại hoá mở ra cục diện đối ngoại mới.
Trong giai đoạn đầu của côntg cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc đã điểu chỉnh lại những chính sách không phù hợp trước đây. Cụ thể là : “Chống chủ nghĩa bá quyền bảo vệ hoà bình thế giới, sẵn sàng hợp tác phát triển quốc tế trao đổi buôn bán và kỹ thuật với tất cả các nước đã và đang phát triển, trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi tuân thủ 5 ntuyên tắc chung sống hoà bình”(15) Chu Thương Văn, Trần Bình Hỷ, Sđd tr 92
. Cùng tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình và mong muốn hợp tác phát triển hữu nghị với tất cả các nước theo nguyên tắc này. Tập trung cải thiện quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực, nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi thực hiện thành công công cuộc cải cách mở cửa. Đến cuối những năm 90, Trung Quốc đã thoát khỏi thế bao vây cô lập bình thường hoá cũng như thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 150 nước khu vực và Quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Trung quốc chủ trương thực hiện đường lối độc lập tự chủ hoà bình. Mục tiêu của công tác đối ngoại là bảo vệ hoà bình thế giới, tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn nữa để xây dựng và hiện đại hoá đất nước, xây dựng quan hệ chiến lược, tiếp tục chống chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, duy trì phát triển quan hệ các nước trên cơ sở 5 nguyên tắc tồn tại hoà bình “Đặc biệt là chú trọng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng là nguyên tắc của chính sách đối ngoại”(16) Chu Thương Văn, Trần Bình Hỷ, Sđd tr 92
, tôn trọng độc lập tự chủ.
Tự chủ phản đối sự can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, đặc biệt là chống các hoạt động can thiệp từ bên ngoài như “diễn biến hoà bình”. Đến nay vai trò của Trung Quốc được nâng lên rõ rệt, các quốc gia các trung tâm lớn ngày càng quan tâm, hợp tác kinh tế với Trung quốc như Mĩ, Nhật Bản, Tây Âu, WTO, ASEAN…
Trên cơ sở đường lối chính sách đối ngoại trước đây và căn cứ vào sự biến đổi không ngừng của cục diện thế giới gắn với tình hình trong nước.
Đại hội lần thứ 15 Đảng Cộng sản Trung Quốc (9/1997) đã điều chỉnh một số điểm trong chính sách đối ngoại hình thành chính sách đối ngoại hoà bình độc lập tự chủ mang “mầu sắc Trung Quốc” với 3 đặc điểm chỉnh là :
Kiên trì độc lập tự chủ
Bảo vệ hoà bình thế giới
Thúc đẩy cùng phát triển.
Kiên định tư tưởng ngoại giao Đặng Tiểu Bình duy trì chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, xuất phát từ lợi ích căn bản của nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới, thông qua hiệp thương, giải quyết hoà bình các mâu thuẫn và tranh chấp giữa các nước, thúc đẩy xây dựng trật tự chính trị kinh tế thế giới công bằng và hợp lý tiếp tục duy trì chính sách láng giềng thân thiện. Đối với các nước tranh chấp quốc tế, Trung quốc tiếp tục duy trì đàm phán hoà bình, nếu ngay một lúc không giải quyết được có thể tạm gác lại tìm kiếm điểm chung.
Bước vào thế kỷ XXI Trung Quốc đang đứng trước thời cơ và thách thức mới. Vì vậy Trung quốc kiên trì nguyên tắc chủ đạo là : chiến lược ngoại giao phải phục vụ các mục tiêu chiến lược tổng thể Quốc gia, trong tình hình quốc tế đang diễn ra phức tạp hiện nay. Theo tạp chí “bình luận Trung Quốc” số 7 năm 2000 chính sách ngoại giao đầu thế kỷ 20 do các kỳ Đại hội Đảng đề ra tiếp tục thúc đẩy hoà bình ổn định tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới “mở cửa hơn nữa với thế giới bên ngoài ổn định xung quanh biên giới cùng các nước láng giềng xây dựng quan hệ láng giềng”, “Đứng vững ở châu á nhìn ra toàn thế giới, tạo cho Trung Quốc ở vào thế chủ động và có lợi hơn trong cạnh tranh quốc tế thế kỷ jới, nhằm bảo vệ lợi ích Quốc gia dân tộc nâng cao hơn nữa vị thế của Trung Quốc trên trương quốc tế”(17) Chiến lược ngoại giao Trung Quốc cuối thế kỷ XX, tài liệu tham khảo TTXVN số 8+9 tr 36.
.
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa đặc biệt coi trọng phát triển quan hệ với các nước CA-TBD. Việt Nam nằm trong chính sách của Trung Quốc đối với các nước Đông Nam á và CA-TBD.
ý thức vai trò ngày càng tăng đối với khu vực và ngược lại, Trung Quốc luôn chú trọng phát triển quan hệ với các nước láng giềng, coi đây là chủ trương nhất quán. Mở rộng quan hệ đối ngoại hướng mạnh vào Châu á, thể hiện rất rõ trong quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại khu vực và các nước láng giềng của Trung Quốc.
Sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia Đông Nam á và sức ép của làn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những nguyên nhân dẫn đến bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc.doc