Theo luật pháp của Mỹ thì một khi không thể xác định được giá trị thông thường tại nước xuất khẩu.
Đây chính là cớ quan trọng trong vụ kiện phi lí về Thương Mại Mỹ đã tính toán giá trị thông thường theo giá trị tại Bangladet với lập luận rằng: Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường, vì vậy các chi phí và các số liệu của các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp là không phản ánh trung thực và không tin cậy được. Có thể nói rằng, thuế chống bán phá giá là một công cụ bảo hộ rất mạnh và rất lợi hại.
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4164 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung hiệp định chống bán phá giá của WTO và thuận lợi và khó khăn trong quá trình xuất khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Click to edit Master text styles Second level Third level Fourth level Fifth level 6/19/2011 ‹#› Click to edit Master title style Trình bày tóm tắt nội dung chống bán phá giá trong WTO. Phân tích nội dung nào là thuận lợi, khó khăn trong xuất khẩu ở Việt Nam. ĐỀ TÀI SỐ 4: I/ LỜI MỞ ĐẦU II/ NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO 1. CÁC CÁCH HIỂU VỀ PHÁ GIÁ 2. BÁN PHÁ GIÁ…CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 3. BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 4. CƠ CHẾ BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ III/ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH XK Ở VIỆT NAM IV/ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ V/ KẾT LUẬN LỜI MỞ ĐẦU Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi ích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở một nền thương mại và đầu tư công bằng. Nhưng trong khi các quốc gia thành viên WTO đang phải dần dỡ bỏ các rào cản thuế quan và thuế hóa các rào cản phi thuế quan thì các biện pháp phi tự vệ, thuế chống phá giá, thuế đối kháng vẫn ngày càng được nhiều quốc gia phát triển áp dụng một cách triệt để. Nhất là nhiều nước đang phát triển và kém phát triển phải đối mặt với tình trạng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá tại thị trường của mình, và gánh chịu những thiệt hại cho sản xuất trong nước. Việc tìm các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng – biện pháp chống bán phá giá, đang được rất nhiều nước quan tâm, kể cả nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên không phải nước nào cũng áp dụng biện pháp chống bán phá giá một cách đúng đắn, đôi khi mang tính chủ quan áp đặt mang tính chính trị… Hàng hóa của việt nam cũng đã gặp phải những biện pháp chống bán phá giá mà các nước đã áp dụng. Sự việc đó cũng đã ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa của chúng ta. Trong bài tiểu luận này nhóm 2 xin đề cập tới vấn đề: “Nội dung hiệp định chống bán phá giá của WTO. Những thách thức và khó khăn liên quan đến việc xuất khẩu hàng hóa của Việc Nam”. NỘI DUNG Hiệp định chống bán phá giá của WTO CÁC CÁCH HIỂU VỀ PHÁ GIÁ Mặc dù hiện tại phá giá và chống bán phá giá đã được WTO thống nhất và đưa ra các tiêu chí và thủ tục để đánh giá song khi nói đến phá giá, giới kinh doanh vẫn có các cách hiểu khác nhau: Phá giá là giảm giá để tranh giành thị trường hoặc tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Phá giá là bán dưới giá thành. Phá giá là bán dưới mức giá bình thường. Một quốc gia bị cho là đã bán sản phẩm của mình quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nếu: Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại thông thường đối với sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu. Nếu không thể xác định mức giá nội địa đó thì: + Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường. + Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước tại cộng với tỉ lệ hợp lí chi phí và lợi nhuận bán hàng. BÁN PHÁ GIÁ VÀ…CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Hiệp định về chống bán phá giá là một trong những hiệp định của tổ chức thương mại Thế Giới (WTO) được kí kết tại Vòng đàm phán Uruguay. Tên đầy đủ của Hiệp định là Hiệp định về việc Thưc thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994). Điều VI của GATT 1994 cho phép các thành viên có biện pháp chống lại hành vi bán phá giá. Cả Hiệp định và Điều VI được sử dụng cùng nhau để điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá. BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (antidumping) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà sản xuất nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay. Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng hóa bị bán phá giá ở nước nhập khẩu, nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phá giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó nhằm đảm bảo sự công bằng trong thương mại. Nguyên tắc chung nên ra trong những hiệp định của WTO là không phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá. Tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ quốc gia khác với cùng biên độ giá như nhau, thì sẽ bị áp đặt mức thuế chống bán phá giá phụ thuộc vào biên độ bán phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân và không được phép vượt quá biên độ xác định. Tuy nhiên không phải bất kì trường hợp bán phá giá nào cũng bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO và luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được áp đặt khi hàng hóa được bán phá giá đe dọa hay gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy, nếu một hàng hóa được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện pháp chống bán phá giá khác. Bán phá giá được xác định bằng hai yếu tố cơ bản là: - Một là biên độ phá giá từ 2% trở lên. - Hai là số lượng, trị giá hàng hóa bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng số lượng hàng nhập khẩu. (ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hóa tương tự mới nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng các hàng hóa tương tự của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%). Như vậy, có thể hiểu rằng biên độ phá giá là mức chênh lệch giá thông thường của hàng hóa tương tự với mức giá xuất khẩu hiện tại. Để xác định hàng hóa có bị phá giá hay không? Việc bán phá giá có thể gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hay không để áp đặt các biện pháp chống phá giá thì điều quan trọng nhất phức tạp nhất này ở quá trình điều tra về bán phá giá. Đơn yêu cầu sẽ được coi là đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này nhận được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bày tỏ ý kiến tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra. Theo luật pháp của Mỹ thì một khi không thể xác định được giá trị thông thường tại nước xuất khẩu. Đây chính là cớ quan trọng trong vụ kiện phi lí về Thương Mại Mỹ đã tính toán giá trị thông thường theo giá trị tại Bangladet với lập luận rằng: Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường, vì vậy các chi phí và các số liệu của các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp là không phản ánh trung thực và không tin cậy được. Có thể nói rằng, thuế chống bán phá giá là một công cụ bảo hộ rất mạnh và rất lợi hại. CƠ CHẾ BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ Đoạn 800-801 của Đạo Luật chống bán phá giá của Mỹ quy định: “Bất cứ người nào thực hiện hay giúp đỡ thực hiện việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Mỹ một cách phổ biến và có hệ thống để bán những hàng hóa ở mức giá thấp hơn đáng kể giá trị thị trường, hay giá buôn giá bán buôn của những hàng hóa đó tại thị trường nơi nó được sản xuất hay tại thị trường nước ngoài khác mà các hàng hóa đó thường được xuất khẩu sau khi đã cộng giá bán buôn, chi phí vận tải thuế, các chi phí và lệ phí cần thiết đều bị coi là vi phạm pháp luật nếu các hành vi trên thực hiện với dự định phá hoại hay gây tổn thất một ngành của Mỹ hay tạo sự kiềm chế hoặc độc quyền về hàng hóa đó tại Mỹ”. Thủ tục chủ đạo đó là: thay vì dựa trên hành động của chính phủ hay cá nhân trước tòa án, luật chống phá được cho phép thực hiện các thủ tục tố tụng. Cụ thể là, những người đại diện cho một ngành ở Mỹ có thể lấy các lá phiếu biểu quyết và trình cho bộ Thương Mại Mỹ (DOC). DOC sẽ quyết định có tồn tại việc phá giá hay không và ITC có trách nhiệm tìm kiếm bằng chứng minh sự tồn tại của tổn thất. Yêu cầu về việc đó có dự định hay không có dự dịnh từ bên bị tổn thất không quan trọng. Nếu ITC phát hiện ra tồn tại phá sản và tổn thất phá giá, thuế chống phá giá sẽ được áp dụng. Bên bị tổn thất sẽ không phải chịu các hình phạt dân sự hay hình sự nào. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH XUẤT KHẨU Ở ViệT NAM Việc bán phá giá đang diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các quốc gia kể cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Mặc dù là nước đang phát triển ở trình độ thấp, nhưng vài năm trở lại đây hàng hóa của Việt Nam đã dần thâm nhập vào các thị trường khác nhau và các DN Việt Nam cũng đã bị nước ngoài tiến hành điều tra bán phá giá tới 8 lần (tính từ năm 1994 – 2002). Trong số 8 vụ các doanh nghiệp Việt Nam bị áp đặt thuế chống phá giá. Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm trong việc đương đầu với vụ kiện phá giá và vận dụng cơ chế chống bán phá giá. Qua các vụ kiện phá giá chúng ta có cơ hội nhìn rõ hơn thực trang thương mại quốc tế hiện nay. Canada kiện Việt Nam hai vụ liên tới giày dép và tỏi. Thuế chống phá giá áp dụng cho tỏi của Việt Nam là 1,48 CAD/kg Các ngành đã từng bị kiện phá giá của Việt Nam là tỏi, giày dép, bột ngọt, cá tra, cá basa, bật lửa gas: EU kiện Việt Nam vụ liên quan tới giày dép và bột ngọt. Mức thuế chống phá giá đối với bột ngọt là 16,8%. Ba Lan kiện Việt Nam một vụ về bật lửa gas. Thuế chống phá giá là 0,09 EUR/chiếc. Mỹ kiện Việt Nam một vụ về cá tra, cá basa. Thuế chống phá giá áp đặt cho Việt Nam từ 38% đến 64%. Gạo của Việt Nam đã từng bị Columbia kiện vào năm 1994 với biên phá giá 9,7%. BÁN PHÁ GIÁ GIÀY DÉP BÁN PHÁ GIÁ TỎI BÁN PHÁ GIÁ BỘT NGỌT BÁN PHÁ GIÁ CÁ BASA BÁN PHÁ GIÁ BẬT LỬA GAS BÁN PHÁ GIÁ GẠO EU đã bác bỏ vụ kiện DN Việt Nam bán phá giá bật lửa gas vào thị trường này với lý lẽ: DN Việt Nam hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, Hoa Kỳ lại kết luận rằng Việt Nam có nền kinh tế phi thị trường. Việc xem xét Việt Nam là nền kinh tế thị trường hay phi thị trường hoàn toàn mang tính chính trị, không phụ thuộc vào yếu tố kĩ thuật. Như vậy, kinh tế thị trường chỉ là cái cớ, nguyên nhân sâu xa chính là giá bán. Thực tế chúng ta không bán phá giá nhưng không tìm hiểu xem đối tác của ta ở nước sở tại chi phí sản xuất như thế nào, bán giá bao nhiêu?. Nếu chúng ta nghiên cứu kĩ sẽ đưa được mức giá phù hợp, không gây mâu thuẫn với DN Hoa Kỳ thì chắc chắn việc kiện cáo sẽ ít xảy ra. Mặt khác, ngay cả trong tình hình xuất khẩu thuận lợi chúng ta cũng nên san sẻ sang các thị trường khác, bởi cứ gia tăng sản lượng xuất khẩu vào một thị trường sẽ bị DN nước sở tại phản ứng một cách tiêu cực. Trên thực tế luật chống phá giá của Mỹ không đòi hỏi bằng chứng cho thấy các Công Ty nước ngoài bị cáo buộc bán phá giá đang phối hợp hành động hay có ý định đẩy mặt hàng của họ tràn ngập thị trường Mỹ. Các nhà kinh tế nói rằng luật chống phá được soạn thảo khái quát và nhiều trình tự cho luật này là thủ tục hoạt động tiêu chuẩn đổi mới các DN tại Mỹ và trên thế giới. Sự khác biệt giữa văn bản luật và thực tiễn là điều bình thường trên thế giới của chống phá giá mà những người đánh bắt tôm ở Mỹ bước vào. Khi toàn cầu hóa gây ra làn sóng đổ vỡ xuyên suốt nền kinh tế Mỹ. Thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề chính trị tại Lousiana cũng như vối nhiều bang khác phải chống chọi với nguy cơ mất việc do sự cạnh tranh từ nước ngoài. Luật chống phá giá mở ra phương thức giúp các ngành công nghiệp gặp khó khăn có được khoản trợ cấp kinh tế tạm thời. Luật này cũng được xem xét là một chiếc van an toàn về chính trị. Những người được đề xướng kiện tụng nói rằng luật chống phá giá có thể làm “cân bằng sân chơi” thương mại quốc tế, nơi làm các công ty nước ngoài thường không chơi công bằng và cách chơi của họ đe dọa việc làm của Mỹ. Luật chống phá giá mà Quốc hội Mỹ ban hành được xem như một vũ khí tự vệ của các ngành công nghiệp. Mục tiêu của luật này là để công bằng thương mại bất công. Nhiều ý kiến chỉ trích, trong đó có những người ủng hộ thương mại tự do và nhiều nhà kinh tế chủ đạo, đồng tình rằng thương mại toàn cầu thường không công bằng. Nhưng họ cũng nói rằng luật chống phá giá và các quy định của luật này, đặc biệt là những công thức phức tạp mà Chính phủ áp dụng để tính thuế, là mang tính đọc đoán và gây các trở ngại cho các Công Ty hoạt động theo các nguyên tắc thông thường tại thị trường quốc tế. Bộ Thương mại Mỹ (DOC) có quyền quyết định liệu vấn đề bán phá giá có xảy trên thực tế hay không và mức thuế nào sẽ được áp đặt. Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (USITC) là cơ quan đưa ra phán quyết cuối cùng, quyết định xem liệu DN Mỹ - trong vụ kiện này là các doanh nghiệp tôm bị “thiệt hại vật chất” do hàng nhập khẩu hay không?. Cho tới nay DOC và USITC đều có những phán quyết sơ bộ ủng hộ người đánh bắt tôm ở Mỹ. Theo luật hiện nay, khoản tiền thuế sẽ được dành để trợ cấp cho ngành công nghiệp tôm nội địa. Theo các nhà kinh tế, yếu tố gây tranh cãi nhất về luật chống phá giá là cách thức DOC tính thuế chống phá giá. Các nhà kinh tế của DOC sẽ xem xét sự khác biệt giữa giá của sản phẩm NK với giá trị thị trường hợp lý. Nếu giá NK thấp hơn, có nghĩa là các Công Ty nước ngoài đang bán sản phẩm vào Mỹ với giá rẻ, như vậy xuất hiện hiện tượng bán phá giá. Tuy nhiên theo Michael Moore và một số nhà kinh tế khác, khó khăn chính ở đây là làm sao so sánh giá NK thực tế với “giá thị trường hợp lý” ở một số trường hợp việc so sánh gần như là điều không thể, bởi hầu như chẳng ai biết rõ “giá thị trường hợp lý”. Trên thế giới, từ năm 1995-2002 các nước và vùng lãnh thổ bị điều tra bán phá giá nhiều nhất trong thương mại quốc tế là: Trung quốc: 308 vụ Hàn quốc: 160 vụ Mỹ: 115 vụ Đài Loan: 109 vụ Indonexia: 91 vụ... Như vậy, so với các nước khác thì số vụ mà DN Việt Nam bị điều tra là con số rất nhỏ. Dù Việt Nam đã bị kiện phá giá cách đây 10 năm nhưng chúng ta không có một kế hoạch cụ thể để đương đầu với vấn đề về giá cả và chống bán phá giá. Khi vụ kiện cá tra, cá basa tạo được sự chú ý của dư luận và các DN thủy sản Việt Nam cũng như những người nông dân Việt Nam phải gánh chịu phần thua. Việt Nam không thể tránh khỏi việc tiếp tục bị iện phá giá. Lý do có thể nêu ra như chống bán phá giá được sử dụng như một công cụ bản hộ mới, Việt Nam có điều kiện để xuất khẩu những mặt hàng giá rẻ và Việt Nam bị cho là một nền kinh tế phi thị trường. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ Sẵn sàng đương đầu với các vụ kiện phá giá khác. Xây dựng CSDL thông tin về phá giá, chống bán phá giá. Tổ chức tìm hiểu các vụ kiện về chống bán phá giá của một số ngành và một số quốc gia lựa chọn. Chứng minh “ Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Cố gắng để cuộc điều tra sơ bộ về chống bán phá giá dẫn đến kết luận tốt nhất. Thuế chống phá giá sẽ áp đặt cho tát cả các DN có hàng XK, vì thế khi bị kiện rất cần có sự tham gia và ủng hộ của tất cả các DN. Cần có những chứng cứ xác đáng để chứng minh việc bán giá thấp (nếu có) để không gây thiệt hại cho nền sản xuất cả nước nhập khẩu và nếu có thì biên độ bị coi bán phá giá là không đáng kể. Trong điều kiện có thể, hãy thuyết phục các Công ty NK của nước ngoài cùng lên tiếng trước các cơ quan điều tra rằng thực sự không có tổn hại đáng kể. KẾT LUẬN Như vậy trong thời gian vưa qua Việt Nam đã phải đón nhận một số vụ kiện chống phá giá từ một số quốc gia mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa sang nước đó. Vấn đề này chúng ta đã gặp phải từ rất lâu nhưng do chưa nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cho nên chưa có sự chuẩn bị chu đáo đối với các sự kiện. Hàng hóa của chúng ta có chi phí sản xuất thấp dẫn đến giá bán thấp nhưng vẫn bị cho là bán phá giá và chịu thuế xuất cao. Điều này dẫn đến giảm kim ngạch xuất khẩu và ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Trong thời gian tới chúng ta có thể sẽ phải gặp những vụ kiện bán phá giá mới, cho nên cần phải có những tìm hiểu đúc kết kinh nghiệm vả có phương án giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. DANH SÁCH NHÓM 2 THE END! Bài thuyết trình kết thúc CÁM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP.pptx