MỤC LỤC
Trang
I. Những vấn đề cơ bản về quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” 3
1. Vai trò của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” 3
2. Vận dụng sáng tạo của Đảng 3
3. Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
3
II. Giải quyết vấn đề 4
2.1 Nội dung quy luật 4
2.1.1 Khái niệm về lực lượng sản xuất 4
2.1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất 5
2.1.3 Quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” 6
2.2) Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào sự phát triển kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng 7
2.2.1) Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập (1986 – 2006) 8
2.2.2) Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam 11
III) Kết thúc vấn đề 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5851 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đó “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động và đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích lụy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kĩ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
“Bàn tay con người dài ra, khối óc lớn hơn” trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2.1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong qúa trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa 3 mặt của quan hệ sản xuất thống nhất vơí nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có 2 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mỗi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trính sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lí không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lí sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ lao động của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển
2.1.3 Quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn, mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuât mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuât mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở laị sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xẫ hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ…. Và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
2.2) Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào sự phát triển kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong tiến hành lãnh đạo và quản lí đất nước của Đảng và nhà nước ta trong suốt mấy chục năm qua, thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào thực tiễn của nước ta. Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất. Với đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, trình độ quản lí thấp cùng với nền sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc là chủ yếu. Mặt khác nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mĩ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển. Đất nước đứng trên bờ vực của khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng Đảng ta đã nhanh chóng nhìn nhận sự phát triển và bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ baèng con mắt thực tiễn và biện chứng hơn. Trong thời kì quá độ đi lên CNXH, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng vẫn chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và hình thành quan hệ sản xuất mới, đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lí và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Không nên quá đề cao chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới. Thực tế chỉ rõ, nếu chế độ quản lí và phân phối không được xác lập theo những nguyên tắc của XHCN và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở lực lượng sản xuất phát triển.
2.2.1) Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập (1986 – 2006).
Sau chiến tranh với sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta bắt tay ngay vào xây dựng đât nước trong hoàn cảnh cực kì khó khăn: đất nước nghèo nàn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, vết thương chiến tranh nặng nề, các thế lực thù địch bao vây cấm vận, trình độ quản lí kinh tế còn non yếu, hệ thống XHCN thế giới khủng hoảng và sụp đổ. Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã mang lại những biến đổi rất căn bản trong mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Những thành tựu to lớn và rất quan trọng do công cuộc đổi mới mang lại đã và đang tạo đà cho đất nước bước sang một thời kì mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xét về thời gian, thế kỉ XX ở Việt Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhưng xét về ý nghĩa thì đó lại là thời kì Việt Nam bắt đầu giương cao ngọn cờ CNXH và thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công cuộc đổi mới, như bạn bề quốc tế đánh giá là có “tầm quan trọng lịch sử và mang ý nghĩa siêu quốc gia”.
Đại hội lần thứ VI (1986) đã thổi luồng gió mới vào đời sống kinh tế ở nước ta. Trong đại hội này, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót trong nhận thức và chỉ đạo về sở hữu và các thành phần kinh tế, cũng như việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuât - lực lượng sản xuất. Báo cáo chính trị đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ: “trong nhận thức và trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Trên cơ sở nhận thức lại lí luận và thực tiễn Việt Nam Đảng ta đã có những nhận thức mới đúng đắn và khoa họa về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, từng bước khơi dậy được động lực kinh tế trong các thành phần dân cư, nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và những thành phần kinh tế. Cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp, phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt : xây dựng chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lí và phân phối XHCN. Đảng ta cho rằng: việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả gây rối loạn trong phân phối lưu thông và xảy ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trên cơ sở đó Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới kinh tế nước nhà với nội dung quan trọng “thực hành dân chủ hóa đời sống kinh tế, chuyển cơ chế quản lí kế hoạch hóa tập trung cao độ sang cơ chế thị trường có quản lí nhà nước bằng pháp luật và các công cụ khác, chuyển việc phát triển kinh tế nhà nước và tập thể ồ ạt sang phát triển kinh tế nhiều thành phần; chuyển từ cấp phát hiện vật và bao cấp sang sử dụng, quản lí giá trị của sản xuất hàng hóa, tưh hoạch toán, chuyển dịch quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng nền kinh tế mở, đa phương hóa quan hệ và đa dạng hóa hình thức”. Đó là mốc lịch sử đánh giấu sự chuyển hướng có ý nghĩa quyết đinh đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Đảng luôn nhắc nhở chúng ta rằng, không được tách rời sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN. Cầu phát triển và củng cố vững mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Không có nền kinh tế thi trương phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất xã hội được xã hội hóa trong thực tế thì không có CNXH. Ngược lại, nếu không có định hướng XHCN thì cũng không có công nghiệp hóa hiện đại hóa XHCN. Bởi vậy vai trò lãnh đạo của Đảng là tất yếu và là nhân tố vô cùng quan trọng trong mục tiêu đổi mới và định hướng quá trònh hoàn thiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong suốt thời kì quá đọ lên CNXH. Việc hình thành mô hình kinh tế thị trường định hước XHCN là sự sáng tạo của Đảng ta. Để phát triển mạnh mẽ quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu và “từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn nhân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kin tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Từ đó đại hội Đảng lần thức VII và chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2000 Đảng ta nhấn mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo có chế thi trường đặt dưới sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, đại hội VIII của Đảng tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khơi dậy tiềm năng của sản xuất, xây dựng năng lưch sáng tạo chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhờ đó đường lối quan điểm chỉ đạo quá trình đổi mới không ngừng hoàn thiện, hiệu quả cách mạng hóa hiện thực của những quan điểm, đường lối đó ngày càng cao. Thực tế đó là cơ sở để đại hội IX của Đảng ta khẳng định “đường lối đúng đắn của Đảng ta là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”. Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam – đại hội của Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hi vọng lớn lao của cả dân tộc Việt Nam trong thời điểm trọng đại bước vào thế kỉ và thiên niên kỉ mới. Đó là mốc son lịch sử đánh giấu thời kì phát triển mới của cách mạng nước ta, thời kì phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, bỏ qua CNTB đi lên CNXH, thì cái thiếu thốn nhất ở Việt Nam là chưa có một cơ sở vật chất của CNXH, mà chừng nào chưa có cái đó thì chưa thể nói đến sự thay đổi căn bản năng suốt lao động, về đời sống nhân dân, về quan hệ sản xuất….. Vì vậy xác công nghiệp hóa kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên CNXH: “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển đang là cản trở chủ yếu của việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà quan hệ sản xuất này vốn mang bản chất xã hội hóa nền sản xuất xã hội và chính từ trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển, năng xuất lao động thấp, lại hạn chế tận dụng sức lao động dồi dào, chưa tạo được sự thay đổi nhảy vọt căn bản đời sống nhân dân, do đó cũng chưa tạo được thuận lợi cho việc củng cố quan hệ sản xuất mới đã được xây dựng trên 20 năm nay trên phạm vi cả nước. Vì vậy, qua thời gian tìm tòi, thử nghiệm, có thành công và không thành công, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đại hội IX của Đảng đã xác định: “Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”.
Khi nói ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất là phải ưu tiên nâng cao trình độ của tất cả các yếu tố đó. Với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay thì yếu tố trí lực trong sức lao động đang tăng lên nhanh chóng quyết định chất lượng lao động sống, các phương tiện lao động và cả đối tượng lao động cũng có nhiều biến đổi cách mạng, thậm chí không phải có sẵn trong thế giới tự nhiên như hàng nghìn vạn năm lao động trước đây của loài người. Trong điều kiện mới ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay bao gồm:
Tạo việc làm, tận dụng nguồn lao động dồi dào, đồng thời nâng cao hàm lượng trí lực trong sức lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động của nước ta trước hết qua giáo dục đào tạo và phát triển khoa học công nghệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng then chốt đủ sức trang bị khí tài hiện đại cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Đây là coi trọng khu vực chế tạo tư liệu sản xuất để chế tạo tư liêuh sản xuất trong quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng của xã hội trên cơ sở kĩ thuật cao.
Đồng thời không coi nhẹ việc phát triển tư kiệu sản xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng. Đây là chủ trương đúng đắn kịp thời.
Phát triển mạnh công nghiệo chế biến: công nghiệp chế biến là lĩnh vực công nghiệp làm tăng thêm giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Điều đó vô cùng cần thiết và thích hợp với điều kiện nước ta có lực lượng lao động rất dồi dào nhưng thiếu việc làm, tạo ra được nhiều việc làm, thu hút thêm được nhiều người lao động, đấy là một trong những yêu cầu hàng đầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Lĩnh vực nông – lâm – ngư là rất rộng lớn, đang đòi hỏi và tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp chế biến, vừa thu hút được lao động, tăng thêm gí trị, lại tăng chất lượng hàng hóa góp phần làm giàu nhanh chóng cho đât nước. Tài nguyên khoáng sản là một tiềm năng kinh tế lớn của nước ta, nếu đẩy mạnh việc phát triển công nghiệp chế biến ở đây thì càng có ý nghĩa phát triển lực lượng sản xuất và càng thêm giàu có. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến là một chủ trương lớn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Coi trọng phát triển công nghệ cao, công nghệ phần mềm, từng bước phát triển kinh tế tri thức mới là lực lượng sản xuất mới. Tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa rút ngắn gia đoạn, thực hiện lợi thế của nước đi sau. Phát triển công nghiệp phần mềm tốn ít vốn, không ô nhiễm môi trường, thu lợi nhuân lớn, rất phù hợp với khả năng, sở trường của con người Việt Nam.
Phát triển lợi thế của những ngành nghề truyền thống, thế mạnh của từng vùng kinh tế, đó là một khía cạnh, phát huy tiềm năng của cả sức lao động và đối tượng lao động ở những nơi có thể sản xuất ra những hàng hóa đặc thù, có chất lượng cao, đương nhiên vẫn còn phù hợp với nhu cầu và thị hiếu trong nước và thế giới. Tuy nhiên chúng ta noi ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất không có nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất một cách cô độc, càng không có nghĩa chỉ phát triển lực lượng sản xuất. Ở đâu có lực lượng sản xuất thì ở đấy có quan hệ sản xuất, ở đâu có quan hệ sản xuất nên Đảng ta chủ trương phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.
2.2.2) Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam.
20 năm qua, đất nước Việt Nam chúng ta đã đi được bước tiến dài, những kết quả tuyệt vời. Nhưng mỗi thời kì khác nhau của đất nước cần có những bước đột phá khác nhau, cần xung dột mới để bước tiếp. Nếu chúng ta bằng lòng và chủ quan có nghĩa là chúng ta không thể cất cách cao xa nhanh và vững chắc trong cuộc đua toàn cầu như mơ ước. Chính và vậy thông qua đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4 - 2006) Đảng ta đã đề ra chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay:
*) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là:
Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá. Phát triển mạnh thương mại trong nước; tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu. Đẩy mạnh tự do hoá thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ cao cấp, có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn.
Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển. Hiện đại hoá và đa dạng hoá các hoạt động của thị trường tiền tệ. Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước vững mạnh về mọi mặt. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề, lao động nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử dụng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy công quyền. Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống thông tin về thị trường sức lao động trong nước và thế giới. Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý ở những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển.
Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức lao động nhằm bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt.
Thu hút mạnh nguồn lực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24742.doc